SỐNG DAI
(Hải Ngữ phóng tác)
Hai gò má tôi không cao, cổ không
đến ba ngấn, giọng nói tôi không
khàn khàn như vịt đực - cái kiểu
“nữ đới nam thanh” - cũng chẳng
có đôi mắt lá răm, thế mà
lão thầy bói ngồi bên hông chợ tỉnh
sau khi sờ nắn, ghé sát mắt vào mấy
đường gạch ngang gạch dọc trên
bàn tay phải của tôi lại dõng dạc
phán rằng tôi cao số. Lão bảo số
tôi khó lấy chồng.
Năm đó, tôi chớm mười
sáu. Mười sáu ở các vùng quê
đã có người cưới hỏi, thường
là do cha mẹ đôi bên xếp đặt mọi
chuyện qua môi giới các bà mai; những kẻ
mát tay trong các cuộc lương duyên
gán ghép chờ ăn được cái đầu
heo của nhà trai. Ở thị xã nơi bố mẹ
tôi sinh cơ lập nghiệp chuyện cưới hỏi
cũng chẳng trễ hơn mấy, cùng lắm
là đến mười tám. Trên 18 kể
như quá thì, xem như ế, chuẩn bị thở
dài trở thành gái già qua những
đêm đông nằm trằn trọc mường
tượng đến hương vị tình yêu
thì thầm bên gối. May mắn mới có
người đàn ông góa vợ đến
rước ra khỏi nhà cha mẹ, về làm
tôi cho bầy con của người vợ trước.
Dù vậy, tôi chưa hề nghĩ đến
chuyện lấy chồng. Mười sáu đối với
tôi vẫn còn nhỏ lắm, ngực mới nhu
nhú quả chanh, thân hình chưa nẩy nở
những đường cong như người con
Thìn. Đúng ra, hôm đó chúng
tôi ra chợ tỉnh để mua sắm thêm một
vài thứ chuẩn bị cho ngày cưới của
nó. Thìn đã 16, hơn tôi nửa năm
tuổi nhưng đôi má nó hồng
tươi, cặp mắt lẳng với đuôi mắt
dài thườn thượt, dáng đi nhún
nhẩy như chim, ngửa mặt cười rổn rảng
như một đấng trượng phu. Thế mà
lão thầy bói lại bảo tướng nó
tốt, “vượng phu ích tử” gì
gì đó tôi nghe chẳng hiểu. Có thể
vì thế mà mấy bà mai tuôn đến
nhà nó nườm nượp. Mẹ nó - một
bà Phán - ngồi chiễm chệ trên chiếc
sập gụ màu nâu bóng lưỡng, có
con hầu đứng phe phẩy quạt một bên,
ung dung chọn một đám và khoan thai xem lịch
bốc ra một ngày; từ dạm đến cưới
chưa đầy sáu tháng.
Con Thìn nghe lão thầy bói phán xong
cười rú lên, phát vào vai tôi một
cái rõ đau:
- Cho mày nằm chổng mông chờ
chàng đến chết nhé.
Con quỷ, ăn nói không một chút
ý tứ gì cả, tôi rủa thầm. Tôi
chẳng hề giận đến lời đùa sống
sượng của con nhỏ bạn, vì lẽ
tôi chưa hề nghĩ thế nào là cao số.
Lão thầy bói ngập ngừng rồi phán
tiếp một câu, giọng quả quyết:
- Nói ra chỉ sợ cô giận chứ quẻ
gieo và đường chỉ tay nói rõ
ràng lắm, cô ạ ! Nếu có lấy
được chồng thì chồng cũng chết,
sinh con thì con cũng yểu mạng. Đại
khái số sát phu sát tử.
