Chân Dung Phụ Nữ
Việt Hải Ngoại
(NGUYỄN P. HƯNG)
Bút hiệu là tên thật
của tác giả, cư dân Houston từ 1975. Năm 2004, khi 57
tuổi, ông góp cho giải thưởng bài
“Xóm Đạo Houston” và nhận giải
đặc biệt Viết Về Nước Mỹ. Sau
đây là bài mới của ông. Trong lời
thưa trước, tác giả viết: Đây
là một bài viết ghi nhận những nét
đặc biệt về Phụ Nữ Việt Nam Hải
Ngoại (PNVNHN). Với các dữ kiện thống
kê còn thiếu sót, một bài viết thuần
túy về các dữ kiện khó có thể
hoàn hảo, không khỏi có tính cách
chủ quan. Tuy nhiên, người viết vẫn cố
gắng loại bỏ thiên kiến và hy vọng
trình bày được một chân dung trung thực
về PNVNHN.
*
PNVNHN là những ai và họ nên
được xắp hạng như thế nào cho hợp
lý ?
Trong giới hạn của bài viết, và
trước sự đa dạng, không thống nhất
của các sự phân loại, chúng tôi xin
tạm đề nghị một sự sắp hạng
như sau: PNVNHN có thể chia làm hai thế hệ
chính: thế hệ thứ nhất gồm những
người đã trưởng thành vào
năm 1975, tức là họ đã ít nhất
20 tuổi vào thời điểm đó và thế
hệ thứ hai gồm những phụ nữ chưa
đầy 20 tuổi vào thời điểm 1975 hay
được sanh ra và lớn lên ở hải
ngoại sau 1975.
Thế hệ thứ nhất có thể chia
làm hai nhóm, nhóm thứ nhất gồm những
người đã đứng tuổi, tức là
khoảng 40-50 tuổi trở lên vào năm 1975;
nhóm thứ hai gồm những người từ 20
đến 40 tuổi vào thời điểm
đó. Tạm gọi họ là thế hệ 1A
và 1B, để tiện việc trình bày.
THẾ HỆ 1A
Vào thời điểm này, các người
thuộc thế hệ 1A chắc không còn nhiều
lắm. Hơn 30 năm trôi qua, nếu ai còn chắc
cũng 70-80 tuổi. Trong 30 năm qua, họ cũng
đã từng góp phần tích cực
vào cuộc sống cho gia đình họ và
cho cộng đồng VN hải ngoại và quốc nội.
Thế hệ này có lẽ là thế hệ
chịu nhiều thiệt thòi hy sinh nhất trong cuộc
đời di tản, cả nam giới và nữ giới
cũng vậy. Ở thời điểm 1975, số phụ
nữ Việt có đủ trình độ ngoại
ngữ để sống ở nước ngoài
có lẽ rất hiếm hoi. Đời sống của
họ ngay lúc còn sống tại Việt Nam đa số
cũng không ngoài việc nội trợ gia
đình, một số rất nhỏ làm các
nghề chuyên môn như giáo sư, bác sĩ,
luật sư và thương mại. Khi ra nước
ngoài, vốn liếng ngoại ngữ gần như
hoàn toàn không có nhưng họ vẫn phải
vất vả giúp chồng con chống đỡ gia
đình. Ngay cả những bác sĩ, luật
sư, ... lúc ra nước ngoài, vấn đề
ngôn ngữ và luật pháp hành nghề
thay đổi làm nhiều người phải bỏ
nghề. Những nhu cầu cấp bách trong cuộc sống
không cho phép họ ngồi chơi. Có rất
nhiều bà từ lâu chưa từng phải ra khỏi
nhà, vì ở Việt Nam, người chồng
lo hết mọi chuyện bên ngoài, các
bà chỉ lo nội trợ, nay phải ra ngoài
xã hội làm lụng vất vả phụ chồng
nuôi con. Những bà mẹ Việt Nam cũng
đã vùng lên phấn đấu, sống
trong xã hội tây phương, làm đủ
các việc khó khăn để gây dựng
cho con cái, vì với họ, cũng như hầu
hết người Việt Nam lúc đó, thì
dù có khổ cực sao đi nữa vẫn
còn hơn đời sống vô vọng của những
ngưòi trong nước.
