CÂU TÔM HÙM
(Nguyễn Ngọc Hanh)
Ngày trước có nhiều lần
tôi dùng cần câu trúc để câu
cá biển ở Dinh Cậu, trên bờ đá
chắn sóng ngay cửa sông Dương
Đông Phú Quốc. Cá lớn, cá nhỏ rất
nhiều, nhưng vì không quăng ra xa được
nên dễ vướng đá làm mất lưỡi
câu. Khi đến Mỹ định cư tôi
mua cần câu máy ngay, vì tôi sống ngay tại
Little Sài Gòn, miền Nam Cali nắng ấm, từ
đây ra biển chạy xe chừng 15 phút.
Cảng biển ở bờ Thái Bình
Dương của Mỹ thì rất nhiều: Cảng
Portland, Seatle, San Francisco, Long Beach, San Diego ... nhưng nơi
tôi ở chỉ có một cảng nhỏ nằm
trong cái vịnh dành riêng cho tàu du lịch
và tàu buồm thể thao là Newport Beach . Tuy nhỏ
nhưng nó cũng có kè đá hai bên
chạy tuốt cả hơn cây số ra ngoài biển,
kè này gọi là water breaker nên cho dù
biển có sóng lớn tạt ngang thì
tàu ra vô vẫn an toàn không sợ bị dạt
vào bờ cát .
Cửa biển Dương Đông có
kè đá thấp vì làm bằng những
cục đá nhỏ, nhưng kè ở đây
họ xếp những cục đá to bằng
cái nhà, cái xe tải,
không biết người ta đã mang từ
đâu về và bằng cách gì mà
rinh nó ra tận ngoài biển như thế
này. Những tảng đá được xếp
liền kề nhau, có đổ thêm ít bê
tông cho dính liền, bề ngang chừng 20m và
dài hơn cây số, ngoài cùng có hải
đăng ánh đèn chớp tắt hàng
đêm và nếu có sương mù
thì lâu lâu nó lại tự động
hú lên ra hiệu cho tàu biết đường
mà vào cửa biển .
Nhớ nhà, tôi thường
đứng nhìn ra biển khơi mịt mù
sương khói.
Cứ khoảng mười hay 15 dặm lại
có một cầu bắc dài ra biển, ngoài
cùng thường là một nhà hàng, cầu
này chân thường làm bằng bê
tông và xe hơi chạy ở
trên được. Lan can ở hai
bên, có ghế băng ngồi câu và cả
hệ thống nước phông-tên để rửa
tay nữa. Cá ở đây nhiều nhất
là cá nục chuối lớn bằng cườm
tay, có khi nó lớn như con cá ngừ
(bonita), cá nục gai thì nhỏ bằng cẳng
cái mà thôi .
Đến mùa hè, người ta đứng
đầy trên cầu, cả người câu lẫn
khách du lịch, mỗi lần có bầy cá
ùa vào thì cần nào cũng dính
cá, có ông mắc nhiều lưỡi
quá, kéo lên cả chục con một lúc,
mà vì từ mặt nước lên đến
cầu cao quá, nên nó dãy kinh hồn,
có khi lên tới nơi chỉ còn ba bốn
con. Cá nục ăn mồi mực, tôm, nhưng ta
chỉ cần một vài miếng mồi khởi
đầu mà thôi, sau khi được con đầu
tiên thì cắt khúc ra cỡ bằng ngón tay mà câu. Nó ăn
vào lúc nước lớn, khi một con dính
thì cả đàn nhào theo, lưỡi câu
có mồi, có chút lông gà, hay có
khi chẳng có cái mốc xì gì, chỉ lấp
lánh ánh mặt trời là nó cũng
đuổi theo táp ráo nạo.
Màn đêm buông xuống, mặt biển
nhìn tối thui thì dùng một cây
đèn lân tinh bằng ngón tay
út, ánh xanh lè mà cột gần thẻo
câu, loại đèn này sáng được
chừng 10g rồi phải vất đi. Câu
đêm có khi dính cá nục, cá
lù đù, cá đuối, còn câu
ngày thì có cá nhám, cá nhòng
(baracuda răng rất bén nên phải xài thẻo
bằng dây cáp). Nếu câu mồi
sống bằng cá cơm, cá lòng tong biển
thì sẽ được cá ngừ rất lớn.
Mồi đủ thứ có bán ngay tại
chỗ, kể cả cá sống. Cá ở Mỹ
hình như "khờ" hơn ở VN, hay là tại
người ta ít ăn cá nên nó còn
nhiều như vậy ?