Tôi có cảm giác như lão thầy
bói thù ghét trù ếm lời nguyền
lên cuộc đời của tôi chứ chẳng
phải tướng số gì cả. Tôi đứng
lặng người, mắt trừng trừng nhìn
lão thầy bói, không nói được
gì. Lòng tôi chợt trùng xuống với
nỗi buồn xót xa, không ngờ mấy gạch
ngang gạch dọc trên lòng bàn tay lại
xô tôi vào chuyện tình duyên long
đong nhiều nước mắt; nếu lão
nói đúng. Thấy mắt tôi rưng
rưng, con Thìn và mấy đứa bạn bĩu
môi xỉa tiền rồi ngoe nguẩy kéo tôi
đi. Thìn xoa xoa lưng tôi, vỗ về bảo:
- Đừng nghe lão. Lão chỉ nói
phét ăn tiền. Mấy lời lão khen tao, tao cũng
chẳng tin. Mày đừng buồn.
Rồi nó phá lên cười:
- Để tao làm mai cho mày anh phù rể
nhé, cũng đẹp trai ra phết. Mày cứ lấy
chồng xong rồi ra đây đập guốc
vào mặt cho lão biết thân. Đồ
điêu !
Ước mơ đập guốc vào mặt
lão thầy bói không thành vì mãi
đến gần 20 tuổi tôi mới lấy
được tấm chồng, một anh thầy
giáo làng. Giá lấy được chồng
năm 17 thì tôi cũng theo con Thìn ra chợ tỉnh
một lần nữa để hạch hỏi lão thầy
bói cho ra lẽ. Lão phán thế mà
đúng, hai mươi kể như quá lứa.
Tôi cao số thật. Quay qua quay lại mấy đứa
bạn đều có chàng đến hỏi,
còn tôi tủi phận ôm gối khóc
ròng. May có anh thầy giáo đến ở trọ
nhà tôi, mỗi ngày hai buổi đi dạy,
cơm nước đều nhờ mẹ tôi lo liệu.
Mẹ tôi thấy đứa con gái duy nhất
đứng ngấp nghé ở cuối ngưỡng cửa
xuân thì nên bà không dám so đo
"ốm chê ngỏng béo chê phì". Anh
thầy giáo làng cũng không mơ ước
nhiều nên tôi trở thành vợ chàng từ
đó. Ở với nhau hơn 4 năm được
hai mặt con thì chiến trận xảy ra.
Năm đó là năm 1954. Chồng tôi
theo Việt Minh chống Pháp và chàng chết
mất xác khi dùng xe đạp thồ súng
đạn và lương thực vào trận
địa Điện biên Phủ. Một người
quen làm nhiệm vụ giao liên đi đi về về
giữa vùng lửa đạn và thành phố
cho tôi biết tin. Thế là tôi trở
thành góa phụ ở tuổi 24, hai nách cặp
hai đứa con trai; một đứa chớm bốn tuổi
và đứa nữa lên hai. Chưa hoàn hồn
khi nghe tin chồng chết thì xảy ra chuyện di
cư vào Nam.
Cha mẹ tôi tiếc của nên dứt khoát
không đi nhưng bắt đứa con gái dẫn
con ra Hải phòng bước lên tàu há
mõm. Đến nay tôi vẫn không hiểu tại
sao tôi đành lòng dẫn con vào Nam bỏ lại
hai đấng sinh thành. Có lẽ vì lời
khuyên của cha tôi. Ông nói gia đình
nhà ta là gia đình cách mạng, có
công giúp đỡ bộ đội du kích
trong cao trào chống thực dân Pháp. Nhưng
ông lại bảo với Việt Minh thì không
biết thế nào, lành dữ ra sao họa
là Trời mới biết. Tôi còn hai đứa
con nên phải lo cho tương lai của chúng, cha
mẹ đã luống tuổi, có chút
công với cách mạng cũng là lá
bùa để phòng thân. Thế là tôi
quang gánh, hai đứa con ngồi hai bên
thúng, theo đoàn người lũ lượt
lên ga ra Hải Phòng.
Vào Nam,
cả đoàn người di cư ở tạm
trú trong những căn lều làm bằng bạt
nhà binh, chờ đợi thủ tục lên cao
nguyên, hoặc xuống miền Tây lập nghiệp.