Nếu chỉ dùng tài liệu thống
kê để ghi lại thành quả của thế
hệ này, chắc chắn chúng ta sẽ phạm
một lỗi lầm rất lớn vì tìm
đâu ra một tài liệu thống kê ghi lại
sự đóng góp hy sinh vô bờ bến của
thế hệ này. Hãy tưởng tượng một
bà nội trợ Việt Nam, chưa từng
nói một câu tiếng Anh, tiếng Pháp, một
buổi sáng thức dậy, thấy mình sống
trong xã hội tây phương. Bà vùng dậy,
dọn bữa ăn sáng cho chồng con, (nếu may mắn
có chồng con di tản được) thay vội
áo quần, băng ra ngoài mưa tuyết, xuống
xe điện ngầm, đến sở làm, ở
Montreal, ở Paris, ở New York, hay các nơi lạnh
cóng trên thế giới.
Thủa xưa các bà Mẹ Việt Nam
chân lấm tay bùn, ngày nay các bà mẹ
ở hải ngoại cũng không kém gian nan cực
khổ, có lẽ còn hơn thế nữa vì
quanh họ không có ai, không bà con thân
thuộc, toàn những xa lạ khó khăn,
và nhất là ngôn ngữ bất đồng.
Trước mắt họ, chẳng có gì là
hạnh phúc, ngoài hình ảnh các đứa
con đang cần sự hỗ trợ của họ để
được đến trường, học cho nên
người, chứ không trở thành những
cái máy của một chế độ phi
nhân tại quê nhà, trong thập niên 1980.
Các bà mẹ Việt Nam sống hùng, sống
mạnh chỉ vì một lý tưởng mãnh
liệt: làm sao cho các đứa con của họ
được thành người trong một xã hội
tự do bình đẳng. Chưa hết, họ
luôn luôn nghĩ đến những người
còn kẹt lại. Cuộc sống riêng tư của
họ dường như không có nữa. Ngoài việc lo cho con
cái được ấm no, được đến
trường, họ còn cố gắng dành giụm
để tiếp tế cho các người thân
còn kẹt lại trong nước, có thể là chồng, là
con trai, là ông, là cha, là chú, đang nằm
trong trại tù cải tạo, hoặc đang lo vượt
biên, hoặc còn đang lêu bêu ở
các trại tị nạn Thái lan, Mã lai, Nam
Dương hay đâu đó. Mỗi tháng
các gói quà chuyển về Việt Nam chiếm
hết một phần không nhỏ trong ngân quĩ
gia đình. Họ sống như các nhà tu khổ
hạnh, không dám ăn diện, không dám
giải trí. Niềm vui của họ là
đàn con được cắp sách tới
trường, là có chút quà gởi về
cho gia đình, cho những người thân thiết
đang ngóng cổ chờ. Hàng năm, số tiền
gửi về Việt Nam không nhỏ mà các
nhà kinh tế đã cho thấy chính những
số tiền các gia đình Việt Nam gửi
cho người thân ở Việt Nam, đã
là một nguồn tài chính cho chính phủ
Việt Nam vượt qua được những khó
khăn kinh tế trong mấy thập niên qua.
Không có các bà mẹ Việtnam thế
hệ 1A, và sau này thế hệ 1B, thì
Chính phủ Việt Nam khó mà có
được các nguồn tài trợ kinh tế
khổng lồ như thế. Ngày nay, hơn 30 năm
sau, một số các bà đã không
còn nữa. Những người còn sống, một
số đang sống cùng con cháu, một số sống
trong các viện dưỡng lão. Họ
đã già, đang hưởng tiền già, tiền
hưu, mà tâm tưởng họ đang nghĩ
đến ai ? Các cụ già vẫn nghĩ đến
con cháu và các người thân sơ ở
quê nhà. Các cụ vẫn để dành
tiền già, gởi về cho con cháu hay các viện
mồ côi ở quê nhà để giúp
đỡ những người kém may mắn. Niềm
vui của các cụ là được gửi
thân tàn tại quê nhà nhưng mấy ai
làm được điều đó ?