Mà nghĩ cũng kẹt cho người Âu Mỹ,
những con cá nhỏ, hoặc nhiều xương, nếu
họ không đóng hộp thì làm sao
mà ăn ? Họ cũng không
ăn món canh chua như mình, còn kho cá
lên, gắp bỏ vô miếng bánh mì
thì làm sao mà nhá cho được
? Hóc xương bỏ bà !!
Bởi thế câu lên rồi hầu hết họ
thả xuống biển, còn VN ta thì cứ từng
xô 20 lít (loại thùng nhựa đựng
sơn) chất cá vô xách về hết. Ăn
không xuể thì cho bạn bè, bạn có
chê thì ta ướp muối xấy khô,
có khi còn dám làm nước mắm ở
sân sau nữa, cũng may là cái nắp
thùng sơn tốt quá nó không bị
xì hơi ra, hông thôi hàng xóm Mỹ ngửi
thấy họ gọi cảnh sát vì nghi có
xác chết thúi trong vườn thì thêm
phiền hà lắm lắm.
Với cá nục tươi như thế, tui chỉ
khoái kho nước kiểu Huế để ăn với
bún, miếng thịt cá trắng bóc có lớp
váng mỡ với ớt bột, ớt trái bẻ
đôi, cọng bún trắng ngần, cọng rau
thơm xanh mướt, ôi thôi ăn ngon chết bỏ.
Ngoài ra, còn có thể cuốn con cá nục
vô trong lá mướp, lá nho rồi nướng
trên than, khi chín thì mở lớp lá
mà rưới hành mỡ lên, gỡ thịt
cuốn với bánh tráng rau sống, chấm mắm
nêm thì có khi nuốt cả lưỡi hoặc
chết ... vì bội thực !!!!
Câu trên cầu riết rồi đâm
chán nên tui xách cần đi ra ghè
đá câu cá ngừ chơi, cần câu
cá ngừ dĩ nhiên là cần tốt và
dây to, mồi giả bằng inox sáng lấp
loáng, chỉ có điều phiền là cứ
quăng rồi lại quay vô hoài mau chán lắm,
nên tui móc con mồi sống vô lưỡi
câu rời. Quăng dây và cục
chì lớn ra xa, lấy dây, lưỡi câu
có khoen móc vô đuôi cá mồi
lòng tong sống (smell fish) rồi móc vào
dây chính (phải làm như vậy thì con
cá mồi không bị sút ra văng đi mất
khi mình quăng với cục chì khá nặng
đi xa). Sức nặng của cá mồi sẽ
theo dây mà chạy tuốt ra tới gần
chì neo, nó đong dưa phập phờ, đầu
ngóc lên, đuôi vẫy vẫy làm cho mấy
con cá ngừ ngứa mắt, ứa gan lắm
.. và thế là .. ập, là rồi đời con cá
ngừ !!! Con ngừ khi dính câu thì chạy
như ngựa phi, nó lạng qua lách lại quay tay đã lắm, nhưng khi nó
còn khỏe, ta phải nương thả dây câu
ra bớt, chừng nào nó khờ rồi hãy
kéo vào bờ, chớ không thôi có
ngày trớt quớt.
Một hôm đang câu cá ngừ tui thấy
có ông VN ngồi hút thuốc giữa hai
hòn đá lớn, tay lại cầm
lon bia dở lên hạ xuống, thấy lạ tui
mò đến gần và hỏi:
- Ông làm gì vậy ?
- Câu tôm.
Lúc đó tôi mới để ý thấy
trên cái ống lon có cuốn sợi cước,
tôi hỏi:
- Được con nào chưa ?
- Có mấy con rồi, tui bỏ trong bao bố, dấu
đàng hốc đá kia
cà.
Tui chui vào hốc đá, mở miệng bao
(loại bao bố đựng gạo đã thấm
ướt nước biển) thì tá hỏa, ở
trỏng năm sáu con tôm lớn bằng cổ
chân, chân cẳng râu ria chàm ngoàm
đang dương mắt lên nhìn tui
.
Tui nuốt nước miếng ngồi
gần đó nhìn anh ta câu, bỏ mặc cần
câu và thùng cá của tôi ở tuốt
đàng xa. Nhìn kỹ
mới thấy anh cắt thịt cá nục
tươi ra bằng cỡ ngón tay
mà móc vô lưỡi ba ngạnh chĩa ra ba
phía, lưỡi câu bằng i-nóc lớn
như cây tăm, bên dưới lưỡi
câu chừng một gang tay là cục chì bằng
ngón chân cái. Dây câu rất
lớn có thể bằng cây tăm tròn,
và dài khoảng 10m mà thôi. Những
cục đá tuy xếp cạnh nhau nhưng còn
nhiều lỗ hổng tạo thành những cái
hang thiên nhiên cho tôm trú ẩn, người
ta chỉ cần thòng mồi vào giữa khe
các tảng đá mà câu.