Tôi bơ vơ ôm hai đứa con nơi vùng
đất lạ, ngơ ngác từ cách sinh hoạt
đến giọng nói của người địa
phương. Nếp sống gần như khác biệt
so với nề nếp ở ngoài Bắc. Cũng may Ủy
ban Tiếp đón người di cư thật tốt
bụng, họ giúp đỡ chỉ bảo tận
tình nên tôi an tâm thích nghi nhanh
chóng đời sống tạm bợ trong trại
định cư. Đời sống vừa mới
tương đối ổn định thì nỗi nhớ
nhung bùng lên quay quắt. Nỗi nhớ bám da
diết lấy thân xác tôi vào mỗi tối
nằm ôm con trong giấc ngủ trằn trọc
có tiếng gió thổi vờn qua cửa lều
nghe như than van ai oán. Tôi thổn thức nhớ
đến những năm hương lửa mặn nồng,
ấm áp trong vòng tay chồng quên đi
cái lạnh cắt da của đêm trường.
Hạnh phúc nếm chưa tròn bốn năm
thì chồng tôi từ giã vợ con lên
đường đi diệt giặc. Ở nhà,
tôi ngóng tin chàng bằn bặt được
gần năm mới hay chồng rơi tõm xuống vực
khi chuyển đạn dược qua các triền
núi cheo leo vào mặt trận Điện Biên.
Lẫn trong hình ảnh của chồng là nỗi
nhớ nhà ray rứt; nhớ đến căn
nhà ngói nơi tôi lớn lên, không biết
cha mẹ tôi giờ này ra sao ? Cây bông sứ
trước nhà còn thở hơi thơm mỗi
đêm thoang thoảng ? Con Thìn vẫn còn rộn
ràng như ngày nào ? Bạn bè đứa
còn đứa mất ? Vội vã ra đi chứ
nào ngờ chuyến đi của tôi đánh
dấu một chia lìa vĩnh viễn, mảnh quá
khứ đột ngột rơi rụng như chiếc
lá vàng bay vèo trước gió.
Nỗi nhớ chưa nguôi ngoai được một
ngày thì tai họa xảy đến. Đứa
con trai 2 tuổi mải chơi chạy lăng quăng thế
nào mà bị xe Hồng thập tự cán chết
tươi ngay trong trại tiếp cư. Tôi ôm
choàng lấy xác con, khóc ngất. Thằng lớn
đứng bên cạnh ngơ ngác khóc theo. Mọi
người đứng chung quanh chép miệng mủi
lòng thương cho số phận mẹ con tôi, mới
chân ướt chân ráo đã vướng
lấy thương đaụ Những ngày ngắn ngủi
còn lại ở trại tiếp cư, tôi chợt
nhớ đến lời lão thầy bói năm
nào. Lời nguyền của lão - tôi cho
là lời trù ếm - ban đầu chỉ
là mơ hồ, bàng bạc thoáng qua trong
ý nghĩ nhưng nay đã hiện rõ dần
từng chữ. Tôi thật có số sát phu
sát tử sao ? Từng ấy thương đau cộng
với lời nguyền làm lòng tôi bỗng
chai cứng, trái tim trở nên sắt đá
lúc nào không ngờ. Tôi sống câm
nín, ngậm ngùi với nỗi buồn và cắn
răng dập tắt lửa lòng.
Cần nói thêm là từ ngày con
tôi bị xe cán chết, ai ai cũng thương số
phận hẩm hiu của tôi; thân đàn
bà giữa cảnh chợ đời, gánh
vác con cái. Trong số những đàn ông
lạc bước vào miền Nam, có một
người thường năng lui tới trại định
cư để hỏi thăm tin tức người
thân. Hôm tai nạn xảy ra cho cháu bé, anh
cũng có mặt tại hiện trường. Hiểu
được hoàn cảnh côi cút, anh hỏi
han và giúp đỡ tận tình. Qua lại
hơn tuần tôi được biết anh để
vợ và hai đứa con ngoài Bắc, vào
Nam buôn bán làm ăn. Cứ vài tháng
anh lại mang tiền về cho vợ con. Hơn mấy
tháng nay tin tức chiến trận đổ dồn về
hậu phương nên tâm hồn anh bấn loạn.
