Chiếc phong bì
(Đào Anh Dũng)
Giáo sư Larry Olson đảo mắt nhìn
đám sinh viên lớp ông đang chăm
chú làm bài thi. Hôm nay là ngày cuối
của khóa học “Truyền thông
Thương mại” thuộc lớp đêm,
trường đại học cộng đồng Richfield, tiểu bang Nebraska. Giáo sư Olson thầm
mỉm cười khi nghĩ đến chức vị
“giáo sư” người dân tỉnh lẻ
này ban cho ông hơn nửa năm nay. Thật ra,
ông là giám đốc cơ xưởng chế
tạo máy điều hòa không khí GoodAir,
một trong số ít công ty thâu dụng
công nhân tại địa phương hẻo
lánh này. Ông nhận phụ trách một lớp
học, không ngoài mục đích giao tế
nhân sự, tạo mối tương giao tốt đẹp
giữa công ty và dân chúng địa
phương. Năm rồi, đáp lời kêu gọi
của chính quyền tiểu bang Nebraska
nhằm giúp phát triển kinh tế vùng Richfield, công ty
GoodAir mở một cơ xưởng mới toanh tại
đây và bổ nhiệm ông Olson làm
giám đốc. Ông Olson luôn hãnh diện
mình là một trong những tay “đang
lên” của công ty GoodAir. Xong bằng cử
nhân Truyền thông Đại chúng năm 23 tuổi,
ông bị động viên sang phục vụ tại
Việt Nam.
Tưởng sẽ không có dịp thi thố
tài năng trong lãnh vực này mà phải
băng rừng, lội suối hành quân trong thời
gian phục vụ, ông không ngờ mình lọt
vào cặp mắt xanh của vị tướng tư
lệnh. Và ông được bổ nhiệm
vào bộ phận Tùy viên Báo chí của
sư đoàn. Đây chẳng qua nhờ vào
tài ăn nói và ứng biến của
ông trong một chuyến viếng thăm mặt trận
của vị tướng sau một cuộc phản
công thắng lợi. Cái năng khiếu này
giúp ông thành công trong nhiều lãnh vực
từ thời trung học, trong tình trường, chiến
trường, và bây giờ là thương
trường.
Rời bàn viết, ông Olson bước về
hướng sinh viên. Họ vẫn chăm chú
làm bài thi. Lớp học im lặng. Thỉnh thoảng
có tiếng lật trang giấy, tiếng cục tẩy
cọ xát bôi dấu trả lời sai mà
thôi. Lớp học đêm chỉ có 25 sinh
viên, phần đông đã quá tuổi học
trò, trong số có năm người là
nhân viên GoodAir. Họ muốn tiến thân, cũng
như ông cách nay không lâu. Khi ấy, từ
Việt Nam
trở về, ông Olson gặp một chiến trường
khác - nền kinh tế hậu chiến suy thoái, vật
giá leo thang, việc làm khó tìm. Thêm
vào đó là nỗi đớn đau của
những người cựu chiến binh Mỹ phục vụ
tại Việt Nam- xã hội Hoa Kỳ đã
không tiếp đón họ như những anh
hùng mà còn xem họ là những thất
bại cần phải quên. Nhiều đồng đội
của ông Olson đã lâm vào cảnh nghiện
ngập, tâm bệnh, gia đình đổ
nát. Riêng ông không vấp một trở ngại
nào, nhờ vào chính kinh nghiệm của
mình học được trong quân ngũ- sống
sót và thành công qua sự thất bại
của kẻ khác. Ông rời quê Minnesota,
nhất định bỏ dĩ vãng, làm lại
cuộc đời tại miền đất hứa California. Ông
âm thầm nhận một công việc thấp
kém trong công ty GoodAir và ghi danh lớp
đêm, theo chương trình cao học Quản trị
Thương mại tại UCLA nhờ vào học bổng
của công ty. Đến khi chính phủ liên
bang có chương trình yêu cầu các
cơ quan chính quyền và công ty nâng đỡ
cựu chiến binh Việt Nam, quan lộ của
ông trở nên thênh thang. Ấy cũng lại
nhờ tài ăn nói khéo léo của
ông, cộng với việc công ty được
ký nhiều hợp đồng cung cấp máy
móc cho chính phủ. Ông Olson được
nâng cấp qua nhiều chức vụ chỉ huy. Sau khi
xong bằng cao học, ông lập gia đình
và trở thành một giám đốc tại
trụ sở chánh của công ty một cách dễ
dàng. Tuy nhiên, theo truyền thống của
công ty, mọi nhân viên đầu não đều
phải qua kinh nghiệm giám đốc cơ xưởng.