Tôm hùm ở Mỹ chia làm hai loại:
Tôm có râu sống ở Thái Bình
Dương thì không có càng, tướng
nó trông oai phong như viên tướng Tàu
trong cải lương Hồ Quảng; Loại thứ hai
là tôm có càng to như càng cua, sống
ở Đại Tây Dương mà ta thường
gọi là Maine Lobster vì ở tiểu bang này
có nhiều lắm.
Hầu hết tôm bán trong nhà hàng
đồ biển là tôm có càng, ăn dở hơn tôm râu dài nhiều
lắm. Thỉnh thoảng tui thấy ở chợ
có bán loại tôm ngon này, giá dĩ
nhiên mắc hơn một chút, khoảng $9/pound
có nghĩa là dưới $20/kg. Ấy vậy
mà bên Úc bán tới 25 đô, nhưng
khi thấy ở Nha Trang bán tới 40 đô /kg
thì mấy thằng Việt Kiều dỏm như tui
đành lè lưỡi và rút lui có
trật tự. Bán gì mà mắc quá dzậy,
chỉ có những đại gia, mấy anh Tàu
hay Đại Hàn mới dám mua ăn
mà thôi.
Thấy tui ngồi dòm với ánh mắt
thèm thuồng quá, anh kia mới
chia cho tui ít lưỡi ba ngạnh và dặn
nên cẩn thận vì khi bị sóng
đánh hay con tôm tha cục mồi vô kẹt
đá thì phải bứt đứt lưỡi
câu là cái chắc, mà lưỡi câu
thì anh ta gần hết rồi. Tui hún hớn
làm y hệt (monkey see, monkey do) và y như rằng,
chưa biết mùi vị con tôm ăn mồi ra
làm sao thì đứt mất mấy cái lưỡi,
đành ngồi đực mặt ra mà ngó
anh ta kéo lên mấy con tôm liên tiếp.
Khi anh chuyển ra ghè đá sát biển
vì lúc này nước đã ròng
sát, tôi cũng đi theo như
một đứa trẻ con thấy chuyện lạ, bỗng
anh ta giựt mạnh rồi cứ kéo lên
buông xuống hoài, sau cùng nói nhỏ:
- Con tôm này lớn lắm, nhưng tôi bị
vướng vô một đám dây cước
đã móc vào đá, chắc điệu
này phải bứt dây bỏ !
Tôi vội nói khoan đã
và nắm lấy sợi dây câu, nó giựt
búng liên hồi.
Quay qua quay lại chỉ thấy hai đứa tôi
và trời cũng tồi rồi, chỉ còn
ánh sáng của hải đăng gần
đó, tôi bèn làm một phát
"***y" rồi nhảy ào xuống biển,
phăng theo sợi dây câu xuống khoảng
vài thước nước thì vơ vào tay một
con tôm chừng 1 kg đang lùng nhùng trong
đám bùi nhùi cước câu mà ai
đã vất bỏ xuống đây từ đời
nào. Tôi ôm chú tôm và
trụ chân vô tảng đá bứt và
rinh toàn bộ chiến lợi phẩm gồm tôm,
lưỡi câu và cả chục cục chì
lên bờ.
Lúc định bỏ con tôm vào bao bố
thì nguời bạn mới quen nói:
- Con này tôi định bỏ, mà anh bắt
được thì là của anh. Nhân tiện
hôm nay tôi câu được khá nhiều
nên biếu thêm anh vài con ăn
lấy thảo.
Không còn sự vui mừng
nào hiển hiện trên mặt tôi hơn
lúc đó, tôi cám ơn rối rít
và mang ngay ba con tôm về khoe với vợ, vất
cả thùng cá ngừ xuống biển không
thèm cầm về. Và chắc các bạn cũng
đoán được là hôm sau tôi ra biển
rất sớm với đầy đủ lưỡi
câu cùng chì. Phen này tôm hùm
chết cả lũ với tôi.
Thế nhưng cuộc đời đâu có
dễ ăn ngay như rứa ?? Cả tuần sau tôi mới bắt đầu
câu được tôm, có ngày vài con
cũng có khi cả chục con. Tôi ra thư viện kiếm sách nói về
tôm hùm mà đọc.
Cách đây hơn 100 năm
tôm hùm bò lổm ngổm trên bãi biển
của Mỹ mỗi khi triều xuống, nhiều đến
nỗi không ai muốn ăn. Khi chiến tranh Nam Bắc kết liễu,
chế độ nô lệ đã bị bãi bỏ,
người ta phải mướn người làm
và thường thì trong hợp đồng
có câu: "Không bắt công nhân ăn tôm hùm 1 tuần 2 lần".