Những chuyến xe ra Bắc ngày càng hiếm
vì người ta lũ lượt chạy vào Nam chứ
không ai hoài công trở ra Bắc. Anh đang bối
rối, bần thần, lo âu, xuôi ngược
tìm cách về quê thì bất ngờ hiệp
định chia đôi đất nước có hiệu
lực. Và thế là anh kẹt lại miền Nam
ngẩn ngơ với ý nghĩ không biết đến
khi nào mới gặp lại vợ con. Đồng bệnh
tương lân. Thấy tình cảnh góa bụa,
bơ vơ nơi đất khách quê người
của hai mẹ con, nhất là đứa út chết
đau đớn, anh nâng đỡ ủi an tôi thật
nhiều. Trong muôn vàn tai họa đổ dồn
dập lên đầu, sự hiện diện của
anh giúp tôi chống đỡ được nghịch
cảnh và tôi đứng thẳng người
bước tới.
Ngày bước ra khỏi trại định
cư, tôi dẫn con về nhà trọ anh thuê
dùm hai mẹ con. Những ngày đầu ở
đất Sàigòn đỡ vất vả cũng
nhờ anh lo toan mọi chuyện. Tôi vào làm
thư ký ở một hãng thầu anh quen biết
gởi gắm. Tài chánh tằn tiện cũng
đủ trả tiền nhà, cơm nước
và lo cho thằng con lớn vụt như thổi.
Ngày ngày anh lại thăm tôi, nẩy nở
tình thân và dẫn dần đến tình
yêu. Tôi yêu anh cũng dễ hiểu, thân mẹ
góa con côi, sống gần như nương tựa
vào một người đàn ông. Từng cử
chỉ săn sóc, những lời nói ngọt
bùi thấm dần vào tim và một lúc
nào đó, trái tim sắt đá bỗng
mềm nhũn như gặp phải chất cường
toan.
Giữ trọn tang chồng ba năm, tôi bằng
lòng lấy anh với tấm lòng của kẻ thụ
ơn. Tôi nghĩ thân đàn bà con dại
sống một mình không tiện; hơn nữa anh
cũng một thân một mình không ai chăm
sóc. Thôi thì gộp chung lại thổi cơm
cho tiện. Về với anh ngoài tình yêu
còn có chút nghĩa trả ơn. Thế
là chúng tôi trở thành một gia
đình từ đó. Anh đăng lính
còn tôi vẫn giữ chân thư ký, sống
chờ những ngày phép quyến rũ. Tôi tạm
sống yên lành bên người chồng mới
và đứa con trai lớn dần. Lời lão thầy
bói tôi cố quên không bận tâm nhớ
đến. Đôi lúc tôi tự biện hộ
về cái chết của người chồng là
do hoàn cảnh chiến tranh, đứa con 2 tuổi chết
là do thằng anh bất cẩn, chứ chẳng phải
tại số tôi sát phu sát tử. Tôi
yên tâm với lời giải thích đó
và sống tận hưởng tuổi xuân bằng
đôi môi hớn hở thoa son đỏ thắm,
cặp má hây hây lớp phấn hồng. Mỗi
lần về phép anh ghì chặt lấy tôi
trong vòng tay tham lam, và tôi ngất ngây với
những hơi thở rướn cong mệt nhoài.
Cứ tưởng cuộc đời trôi như
thế cho đến lúc tuổi già bóng xế,
nào ngờ người chồng thứ hai của
tôi lại cũng chết trận. Năm đó
là năm 1960, tôi mới chớm bước
vào tuổi ba mươi. Đó cũng là
năm thành lập Mặt trận Giải phóng Miền
Nam, bọn Việt cộng xua quân vượt ranh giới
đánh phá khắp toàn cõi miền Nam. Lần
đi hành quân bảo vệ xóm làng,
toán của chồng tôi bị phục kích, cả
đại đội bị chết mất mấy người
lính, trong đó có chồng tôi. Ngày
nhận xác chồng, khuôn mặt tôi nhuốm
chút buồn nhưng không thấy một giọt
nước mắt rơi rớt trên gò má
căng da mơn mởn. Hạnh phúc - một lần nữa
- chỉ đếm được trên đầu
ngón tay như đời chồng trước. Đầu
tôi lại chít khăn tang lần thứ hai, cả
đứa con cũng sụt sùi bám lấy vạt
áo sô, khóc người cha ghẻ thương
nó như con ruột.