Đó là lý do ông nhận công việc
này và đưa gia đình đến Richfield. Phương
châm của ông là: tất cả cho
thương mại, cho lợi ích mà mục
đích tột điểm là đồng
đô la, là giá trị cổ phần. Lợi
ích của cơ xưởng GoodAir ở Richfield là kết quả của
một cuộc thương thảo “hai bên
cùng thắng, cùng có lợi” do chính
ông đạt được cho công ty. Dân
chúng Richfield
có công ăn việc làm. Công ty GoodAir
được lợi điểm miễn thuế trong nhiều
năm. Và GoodAir có ưu thế của một
cơ xưởng sản xuất không nghiệp
đoàn. Riêng đối với ông Olson,
đây là một nấc thang có thể
đưa ông đến chức vụ chủ tịch
công ty mà ông hằng mơ ước. Ông
Olson mỉm cười thoả mãn.
Ông Olson nhìn cánh đồng phủ tuyết
bên ngoài cửa sổ lớp học. Cách nay
vài tháng đó là cánh đồng bắp
xanh tươi, bao la, trải dài đến tận
chân trời. Ông lại mỉm cười, nhớ
đến câu đáp của mình khi hai vợ
chồng ông bàn việc dời nhà đi
Nebraska trong vài năm. Bà hỏi: “Richfield ở
đâu ?”. Ông trả lời, có chút
khôi hài, nhưng là sự thật: “Ở
giữa cánh đồng bắp !” Lúc mới
đến, ông tưởng gia đình mình sẽ
không qua được mùa Thu, chớ đừng
nói đến mùa Đông, vì không quen
nếp sống êm đềm của tỉnh lẻ. Cũng
may, hai đứa con của ông bà hội nhập
được với lũ trẻ đồng trang lứa.
Hình như chúng được xem như là
“thần tượng” qua cung cách rất
“đề” của dân California. Vợ ông
cũng rất bận rộn với công việc thiện
nguyện tại trụ sở United Way và hội Phụ
huynh Học sinh tại địa phương. Đây
cũng là những công tác giao tế nhân
sự bà tham gia để giúp ông. Bà rất
tương đắc với ông và luôn
luôn tích cực trong việc hỗ trợ ông
leo lên nấc thang danh vọng. Ông yêu bà nhất
ở điểm này. Riêng cá nhân ông,
nếu không đảm trách lớp học
đêm, không có các chuyến bay hàng
tháng về họp hành tại trụ sở
chánh ở Los Angeles hay không phải tiếp
đón các phái đoàn đến
công tác ở xưởng, ông không biết
làm gì sau giờ làm việc, ngoài những
sinh hoạt gia đình và những buổi tiếp
tân buồn tẻ, nhàm chán với vài
gương mặt quá quen thuộc của địa
phương này. Ông thầm nghĩ, hai năm, tối
đa là hai năm, ông sẽ trở về LA với
những sôi động, thử thách và cơ
hội thăng tiến. Sản xuất không phải
là đam mê của ông. Nếp sống tỉnh
lẻ cũng chẳng phải là điều ông
ước mơ.
Quay mặt vào lớp học, ông Olson bắt
gặp ánh mắt của một cậu nhóc sinh
viên họ Nguyễn, cái họ mà nơi
nào có người Việt Nam thì ít nhất
cũng có một người mang họ đó.