THẾ HỆ 1B
Thế hệ này gồm những PNVNHN ra khỏi
nước khi vừa mới lớn, tuổi chừng 20
và bây giờ ít ra cũng đã 50 tuổi.
Nhóm này có lẽ là nhóm chịu nhiều
thay đổi trong cuộc sống và đạt nhiều
thành quả hơn thế hệ 1A. Nhiều người
trong nhóm này có khả năng thay đổi
kịp thời, gia nhập vào xã hội Tây
phương nhưng họ cũng phải qua những giai
đoạn vô cùng cô đơn và cam khổ.
Hãy tưởng tượng một cô nữ sinh
Gia Long, Trưng Vương vừa học hết lớp
12, sửa soạn vào đại học hay đang cắp
sách đến đại học, đầy thơ mộng.
Bỗng nhiên sau ngày 30 tháng 4, 1975 họ bị
ném vào đời sống trên đất
Pháp, Hoa Kỳ, Canada, Úc, hay Thụy Sĩ,...
không phải với tư cách một du học
sinh mà là một người di tản, và bắt
đầu cuộc sống tự lập bất đắc
dĩ.
Mấy ai có khả năng lì lợm,
không rơi nước mắt, khóc cho mình,
khóc cho cuộc tình dang dở, khóc cho số
phần điêu linh của gia đình và đất
nước. Có nhiều cô tự nhiên trở
thành cột trụ gia đình vì bố mẹ
không còn bên cạnh nữa. Hay có còn
bên cạnh thì cũng không có khả
năng dìu dắt nữa. Bên cạnh cô,
còn một đàn em nhỏ. Cô bỗng
nhiên trở thành Bà Mẹ Trẻ bất
đắc dĩ, dù chính cô cũng đang
quá bơ vơ.
Tinh thần trách nhiệm và tình
thương cố hữu của một người phụ
nữ Việt Nam đã sống dậy trong cô,
đã giúp cô quên mình và lăn xả
vào cuộc sống, vừa đi học, vừa
đi làm. Làm bất cứ việc gì để
kiếm sống cho chính mình và những
người thân, miễn là những việc
lương thiện, không làm vẩn đục
lương tâm cô. Xin hãy tưởng tượng
một cô sinh viên Văn Khoa tối ngày mộng
mơ, một sớm một chiều bỗng trở
thành cô bé lọ lem, bập bẹ nói tiếng
Anh, tập làm phụ bếp trong một nhà
hàng. Chỉ mới được làm phụ bếp
thôi, vì cô có biết làm gì trong
nhà hàng đâu. Kiến thức chuyên
môn của cô cũng như sự từng trải
cuộc đời cô chưa từng có. Tuần
đầu cô được rửa nồi niêu
soong chảo. Cô nhỏ xíu. Nhân viên trong
nhà bếp của một nhà hàng cô
làm cũng tội nghiệp cho cô. Bưng nổi
cái nồi to hơn cô đi lau chùi trông tức
cười mà tội nghiệp. Tuần sau cô
được chuyển qua làm việc lặt rau,
có lẽ vì cô bưng không nổi chiếc
nồi to. Lặt rau mà cô cứ run lên như
bị sốt rét. Cô có bị cảm
không ? Bà Mỹ đen hỏi. Nước mắt
dầm dề, cô chỉ vào con sâu đo
mà mặt tái mét.
Tuần sau, cô lại được đổi
qua tập làm bánh, chắc là bà Mỹ
đen quá tội nghiệp khi nhìn khuôn mặt
tái xanh của cô. Bưng một nồi bột
quá nặng với cô, cô đâu dám
than van hay từ chối. Nói làm sao cho xếp hiểu
bây giờ đây ? Thôi cứ gồng mình
bưng thử. Dĩ nhiên cô bưng không nổi,
và nồi bột đổ tràn lan trên
sàn bếp trước sự sửng sốt của mọi
người và cô ôm mặt khóc ròng.