Đến bây giờ thì tôi tin lời
lão thầy bói lắm rồi. Tôi
đúng là có số sát phu. Mỗi
đêm tôi đều cầu xin Trời Phật
gìn giữ đứa con duy nhất, đừng để
tôi phải mang tiếng sát tử lần nữa.
Công việc ở hãng thầu giúp tôi
có đủ tài chánh để lo cho nó
ăn học thành tài. Ngặt một cái, sau
khi đậu Tú tài một, nó cứ năn
nỉ tôi xin nhập ngũ vào trường Bộ
binh Thủ đức, mặc dù con tôi có
đủ điều kiện hoãn dịch vì
là con một. Hai người chồng đều chết
trận nên tôi không muốn nó vướng
nợ lính, lành ít dữ nhiều. Cuối
cùng tôi phải chịu thua tính cương
nghị của thằng con. Nó bảo không thể
an tâm học hành khi đất nước
điêu linh. Người chồng thầy giáo của
tôi chết vì giặc Pháp, người chồng
thứ hai chết vì Việt công và bây giờ
tôi rùng mình thấp thỏm mỗi khi nghe tin
tức chiến sự sôi bỏng gửi về từ
vùng lửa đạn.
Trong thời gian đứa con thụ huấn
quân trường, tôi quen Bill. Chả là
hãng thầu nơi tôi làm việc cho nhận
một vài công việc từ hãng thầu Mỹ.
Bill đại diện cho hãng đến giao dịch
và chàng gặp tôi. Tiếng Anh tôi
không biết mấy nhưng tôi lại hiểu
ánh mắt chàng. Bill ngoài bốn mươi,
hơn tôi vài tuổi. Chúng tôi quen nhau,
tôi học dần tiếng Anh để nói chuyện.
Trái tim tôi tưởng chai cứng theo thời
gian, nhất là qua cái chết của hai người
chồng nhưng không ngờ lại bừng sống dậy
qua ánh mắt nồng nàn của Bill. Đứa
con về phép biết chuyện ông Bill tỏ
ý tán thành. Nó còn xúi tôi
bước đi bước nữa. Tôi lắc đầu
trả lời cho con và cho chàng. Lý do tôi
từ chối là vì tôi yêu Bill thật
tình, tôi không muốn Bill uổng mạng
vì một cuộc hôn nhân dị chủng chẳng
đáng gì. Dĩ nhiên tôi không thể
thổ lộ lời lão thấy bói nói
hơn hai mươi năm về trước. Nói ra số
sát phu, Bill và thằng con chắc chắn sẽ
cười chế nhạo tôi không tiếc lời.
Nhưng mặc ai cười nói thế nào,
tôi không thể đánh đu số mạng của
một người đàn ông tôi yêu tha
thiết với tướng sát phu tàn nhẫn,
đã nghiệm đúng hai lần.
Bill vẫn đến thăm tôi, kiên nhẫn
đợi chờ một cái gật đầu.
Tôi vẫn nhì nhằng giữa yêu và lấy.
Và trận chiến khốc liệt xảy ra năm
1972, mùa hè đỏ lửa. Đúng như
tôi phập phồng hằng đêm, tin dữ cuối
cùng cũng đến. Đứa con bị mấy
viên đạn nát bấy ngực khi tiểu
đoàn của nó xung phong tái chiếm cổ
thành Quảng trị. Cầm giấy báo tử
trên tay, tôi bỗng oà khóc như đứa
trẻ bị giật mất miếng kẹo ngon. Tạo
hoá đã giật đứa con ra khỏi đời
sống khốn khổ của tôi, cắt đứt vĩnh
viễn một hình hài phải cưu mang
chín tháng mười ngày, cắt thịt xẻ
da mới nghe tiếng khóc chào đời.
Ngày đưa con đến mộ huyệt, Bill
dìu tôi một bên. Thân hình tôi mềm
rũ như cây tầm gửi, phải dựa hẳn
vào người Bill. Đêm đó, ý
định tự tử chợt loé lên trong đầu.