Đúng là chuyện lạ !
Nhưng bạn hãy tưởng tượng coi, nếu
bắt chúng ta ăn tôm hùm rang muối mỗi
lần 1 con tổ chảng và ăn hai lần một
tuần thì liệu bao lâu chúng ta sẽ
khóc thét lên ? Những ngày ấy, người
ta dùng tôm hùm để nuôi tù, hay
bóc ra làm mồi câu cá, uổng ghê !!! Loài tôm hùm có khi
bị thợ lặn bắt gặp nó kéo đi
nhón gót từng đàn như đi diễn
binh, hình như đó là ngày đi
tìm bạn tình. Con tôm to nhất mà
tôi thấy đăng trên báo Register là nặng
hơn 80pound (40kg) do thợ lặn bắt được ở
kè đá Balboa này.
Khi đã câu có kinh nghiệm, tôi
có thể cảm thấy được qua dây
câu là con tôm đang bám mồi, râu
nó cạ vô như có ai lấy cái que
đóm thuốc lào mà cà lên dây
đờn vậy, sau đó nó ghì mồi
để kéo vô hang, cũng có khi hang ở
phía cao hơn ta sẽ thấy dây bổng nhẹ
tênh (như kiểu bình phao). Lúc bị
ghì hay bị bổng mà giựt mạnh thì
thế nào cũng dính, nhưng đưa
được tôm lên bờ lại là chuyện
khác: Miệng con tôm nhỏ và cứng ngắc
nên ít khi lưỡi dính vô miệng
nó, mà thường là xóc vô khớp
chân . Khi kéo nó lên
thì nó nằm êm ru, nhưng
vừa quá khỏi mặt nước là nó
búng cái bạch, cả con tôm to lớn rớt
tõm xuống biển và thằng cha câu tôm
thì ngồi vân vê cái cẳng tôm lớn
như cây đũa mà tiếc hùi hụi.
Có người sẽ hỏi là tại sao
không dùng vợt mà xúc, xin thưa là
khe đá nhỏ tí, làm sao thò vợt xuống
được, có khi dính con tôm lớn
phía dưới đáy mà khe phía
trên lại nhỏ nên lấy thế lượn
qua kéo lại thật lâu , đến
nỗi khi lên tới nơi râu ria gai góc
trên đầu chú tôm bị cà vô
đá trụi lủi coi như thằng trọc.
Những ngày đi câu về khuya, tôi
đành hấp tôm lên hết, tống vô tủ
đá rồi đem cho bạn bè vào
ngày cuối tuần. Mấy đứa con tui chê
mùi tôm thúi (tổ cha tụi nó) còn
"bà nội" tui thì mới có bầu
nên ngửi thấy mùi tôm luộc là lại
ói, thế có tức không ?
Nhớ hồi mới qua, thèm ăn tôm quá phải
chạy tuốt qua Mễ ăn một con 10 đồng,
bây giờ có nhiều thì lại "chảnh".
Tết Nguyên Đán xong, tôi rủ
người bạn đi câu mấy con tôm để
cúng giỗ ông già vợ (ổng mất
ngày mùng 8 tết), hai anh em hút hết gần
gói thuốc rồi, trời đã khuya lắm
mà bị tổ trác hay sao câu không
được con nào, chúng tôi bảo nhau cuốn
dây đi về thì lưỡi dây của
tôi như vướng vào nhánh rong lớn,
nhưng kéo thì nó lại lên. Khi ánh
đèn pin tôi đeo trên trán chiếu xuống
mặt nước tôi thấy hai con mắt đỏ
kè, tôi la:
- Mực ma ông ơi, tiếp tôi với.
Hai thằng hì hục kéo lên thì ra
một con tôm nái, nó dãy dữ dội
quá nên tay có găng mà
chúng tôi đều toé máu mới dồn
nó vô bao được. Con tôm đưa về
cân hơn 8pound (gần 4kg), phải lấy cái nồi
nấu phở 40 lít mới bỏ nó vô
mà hấp được. Lúc bỏ vô
cái dĩa làm bằng foil nó còn thò
đầu thò đuôi ra ngoài coi kềnh
càng như một Dương Vận Hạm.
Khói hương nghi ngút, ông nhạc
tôi ngồi trong hình mặc áo dài khăn
đóng coi trịnh trọng lắm, ông nhìn
con tôm, nhìn ly rượu Remy mà tôi mới
rót ra, ánh mắt long lanh như muốn nói với
thằng rể:
- Khá lắm ! Phải chi
còn mấy đứa con gái nữa, tao cũng gả
hết cho mày !
NGUYỄN
NGỌC HANH
(Bai Chuyen)