Khi xưa, ông đã có thời chung sống với
một người đàn bà mang họ ấy.
Nhưng đó là chuyện ngày xưa.
Ông để ý thấy cậu nhóc thỉnh
thoảng len lén nhìn ông. Nó tuổi độ
20, dáng người mảnh khảnh, tóc
vàng, mắt xanh, da trắng, không chút gì
Á Đông. Vì thế, ông rất ngạc
nhiên lúc nó đưa tay, nói: “Here
!” khi ông điểm danh, đọc tên Lượm
Nguyễn vào buổi học đầu tiên. Khi ấy,
ông nghĩ cậu Lượm là con của một
ông Việt Nam nào đó có phối ngẫu
là người bản xứ. Sau vài buổi học,
nghe giọng tiếng Anh còn ngập ngừng của
nó, ông biết mình đoán sai. Thế
thôi, ông bỏ qua, không lưu ý đến
nó nữa, cho đến giữa khóa học.
Hôm ấy, ông cho lớp thực tập khoa ứng
khẩu, không thông báo trước. Mỗi sinh
viên bắt một lá thăm kín có ghi một
chữ duy nhất là đề tài họ có
năm phút để chuẩn bị và ba
phút trình bày trước lớp. Ông
dùng máy thâu hình các phần
trình bày để lớp ghi nhận và cho
ý kiến phản hồi trong lớp học tới. Một
trong những nguyên tắc để thành công
trong khoa ăn nói là chuẩn bị và thực
tập. Tuy nhiên, cuộc đời là những chuỗi
bất ngờ mà con người phải biết
thích ứng. Ông muốn dạy sinh viên của
ông điều này. Cậu sinh viên họ Nguyễn
của ông trình bày về đề tài
“Ước Mơ” không đầy ba phút
nhưng những lời nói đứt quãng,
đơn sơ của nó làm lòng ông
đôi lúc xốn xang.
***
Kính thưa giáo sư Olson, thưa các bạn,
Tên tôi là Lượm, trong ngôn ngữ
Việt Nam có nghĩa là “the found one”.
Tôi là một sản phẩm của chiến tranh
Việt Nam. Khi tôi vừa đủ trí khôn
để nhận ra màu da, mái tóc mình
không giống anh chị em trong nhà, cha mẹ
tôi giải thích rằng ông bà lượm
được tôi trong một ngày chạy loạn
vào năm 1968. Lúc ấy, tôi độ chừng
một tuổi, đang nằm khóc trên xác của
một người đàn bà Việt Nam bị
trúng đạn đã chết từ lúc
nào. Người đàn bà xấu số
này chắc là mẹ của tôi. Còn cha
tôi phải là một người lính Mỹ
viễn chinh nào đó.
Kính thưa giáo sư, thưa các bạn,
Lá thăm tôi bắt được mang chữ
Ước Mơ. Gì chứ mơ ước tôi
có thật nhiều. Cha mẹ nuôi của tôi
nghèo, lại đông con mà còn
đèo bòng thêm tôi nữa, nên cuộc
sống chúng tôi cơ cực. Tôi ước
mơ có tiền ăn quà. Tôi mong được
quần áo mới, được đồ chơi. Lớn
lên trong chiến tranh, tôi mơ ngày không
còn tiếng súng. Sau khi quân đội miền
Bắc “giải phóng” miền Nam Việt Nam,
tôi mong cơm không độn khoai, quần áo
lành lặn, và được cắp sách
đến trường. Là Mỹ lai, tôi
được sang đây cùng với cha mẹ
và anh chị em của tôi. Tôi rất mang
ơn người Mỹ các bạn giàu lòng
nhân ái giúp đỡ chúng tôi định
cư tại xứ sở tự do, phồn thịnh
này. Hiện chúng tôi sống đầy đủ,
có căn nhà tiện nghi, có xe hơi đi
đó đi đây, có việc làm,
được đi học đến cấp đại
học. Tôi thật không tưởng tượng nổi
! Tuy nhiên, tôi còn có một ước
mơ mà tôi chưa đạt được. Bao
năm qua tôi sống trong tình thương,
đùm bọc của cha mẹ và anh chị em
tôi. Họ là núm ruột của tôi rồi.