Ngồi ôn lại dĩ vãng, tôi chợt cảm
thấy bơ vơ lạc lõng như thuở mới
di cư vào Nam.
Những người thân lần lượt bỏ
tôi ra đi, không bao giờ nghe được một
lời trăn trối. Bất đắc kỳ tử. Cha
mẹ tôi bị đấu tố chết vài
tháng sau khi tôi rời đất Bắc, hai đời
chồng, đứa con dại chết rũ trên
cánh tay, nay lại đến giọt máu cuối
cùng. Cái mắt xích nối liền sự sống
của tôi trên dương thế đã đứt
phựt, nên tôi thật chẳng còn gì
để luyến tiếc cõi đời này cả.
Vậy mà tôi vẫn sống nhăn,
không sao thực hiện ý định tự kết
liễu đời mình. Một phần cũng vì
Bill, chàng hiểu hoàn cảnh của tôi
nên túc trực ngày đêm an ủi. Đến
khi nỗi buồn nguôi ngoai thì tôi lại
không có đủ can đảm bước sang
bên kia thế giới để gặp lại những
người thân. Rồi còn tình yêu của
Bill nữa. Mỗi lần nghĩ đến công Bill
đeo đuổi cả mấy năm tôi thấy
trái tim đau nhói. Rũ sạch nợ trần ra
đi bỏ lại Bill thì thật bất công cho
chàng quá. Vậy mà tôi vẫn khăng
khăng ý định không thể lấy
chàng. Theo đuổi tôi thêm được một
năm thì Bill bỏ cuộc, chàng về nước.
Tôi không trách chàng, nếu phải
trách kẻ đáng trách là tôi.
Nhưng tôi có lý do riêng, không dám
phạm vào lời nguyền vốn đã đem
lại nhiều tang tóc.
Tôi sống âm thầm như một cái
bóng, lặng lẽ mỗi ngày hai buổi đi
làm, mặt trơn trợt không son phấn để
tránh người theo đuổi. Mỗi đêm thở
dài nhớ đến Bill rồi tự trách
mình quá vô tình không dám thách
thức với số kiếp thêm một lần nữa.
Đến khi lòng tôi nguôi ngoai dần
tình yêu với người đàn ông
khác màu da thì Bill thình lình xuất
hiện. Chàng hối hả báo tin cho tôi biết
tình hình chiến sự đã đến
lúc quyết liệt, và Bill ép buộc
tôi ra đi.
Lúc ấy vào cuối tháng ba năm
1975.
Tôi không đành lòng để mộ
bia những người thân không nhang khói
nhưng Bill bảo có ở lại cũng không
xong, phải cố giữ lấy mạng sống.
Chàng nói thêm có sống mới lo
hương khói cho người chết được.
Tình hình Sàigòn lúc ấy khá chộn
rộn, mọi người nhốn nháo vì những
tin đồn. Có người đã tìm
đường chạy ra ngoại quốc vì có
tin Mỹ đã bán đứng miền Nam cho Việt
cộng. Tinh thần tôi bấn loạn vì hơn
ai hết tôi hiểu rõ họa cộng sản.
Băn khoăn chưa đến một ngày thì
tôi quyết định ra đi với Bill.
Ở Mỹ, nghe tin tức dồn dập trên
truyền hình về Sàigòn thất thủ,
tôi bật khóc tức tưởi. Lần di cư
không biết lúc nào mới trở lại
quê nhà để thăm mộ phần cha mẹ,
lần này tôi cũng không biết đến
bao giờ mới trở lại quê hương để
thắp nén hương cho chồng con. Và tôi
bắt đầu nếp sống mới ở nơi đất
khách quê người từ đó, dĩ
nhiên với Bill.
Căn nhà chúng tôi ở tọa lạc
trên một ngọn đồi thoai thoải, có
cánh đồng cỏ bao quanh, phía sau là một
khu rừng nhỏ. Đêm về, ngồi ngoài
hiên cửa, nhìn lên bầu trời đầy
sao, dựa đầu vào vai Bill, nhâm nhi ly rượu,
ngửa mặt đón nhận nụ hôn say đắm
của chàng, tôi nghe thấy tình yêu
cháy bỏng ở đầu môi.