Những thảm cảnh như thế cứ xảy ra rất
thường trong những ngày mới ra đời tại
hải ngoại. Nhưng rồi với ý chí can
cường, cô cũng vượt qua hết. Khổ cực
đã là những động cơ thúc đẩy
cô tiến lên, thoát ra khỏi cảnh địa
ngục trần gian. Một điều an ủi là
cô có những người thông cảm nỗi
khổ, những người chung sở giúp đỡ
cô, xã hội tự do thông cảm và sẵn
sàng nâng cô dậy. Cô vẫn có
được tự do. Cô vẫn hưởng
được tất cả những gì cô
làm ra, cô được bình đẳng với
mọi người trong một xứ sở tự do.
Cô ráng ngày đi làm, đêm về học
thêm, chẳng mấy chốc cô đã có
nghề chuyên môn, thay đổi công việc
khá, hợp khả năng và nhẹ nhàng
hơn. Thời gian qua mau, những ngày làm việc
lao động cực khổ hình như đã xa
lắm. Rồi đàn em khôn lớn, chúng
đã tự túc được phần nào.
Một ngày đẹp trời cô cũng lên xe
hoa, lập một gia đình mới cho riêng
mình. Những đứa con ra đời. Người
phụ nữ lại xả thân lo cho con. Không
như thế hệ mẹ cô, cô vẫn vừa
đi làm vừa lo chuyện gia đình nội trợ.
Hơn thế nữa, nuôi con ở hải ngọai
không giản dị như ở quê nhà
nhà ngày xưa, không chỉ lo cơm no áo
ấm là đủ. Cô còn phải lo nhiều
thứ khác nữa, nào là cho con chơi thể
thao, tập đánh đủ loại banh, tập ca nhạc,
đàn hát, hướng đạo, cắm trại,
vân vân... để cho con được bằng với
bạn bè. Rồi lại còn chở con đi học
chữ Việt, để mai sau chúng còn biết
tổ tiên nguồn cội Việt Nam, còn nói chuyện
được với Ông Bà. Cô muốn
các con cô phải là những công dân tốt,
được ăn học và giáo dục
ít ra cũng như người bản xứ có
giáo dục, chứ không thể là những
người tầm thường thất học để
sau này chúng không phải suốt đời
cúi mặt làm những việc lao động
như những người thiểu số thất học.
Cô không muốn các con cô phải đi lại
những bước chân buồn khổ cô
đã phải dấn thân qua để vượt
lên. Cô cũng muốn con cô là những
người Việt Nam, hãnh diện với nòi giống
Rồng Tiên. Cô có niềm tự hào
là dù cho có bị xa quê chạy nạn cộng
sản, đời sống cô vẫn phong phú
và can cường hơn. Cô muốn chứng tỏ
là họ đã sai lầm khi thi hành các
chính sách thù ghét tàn bạo,
đưa đất nước lùi lại bao
nhiêu năm. Thế hệ của cô và
các con cô vẫn vững mạnh và một
ngày nào đó sẽ trở về xây dựng
lại đất nước, phục hồi lại những
truyền thống bao dung tốt đẹp của dân
Việt. Bây giờ đã đứng tuổi,
nhìn lại những ngày phấn đấu để
sống còn nơi xứ người, cô không
khỏi ngạc nhiên với nghị lực dũng
mãnh của chính mình.
Cuộc đời phấn đấu không ngừng như vậy rất tiêu biểu
cho phụ nữ Viêt Nam hải ngoại. Họ
khác hẳn thế hệ trước và năng
động hơn nhiều. Họ không những
là các bà mẹ Mỹ, mẹ Pháp....
mà họ còn là các bà mẹ rất
Việt Nam nữa. Họ vẫn còn phải lo
'đóng hụi chết' cho bà con ruột thịt
còn sống vất vưởng nơi quê nhà.