Tuy nhiên, cái tình máu mủ cứ thôi
thúc trong tim tôi. Tôi mong có ngày gặp
người lính Mỹ năm xưa đã
cùng người mẹ xấu số của tôi tạo
dựng nên thân xác tôi.
Kính thưa giáo sư, thưa các bạn,
tôi đang sống trong ước mơ đó !
***
Ông Olson trở về bàn viết, đưa
tay nhìn đồng hồ. Sinh viên còn hơn nửa
giờ để nộp bài. Không biết làm
gì để giết thời gian, ông mở cặp,
định xem lại các ghi chú để hôm
sau nhờ cô thư ký cập nhật các
tài liệu giúp ông giảng dạy trên
PowerPoint. Ông để tờ danh sách sinh viên
sang bên, nhưng cái tên Lượm Nguyễn,
thêm một lần nữa, đập vào mắt
ông. Một mặc cảm khó tả từ lâu
bị ông nén trong tâm tư bỗng trỗi dậy
khiến ông có một suy nghĩ lạ. Phải
chăng nó là đứa con rơi của ông
? Không, không thể nào có sự trùng
hợp lạ kỳ như vậy. Họ Nguyễn của
người Việt cũng phổ biến trong đại
chúng như họ Olsen của người Bắc
Âu. Minnesota,
nơi ông sinh trưởng, ngày xưa là tụ
điểm của người di dân gốc Bắc
Âu, có hàng vạn người mang họ Olsen
hoặc Olson. Tuy nhiên, tâm trí của ông cứ
ngang nhiên mang ông về những ngày chinh chiến
xa xưa và người đàn bà họ Nguyễn.
Ừ, Nguyễn Hương Cúc, có nghĩa
là hương thơm của một loài hoa một
thời ông âu yếm gọi là Daisy...
***
... Cầm tờ lệnh trình diện Bộ Chỉ
huy Sư đoàn tại Đà Nẵng, Larry tưởng
mình đang mơ. Sau hơn sáu tháng
đóng quân ở căn cứ Phù Cát,
anh đã quá chán ngán cảnh hàng
đêm ngủ hầm, đã biết sợ những
đêm đi kích ngoài căn cứ và những
ngày hành quân ở các vùng lân cận.
Địch cũng biết thân, không thể cự
nổi hỏa lực hùng hậu của quân đội
đồng minh, chỉ đánh du kích lẻ tẻ
mà thôi. Tuy nhiên, những viên đạn bắn
sẻ của địch quân làm Larry lo ngại nhất.
Anh không bao giờ muốn mình trở thành một
con số thêm vào bản thống kê
thương vong. Cuộc tấn công vào căn cứ
đêm ấy, lúc đầu Larry không biết
địch có mục đích gì, vì
cán cân hỏa lực quá chênh lệch. Khi
nhớ đến bản tin anh đọc hôm trước
trên báo Stars & Stripes về phái đoàn
dân biểu, nghị sĩ phản chiến đang viếng
Đà Nẵng trong chuyến “tìm hiểu sự
thật”, Larry mới nghiệm ra địch muốn
gây tiếng vang, họ đang đánh mặt trận
tại Mỹ Quốc bằng cách hy sinh vài chục
tử thi “sinh Bắc tử Nam” nằm trên
vòng rào căn cứ Phù Cát tại Việt
Nam. Vừa tờ mờ sáng vị tướng tư
lệnh đã đến thanh sát mặt trận
để sửa soạn cho cuộc họp báo
“phải có” sáng hôm ấy trước
phái đoàn Quốc hội và đạo binh
báo chí. Ông nổi tiếng là một
người đi sát với binh sĩ nên Larry mới
có dịp may ấy. Vị tướng dừng lại
lô cốt, hỏi thăm John, một bạn đồng
ngũ của Larry về trận tấn công. Anh
chàng vốn ít nói, lại nhút nhát,
lúng túng nói không suông câu. Larry vội
vàng xin phép thế bạn, trả lời các
câu hỏi của vị tướng về trận tấn
công của địch và chi tiết cuộc phản
công, trôi chảy và hấp dẫn đến
độ vị tướng cho trình diện anh
trước cuộc họp báo hôm ấy như một
chiếc cúp sáng ngời, và sau đó cho
bốc anh về Bộ Chỉ huy. Ông rất cần những
thuộc hạ trẻ tuổi, lanh lợi, năng động
như Larry để đương đầu với
đội ngũ báo chí, nhiều khi nguy hiểm
hơn cả địch quân, lúc nào cũng
rình rập tìm kiếm hay dựng lên những
tin tức sốt dẻo đưa ngay về Mỹ Quốc.