Sống hạnh phúc với Bill được
vài năm thì số mệnh lại giáng xuống
đầu tôi thêm một đòn chí tử,
đòn cuối cùng. Chàng bị ung thư
đường ruột, ăn lan ra đến lục phủ
ngũ tạng. Từ lúc phát đến lúc
chết chỉ vọn vẻn chưa đầy ba
tháng. Bill chưa đến năm mươi, quá
trẻ so với tuổi trung bình ở Mỹ.
Khuôn mặt tôi vẫn ráo hoảnh, không nặn
được một giọt nước mắt. Số
kiếp tôi chỉ có nước mắt cho con,
chưa bao giờ nhỏ được một giọt
nước mắt cho chồng. Người chồng đầu
tiên của tôi tuy lòng thổn thức nhưng
tình hình chia đôi đất nước
lúc đó không cho phép tôi đứng
thương ngồi tiếc; vả lại tôi
không thấy xác nên vẫn còn hy vọng
tin tức sai lạc và sẽ có ngày
đón chồng về ở ngay ngưỡng cửa.
Thế nên không có một giọt nước
mắt rơi. Cái chết của người chồng
thứ hai cũng không vắt được một giọt
lệ và bây giờ đến Bill, hai gò
má tôi vẫn khô rang. Chỉ có
đôi mắt thất thần, lờ đờ như
mắt của người mất trí.
Tôi bán căn nhà, cố chôn
vùi kỷ niệm gió trăng. Hai đời chồng
trước tuy hạnh phúc nhưng là một thứ
hạnh phúc bình dị: lấy chồng, sinh con,
gia đình an vui. Hạnh phúc với Bill là thứ
hạnh phúc có hương vị; đêm vọc
ánh trăng vương vãi cả hiên
nhà, buổi chiều tản bộ vào rừng
nghe cỏ cây thầm thì trong gió hoặc
trườn người đùa với nắng
trên vạt cỏ xanh rì. Đó là thứ
hạnh phúc ưỡn người hưởng thụ,
mãi hoài không bao giờ chán. Tôi
có cảm giác ông Trời ghen với tôi,
không muốn cho tôi hưởng hạnh phúc
lâu dài. Từ ghen đến ghét chỉ
là một bước ngắn và thật không
ngờ ông Trời ghét tôi đến nỗi
nghiến răng cướp đi hết nguồn sống
của tôi một cách nhẫn tâm đến vậy.
Tôi hận Trời, nhưng Trời lại ở
quá xa chửi không nghe. Tôi chỉ nhớ đến
lời trù ếm của lão thầy bói
và tôi nghiến răng rủa lão. Tuổi của
lão đã cao, giờ này chắc đã
chết mất xác ở đâu đó rồi,
thế mà tôi vẫn rủa lão không tiếc
lời. Rủa trong lòng, rủa thành lời. Nếu
lão còn sống thì chắc chắn sẽ phải
chết vì bị vướng vào một trong những
lời thề độc miệng của tôi. Gia
tài Bill để lại tôi dư sức sống
an nhàn cho đến già nhưng tôi nào
thiết tha gì đến tiền bạc. Dọn về
ở một chung cư, tôi vẫn đi làm cho
khuây khoả để tránh tư tưởng
chán sống. Nhiều lúc ý tưởng tự
tử trở về mãnh liệt. Những người
thân của tôi đều đứng ở
phía bên kia bờ sinh tử vẫy gọi. Họ
chờ đợi tôi một lần thanh thản bước
qua. Thế mà tôi vẫn sống, sống dai, sống
khoẻ hơn bao giờ.
Tuổi già sức ai cũng yếu dần, bệnh
tật, thuốc men rồi chết. Còn tôi, mỗi
năm trừ một ngày đi khám bệnh tổng
quát, còn lại 364 ngày kia không hề biết
đến viên thuốc cảm chứ đừng
nói đến những chứng nan y như tiểu
đường, cao máu, ung thư… Không
dám tự tử nên tôi mong có bệnh
để chết, chết cách nào cũng
được để xong một kiếp người.