Những gói quà, những phần tiền
dành dụm gởi về cho người thân
là những niềm hy vọng lớn lao cho những
người ở nhà nhưng cũng là những
gánh nặng đè lên đôi vai gầy của
những phụ nữ Việt Nam hải ngoại. Những
hình ảnh bi hùng đó hiếm ai nhìn
thấy, kể cả những người đang chịu
ơn họ ở quê nhà. Chính những
người thân trong gia đình cũng thường
tưởng họ đang sống trên nhung lụa
như trong các phim ảnh hào nhoáng. Có
bao giờ họ dám kể những nỗi cực khổ
của mình cho cha mẹ, anh em.
Chính quyền cộng sản ca tụng những
đồng tiền hàng tỷ đô-la gửi về
nhưng không hề biết đến công khó
của họ mà còn lắm khi bôi nhọ
các sự hy sinh của họ. Thật là một
điều đáng buồn và bất công.
Không phải tất cả các phụ nữ Việt
lúc ra hải ngoại đều thành công cả.
Dĩ nhiên đã có những người chịu
không nổi áp lực tứ bề của cuộc
sống, của sự cô đơn và thất vọng
nên đã thất bại và vẫn còn phải
sống cơ cực, nhưng đa số đã
vươn lên và thành công tốt đẹp.
Nếu không, làm gì ta có một thế hệ
thứ hai đang sống rất vững mạnh tại hải
ngoại ? Đó là một sự kiện hiển
nhiên không ai có thể chối cãi đuợc
dù ta đang sống ở đâu đi chăng nữa.
Cuộc sống kinh tế khó khăn nhưng họ
vẫn vượt qua và có những sinh hoạt
văn hóa rất đáng kể. Những người
PNVNHN hình như đã thay đổi rất nhiều
để thích ứng với hoàn cảnh mới.
Cộng đồng Á Châu nói chung, và cộng
đồng Việt Nam
nói riêng đã khác hẳn với
các cộng đồng thiểu số khác với
sự lớn mạnh, hòa hợp và trưởng
thành mau lẹ vào đời sống mới. Họ
đã mau chóng ra khỏi giai đoạn được
bảo trợ, sống nhờ vào các hệ thống
từ thiện và an ninh xã hội của các
nước họ định cư và trở
thành những thành phần đóng góp
tích cực vào đời sống văn hóa
và sự thịnh vượng kinh tế cho các xứ
sở mới đang dung chứa họ. Họ đã lột
xác để trở thành những con người
đa dụng hơn so với thế hệ trước. Họ đã tham gia vào
các sinh họat trong xã hội mới, làm những
nghề mà trước đây phụ nữ
ít khi đặt chân tới. Ngoài những nghề
rất thông thường trong giới phụ nữ
như buôn bán, dạy học, y tá, bác sĩ,
nha sĩ, ... ta còn thấy nhiều khuôn mặt phụ
nữ trong các lãnh vực luật pháp,
ngân hàng, quản trị, tài chánh, địa
ốc, bảo hiểm, truyền thông, vân vân.
Một số đã làm chủ hay điều
khiển các đài phát thanh hay những
công ty tài chánh, thương mại. Họ cũng
hoạt động mạnh trong lãnh vực nghệ
thuật như ca nhạc hội họa và phim ảnh.
Trong giới nghệ sĩ chúng ta không lạ
gì những tên tuổi như Kiều Chinh, Mai
Hương, Kim Tước, Khánh Ly của thế hệ
1A hay những khuôn mặt trẻ trung hơn như
Khánh Hà, Ý Lan của thế hệ 1B. Trong
văn giới phải kể đến Nhã Ca và
những tài năng trẻ hơn như Mai Ninh, Phan Thị
Trọng Tuyến, Miêng, Đỗ Quỳnh Dao tại
Pháp, Trần Mộng Tú tại Hoa Kỳ và
nhiều người nữa. Trong lãnh vực hội họa
có Bé Ký, Nguyễn Thị Hợp, vân
vân. Rất nhiều người tuy tên tuổi
không thường được nhắc đến
nhưng đã đóng góp không ít cho
đời sống cộng đồng Việt ở hải
ngoại. Sự hiện diện phồn thịnh của
các cơ sở thương mại Việt Nam ở
California, Texas, Washington, Washington D.C, hay ở Canada, Pháp,
Australia và rất nhiều nơi khác trên thế
giới là những bằng chứng cụ thể do
những bàn tay và khối óc của PNVNHN.