Ôi, những ngày công tác ở
Đà Nẵng, những ngày Larry và các bạn
cùng đơn vị gọi là những ngày
vàng son. China
Beach đầy ắp
những bar rượu, những cô gái chiến
tranh đã đem vào đời quá sớm, sẵn
sàng dâng hiến, trao đổi thân xác lấy
những đồng đô la xanh, đỏ. Tuy
nhiên, Larry không phải là hạng người
chỉ biết thỏa mãn tình dục đơn
giản như thế. Với anh, mọi sự, mọi việc
đều phải được chinh phục, phải
có khó khăn anh mới thích thú,
mãn nguyện khi đạt được. Cha anh, một
thương gia bán xe hơi, đã dạy anh thế
nào để đạt mục đích qua đầu
môi chót lưỡi. Ông bảo con người
là vậy, mặc dầu biết “ngọt mật
chết ruồi”, nhưng ai cũng thích được
đề cao, tâng bốc. Sau khi họ thích giao du,
làm việc với mình, làm sao cho họ tin
tưởng là thành công mình nắm trong
tay. Ông cũng dạy Larry rằng, đa số
đàn bà thích ngọt ngào, chiều chuộng,
được săn đón, ngợi khen sắc đẹp,
phải ghi nhớ điều này nếu muốn chiếm
cảm tình của họ. Từ khi còn ở trung
học, Larry áp dụng “chiến thuật”
này với các bạn gái và anh
đã đạt được không ít
thành công. Anh còn khám phá ra điều
cha anh không nói, đó là thỏa mãn
tâm lý giúp tăng gấp bội khoái cảm
thể xác. Quá nhàm chán những cuộc
truy hoan vô vị với gái bán bar, Larry đi
tìm đối tượng.
Larry không phải tìm đâu xa. Cách
đôi ba ngày anh có nhiệm vụ liên lạc
với bộ phận Tùy viên Báo chí của
văn phòng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại
Đà Nẵng. Nơi đây có hàng
tá nhân viên người bản xứ, đa số
là phái nữ vì phần đông thanh
niên Việt Nam thời ấy phục vụ ở chiến
trường. Thật là “múa gậy vườn
hoang”, Larry tha hồ chọn. Cuối cùng, anh chấm
Daisy- Cúc- một phiên dịch viên phòng
Báo chí, là đối tượng cho cuộc
chinh phục tình yêu của mình. Anh chọn
Daisy, không vì sắc đẹp mà qua nét
kín đáo, điềm đạm của chị,
khác xa với các cô gái bán bar,
thân xác lồ lộ, luôn sẵn sàng thỏa
mãn dục vọng của khách. Điểm
thú vị nữa là chị lại trái
ngược với các bạn gái người Mỹ
thời trung và đại học của Larry. Các
cô này luôn cởi mở, năng động,
rõ ràng trong mối tương giao, tình cảm
hay nhục dục, lâu dài hay qua đêm. Larry muốn
tìm cảm giác mới lạ. Khi vào cuộc
Larry mới biết cuộc phiêu lưu tình
ái này có quá nhiều chông gai. Daisy chỉ
giao thiệp với anh trong lãnh vực nghề nghiệp
mà thôi, không bao giờ buông thả theo những
câu nói bóng gió, ve vãn, tán tỉnh
rất khéo của Larry mỗi lần anh đến
văn phòng vì công tác hay “tình cờ”
ghé qua. Càng khó khăn, Larry càng
thích thú. Cho đến một hôm, Larry
đánh một đòn tâm lý khá cao và
anh đạt được bước chinh phục đầu
tiên. Anh đóng vai một người trí thức
yêu thích văn hóa nghệ thuật, hỏi
Daisy một vài điều về thành nội Huế
và cố ý bảo rằng anh đọc
đâu đó một tài liệu nói kiến
trúc cổ thành này hoàn toàn sao
chép từ Trung Hoa. Anh đã thành công khi
va chạm đến niềm tự ái dân tộc
Việt. Và hôm ấy, Daisy phá lệ đi ra
ngoài khuôn ốc của chị, thao thao giải
thích cùng anh những nét đặc thù của
văn hóa Việt, trong khi anh rất khéo
đóng kịch, vẻ mặt khi ngẩn ngơ
vì mù tịt về văn hóa Á Châu,
khi thích thú vì những hiểu biết mới
lạ về nền văn hóa đã thành
hình từ bốn ngàn năm trước. Thật
ra, Larry cũng rất quan tâm tìm hiểu về
văn hóa Việt để tham khảo, dùng cho
các bài viết của anh. Nhưng đó
là chuyện khác. Ghé phòng Báo
chí vài lần sau đó, Larry khéo
léo nhờ Daisy hướng dẫn anh thăm viếng
thành nội Huế, chỉ cho anh thấy tận mắt
những vẻ đẹp cùng sự hài hòa
với thiên nhiên của các đền
đài cổ xưa nàỵ Và Daisy
đã sa vào cam bẫy ái tình của anh.
Sự khéo léo, thông minh của Larry, cộng với
bao kinh nghiệm trong tình trường, đã lần
lần giúp anh chiếm được trái tim của
chị. Và hai người đã chung sống với
nhau như vợ chồng. Vài tháng trước
khi mãn hạn phục vụ trong quân đội,
Larry muốn chấm dứt cuộc tình với Daisy,
nhưng anh không có can đảm nói ra vì
mặc cảm tội lỗi - Chị đã quá
tin, quá yêu anh trong khi anh chỉ xem mối liên
hệ giữa hai người là một trò
chơi qua đường, Trong những ngày tháng
ấy, Larry sống lửng lơ, hưởng thụ,
không quyết định, không giải quyết
cái nợ tình cảm này. Trước
ngày trở về Mỹ, trong đêm gặp gỡ
cuối cùng, Daisy cho anh hay chị đã cấn
thai. Larry bàng hoàng, nhưng anh dấu được
nỗi thất vọng trong dự tính của
mình, khéo léo đóng vai người
tình chung thủy, hứa sẽ lo cho chị và
đứa con tương lai. Không gì có thể
làm hỏng cuộc vui đêm ấy ! Và, một
lần nữa, anh đã thành công.
Về đến Mỹ, đụng chạm với
thực tế, Larry biết mình không thể
làm gì khác hơn là quên đi cuộc
tình trong chiến tranh ấy. Còn trách nhiệm,
anh tự an ủi mình đã chu toàn vì
sáng hôm sau, trước khi chia tay về Mỹ anh
đã kín đáo để lại phong
bì một ngàn đô la dưới gối của
chị. Nếu Daisy là một người thức thời
và biết lo cho tương lai của mình, chị
hẳn nhiên có thể dùng số tiền
để hủy cái mầm sống ấy. It takes two
to tango !
Gần một năm sau, trong một đêm mất
ngủ vì lương tâm cắn rứt hơn
là niềm thương nhớ, Larry gửi một
lá thư về Đà Nẵng cho Daisy, hỏi
thăm chị và cho chị hay anh không còn ở
Minnesota, mà đã di chuyển về California.