THẾ HỆ THỨ HAI
Thế hệ thứ hai tiếp nối những
thành quả của Mẹ. Thế hệ này
bây giờ đã trên 30 tuổi. Một số
rời Việt Nam lúc chưa tới 20 tuổi và
trưởng thành ở hải ngoại. Một số
sinh ra và lớn lên ở hải ngoại. Họ
đã hấp thụ văn hóa tự do xứ
người và đã chứng tỏ một sự
lột xác rõ rệt, thoát ra khỏi sự
gò bó cổ truyền, tiếp nhận văn minh
Tây Phương, thể hiện một đường
lối sống tự do nhưng vẫn duy trì những
cái hay, cái đẹp của truyền thống Việt
Nam và cũng rất thành công trong mọi
lãnh vực.
Sự đóng góp của những người
con gái Việt Nam
sinh ra hay lớn lên ở hải ngoại có nhiều
sắc thái đặc biệt. Đa số, họ
nhìn cuộc đời lạc quan và cởi mở
hơn, ít bị ám ảnh bởi chiến tranh
và đau khổ ngục tù của thế hệ
trước.
Cuộc chiến trước 1975 dường như
chỉ là bóng mờ. Một số cũng
có nhiều khắc khoải, muốn trở về nguồn
cội, tìm lại tình yêu quê hương
một cách rất hồn nhiên, không oán
thù sợ hãi. Mặc cảm của người
di tản dường như không còn nữa. Họ
trực diện với cuộc đời, tranh đấu
ráo riết để thành công trong mọi
lãnh vực. Rất nhiều trường hợp, sau
khi đã thành công, họ hướng về
nguồn cội, tìm lại cá tính của
chính mình, khi nhận ra mình có một
cái gì khác lạ với dân bản xứ,
dù chính họ cũng sinh ra trên cùng một
đất nước, và đôi khi chính cha,
hay mẹ họ cũng là người bản xứ.
Họ nhận ra trên khuôn mặt họ vẫn
có một nét gì rất Á Đông, rất
Việt Nam. Họ trở về, hoặc là trên những
chuyến du lịch thăm Việt Nam, hoặc là trong
các sinh hoạt tâm linh sáng tạo nghệ thuật.
Với họ, các gánh nặng, trách nhiệm
trợ giúp kinh tế cho người thân tại
ViệtNam không còn nữa. Họ nhìn lại
hoàn cảnh đất nước Việt Nam với
cái nhìn khác hơn thế hệ trước.
Họ sốt sắng tham dự vào các phong
trào từ thiện, cứu giúp người
nghèo khó, các trẻ mồ côi với
tình đồng loại chứ không phải
như người ruột thịt nữa. Tại các
nơi đang sống, họ tham gia vào các sinh hoạt
như một công dân bản xứ. Ngoài
các hoạt động lo cho sinh kế, họ bắt
đầu tham dự vào các sinh hoạt chính
trị địa phương như những người
bản xứ đích thực. Thực ra họ
đã trở thành người bản xứ,
tích cực tham dự vào cuộc sống địa
phương. Quê hương Việt Nam đối với
họ chỉ là những khắc khoải tâm linh,
muốn tìm lại nguồn cội mà thôi.
Dĩ nhiên họ cũng đang đóng một
vai trò quan trọng trong cuộc sống gia
đình, họ cũng phải cố gắng lo về
sinh kế nhưng khác hẳn với thế hệ
trước, họ sẵn sàng chọn việc
làm mà họ thích thay vì việc làm
đem lại nhiều lợi tức. Tinh thần tự do cá
nhân, độc lập kinh tế được thể
hiện rõ rệt ở thế hệ này vì dù sao họ cũng
không còn tiêm nhiễm văn hóa Việt Nam sâu
xa như thế hệ trước và hoàn cảnh
cũng như khả năng kinh tế của họ cũng
cao hơn thế hệ trước. Họ tự tin
và bình đẳng với phái nam và
có nhiều cơ hội cũng như tinh thần
cá nhân hơn thế hệ trước. Sự tự
tin và tinh thần cá nhân đã được
thể hiện rõ ràng qua các thành quả
mà thế hệ này đã và đang
đạt được.