Lá thư không được hồi âm...
***
Mặc dầu Lượm đã hoàn tất
bài thi từ lâu nhưng anh cố tình ngồi
lại bàn học, chờ người sinh viên cuối
cùng nộp bài xong, mới rụt rè đến
bàn viết của giáo sư Olson nộp bài
của mình. Lượm nhìn ông Olson, ngập
ngừng nói:
- Thưa giáo sư, tôi xin cám ơn những
lời chỉ dạy của giáo sư trong khóa học
vừa qua. Giáo sư đã rất kiên nhẫn
với tôi vì tiếng Anh tôi còn quá
kém...
Ông Olson đứng lên, mỉm cười, bắt
tay Lượm.
- Không có chi. Như tôi đã cho cậu
nhận xét của tôi lúc giữa khóa,
bài thực tập ba phút nói trước lớp
của cậu rất xúc tích và cảm động.
Các bài viết của cậu cũng khá lắm.
Cậu cứ tiếp tục như vậy, viết
và nói với cả tấm lòng của
mình là cậu thành công phân nửa
trong việc truyền thông. Phân nửa kia, cậu
cần biết nghe, để tìm hiểu đối
tượng, xem họ có nhận được
thông tin, có thành thật với mình hay
không. Điều này đòi hỏi học tập
và nhất là kinh nghiệm thực tế...
Ông Olson bỗng chấm dứt câu nói, rồi
ông nhìn thẳng vào mắt Lượm, hỏi:
- Chẳng hay cậu quê quán ở
đâu ? Miền Nam
hay miền Trung Việt Nam
vậy ?
- Dạ thưa giáo sư tôi lớn lên ở
miền Nam Việt Nam,
nhưng...
Nghe đến đó, ông Olson khẽ thở
phào nhẹ nhõm. Như vậy, thằng nhóc
này không thể là đứa con rơi của
ông. Và cũng vì thế ông không
chú ý đến chữ “nhưng”.
Ông ngắt lời Lượm:
- Ừ, tôi nghe nói miền Nam của cậu trù
phú lắm, chứ không như miền Trung
nghèo khổ, tai ương, nơi tôi phục vụ
trong ba năm. Khi ấy, tôi đóng ở Phù
Cát, rồi được rút về Đà Nẵng
như tôi đã có lần kể cho lớp
nghe. Tôi chưa bao giờ đặt chân tới miền
Nam.
À, hình như cậu muốn nói thêm
điều gì đó phải không ?
- Dạ... dạ thưa không có gì quan trọng.
Nhưng... thưa giáo sư, ông có thể cho
tôi biết ông gốc gác ở tiểu bang
nào không ?
- Minnesota.
Tổ tiên tôi gốc người Na Uy, Bắc
Âu. Ừ, mà... cậu hỏi gốc gác
tôi chi vậy ?
Lượm nghĩ thầm, giáo sư Olson
là người Minnesota, vậy ông không thể
là người anh muốn tìm. Vì thế,
Lượm quyết định không tiếp tục hỏi
thăm ông Olson nữa.
- Dạ... cũng không có chi, tôi chỉ
tò mò, thế thôi. Một lần nữa,
tôi xin chân thành cám ơn giáo sư.
Xin chào ông !
- Chào cậu !
Nhìn dáng thằng nhóc lủi thủi
bước ra khỏi lớp học, ông Olson cảm thấy
bùi ngùi, thương xót nó. Trong thời
chiến tranh có hơn năm trăm ngàn người
Mỹ phục vụ tại Việt Nam, hiện sống rải
rác ở năm chục tiểu bang, làm sao thằng
Lượm thực hiện được ước
mơ của nó. Không lẽ gặp ai đã từng
phục vụ ở Việt Nam nó cũng nghĩ
người ấy có thể là cha của nó
hay sao. Ông bước nhanh, theo gót Lượm, gọi
lớn tiếng:
- Cậu Lượm !
Lượm dừng bước, quay mặt lại, vừa
đúng lúc ông Olson bắt kịp anh. Ông
khuyên anh, giọng rất chân tình:
- Cậu Lượm, ước mơ của cậu...
tôi xin mạo muội đề nghị như thế
này... Thay vì đeo đuổi nó, cậu
hãy để nó ngủ yên mà lo cho
tương lai của mình. Hoa kỳ là xứ của
nhiều dịp may cho những người... di dân
như... như cậu- cần cù, nhẫn nại, ham
học hỏi, cầu tiến. Thành công, hạnh
phúc, phải chăng đó là điều mẹ
ruột và cha mẹ nuôi của cậu mong muốn
cho cậu ? Còn người lính Mỹ, cha ruột
của cậu...
Ông Olson còn ngập ngừng, chưa kịp
nói hết ý, Lượm bỗng hỏi:
- Thưa giáo sư, ông đã từng phục
vụ ở Việt Nam,
nếu ông có một đứa con rơi, ông
có tìm nó không ?
- Câu hỏi của cậu thật khó cho
tôi trả lời vì tôi nghĩ rằng
tôi không có con rơi. Mà thôi, cậu hỏi
thì tôi trả lời thật tình ý nghĩ
của tôi, mong cậu đừng phiền lòng.
Không dấu gì cậu tôi có những
liên hệ tình cảm nhất thời trong những
năm tháng chiến tranh ấy, cũng có thể
tôi có một đứa con rơi, nhưng
làm sao tôi biết được. Hơn nữa,
sau bao năm nó có cuộc đời của
nó, tôi có cuộc sống riêng của
tôi, biết đâu mà tìm. Mà tìm
kiếm có dễ gì đâu ! Bao biến cố,
bao năm tháng đã trôi qua... Bao thay đổi
đã xảy ra... Bao phức tạp sẽ xảy
đến...!
Ông Olson bỏ lửng câu nói...
Lượm đứng lặng yên trong giây
lát, xong anh mím môi, cười nhạt, bắt
tay ông Olson.
- Cám ơn giáo sư đã tốt bụng
mà khuyên tôi. Xin chào ông !
Đoạn Lượm quày quả bước
đi. Trong giây phút đó ông Olson chợt
thấy ông vừa phá lệ, nói thật
lòng mình, một cách bộc trực, và
ông cảm thấy mình quá tàn nhẫn với
thằng nhóc. Nó mơ ước gặp
được người lính Mỹ cha của
nó mà ! Ông vội vã gọi Lượm:
- Khoan !
Ông Olson rút vội từ ví một tấm
danh thiếp, đưa cho Lượm.
- Nếu có cần tôi giúp việc
gì xin cậu cứ liên lạc với tôi,
đừng ngại !
Lượm lí nhí hai chữ “cám
ơn”, rồi bước đi, cất tấm danh thiếp
vào túi quần. Tay anh chạm
vào chiếc phong bì không ruột anh giữ thật
kỹ từ ngày lớn khôn. Sau bao năm, chiếc
phong bì còn lấm lem vết máu đã
phai, chữ mất, chữ còn. Góc phong bì
đề tên... Olson... California,
người nhận là Nguyễn... Cúc...
Đà Nẵng. Đó là chiếc phong bì
cha mẹ nuôi của Lượm vội vàng lấy
từ túi áo của người đàn
bà xấu số ngày chạy loạn năm
xưa, để làm tin. Sau biến cố 30 tháng
Tư, vì lo sợ cho sự an toàn của gia
đình mình, cha mẹ nuôi của Lượm
đã đốt mất lá thư viết bằng
tiếng Anh, chỉ giữ lại chiếc phong bì
không ngờ sau này đã góp phần
giúp họ định cư tại Mỹ. Hôm nay
Lượm định đưa nó cho giáo sư
Olson xem, nhưng cuối cùng anh đã không
đưa vì... Lượm lẩm bẩm một
mình, chua chát:
- Có ích gì đâu !
Đào Anh Dũng
Apple
Valley, Minnesota - Hè 2007
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)