Ngoài các nghề thường thấy, họ
còn xuất hiện trong lãnh vực tài
chánh, quản trị và chính trị dân cử
nữa. Họ đã chính thức rời khỏi
mặc cảm di dân của thế hệ trước
và bước vào sinh hoạt của 'dòng
chính'. Đã có các thẩm phán, những
chức vị dân cử là phụ nữ gốc
Việt ở nhiều nơi trên thế giới,
đó là điều hiếm thấy ở phụ
nữ, ngay cả các phụ nữ đang sống tại
Việt Nam. Các PNVNHN ở thế hệ này cũng
thấy xuất hiện ở các lãnh vực nghệ
thuật, phim ảnh, thương mại, giáo dục,
thời trang, chính quyền, truyền thông,
quân sự, khoa học kỹ thuật, thể thao. Trong
giới khoa học chúng ta không mấy ai không
biết đến kỹ sư Dương Nguyệt
Ánh, người đang điều khiển Viện
Nghiên Cứu Vũ Khí cho quân lực Hoa Kỳ
và vừa được trao tặng huy chương
an ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ. Danh sách các
thành quả của họ được liệt
kê chi tiết trong các trang trên mạng lưới
toàn cầu, xin tạm liệt kê vài trang
tiêu biểu như sau:
www.covn.org
www.vaylc.org (Nghị Hội
Toàn Quốc Người Việt Tại Hoa Kỳ,
Vietnamese American Youth Leader Conference)
www.ameredia.com/demographics/vietnamese.html
http://en.wikipedia.org/wiki/Vietnamese_American
Lời kết:
Cuộc di tản 1975 và những cuộc vượt
biên tìm tự do của dân Việt trong 20
năm sau đó, đã làm bao nhiêu người
Việt đau khổ cùng cực vì phải bỏ
quê hương ra đi tìm Tự Do. Hàng triệu
người Việt đã phải sống ly
hương trên khắp thế giới. Riêng tại
Hoa Kỳ, thống kê năm 2006 đã ghi nhận
có 1,599,394 người Hoa Kỳ gốc Việt sinh sống.
Dân Hoa Kỳ gốc Việt đã đóng
góp nhiều cho văn hóa cũng như kinh tế
Hoa Kỳ. Dân Việt cũng đã góp phần
tích cực và làm giàu cho văn hóa
và kinh tế các quốc gia đã dung chứa
họ như Canada, Pháp, Úc, Anh, vân vân ...
và đồng thời đã giúp cho nền
kinh tế Việt Nam hàng tỷ Mỹ Kim mỗi
năm, một nguồn viện trợ mà chính quyền
Việt Nam không thể có từ bất cứ một
cường quốc nào trên thế giới.
Đa số Phụ Nữ Việt Nam Hải Ngoại
cũng đã thoát khỏi những khó
khăn ban đầu và thế hệ thứ hai
đang mạnh dạn tiến vào sinh hoạt của
dòng chính tại nơi họ đang sống, xứng
đáng là con cháu của Bà Trưng
Bà Triệu. Họ đã làm rạng danh
dân tộc Việt và mặc dù phải tha
hương, họ vẫn vùng lên sống
hùng sống mạnh trong thế giới Tự Do,
làm giàu cho văn hóa Việt và các
nền văn hóa khác trên thế giới.
Cách đây khoảng 50 năm, nhà
thơ Hồ Dzếnh đã viết về Phụ Nữ
Việt Nam:
"Nếu
chữ Hy Sinh có ở đời
Tôi muốn
nạm vàng muôn khổ cực
Cho
lòng cô gái Việt Nam tươi"
Những vần thơ bất hủ này áp
dụng cho Phụ Nữ Việt Nam Hải Ngoại vẫn
vô cùng thích hợp.
NGUYỄN P. HƯNG
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)