Lái xe tôi cứ mong có tên say rượu
nào đó đâm thẳng vào xe tôi
cho xong chuyện. Vậy mà chẳng bao giờ gặp.
Nghe tin tức mỗi năm nước Mỹ có
hàng nghìn người chết vì mấy thằng
say rượu lái xe, tôi bỗng thấy…
thèm. Thèm thì thèm vậy những tôi
vẫn sống dật dờ như một bóng ma.
Tuổi đến sáu mươi, tôi quyết
định nghỉ hưu. Mấy năm nay, nếp sống
hưu lại càng nhàn hạ; mỗi ngày
đi bộ cho dãn gân dãn cốt, về
nhà đọc sách chữ được chữ
mất, nấu nướng giản tiện, ăn qua loa, tối
hững hờ xem TV, rồi chìm vào giấc ngủ
có nhiều giấc mơ dĩ vãng với
đôi mắt thâm quầng. Thật nhàm
nhưng vẫn phải sống. Đôi lúc tôi
nghĩ có thể Nam tào sót tên tôi
trong sổ tử vong. Ông Trời biết vậy lại
không bảo cho Nam
tào một tiếng, cứ cay nghiệt bắt tôi
phải sống đến bao giờ ?
Cứ thế, đến cái Tết này
là hơn ba mươi năm trôi qua nơi xứ
người. Ước muốn không được toại
nguyện mãi đến một lúc nào
đó rồi tôi cũng bất cần, mặc kệ
chuyện đến đâu hay đến đó, nản
lòng không nghĩ đến nữa. Đúng
lúc tôi quên bẵng đã có thời
gian thật dài chẳng còn thiết sống
trên cõi đời này thì tôi bỗng
đạt được ước nguyện.
Tôi chết. Đúng ra, tôi bị giết
chết.
Chuyện xảy ra trong một buổi chiều
tháng Chín, trời chớm Thu lành lạnh. Cứ
chiều xuống, tôi có thói quen đi tản
bộ cho dãn gân cốt. Vừa bước khỏi
ngõ, bà hàng xóm đã cất tiếng
chào rồi chép miệng: trời đẹp
quá phải không bà ? Tôi gật đầu
nhìn lên bầu trời xanh ngắt không một
gợn mây, vài ngôi sao lấp lánh mãi
trên cao. Buổi chiều Thu thật đẹp, mang theo
chút hơi lạnh sắt se để đôi
tình nhân âu yếm đi sát vào nhau
tìm hơi ấm. Tôi gật đầu lần nữa:
- Chào Esther.
Rồi quay sang con chó đang nằm ghếch
mõm một bên:
- Ê ! Captain.
Cứ mỗi lần nhìn con chó cuả
bà hàng xóm, tôi cứ rợn rợn
người. Loại chó Labrador rất khoẻ. Con Captain
trông lực lưỡng với bộ lông
vàng, lốm đốm ngả sang nâu. Esther nắm
chặt sợi dây buộc vào cổ con chó
nhưng cỡ nó muốn chồm lên ngoạm
người nào thì đến sức thanh
niên còn khó giữ chứ đừng nói
đến một bà già ốm yếu, hom hem
như người mắc bệnh lao. Bởi vậy hễ
gặp con Captain tôi luôn kiếm cách lảng xa
xa. Esther vẫy tay khi tôi bước ra đường:
- Cẩn thận nghe
Josie. Nhớ kiếm đường sáng mà đi
nghe. Cứ cẩn thận vẫn hơn.
Tên tôi là
Josie, Bill đặt cho tôi khi nhập tịch. Esther
là người bạn tốt. Bà cũng về
hưu như tôi, sống ở chung cư này đến
mấy
năm nên quen nhau rất thân. Cứ hễ thấy
tôi bước ra khỏi ngõ thế nào
bà cũng dặn dò đôi lời. Khu chung
cư tôi ở tương đối an ninh, lâu
lâu mới có vụ đánh lộn,
đâm chém của mấy băng đảng chọn
khu chung cư để thanh toán chuyện gái, chuyện
nợ nần giang hồ. Năm ngoái, bọn đầu
nậu sai mấy thằng nhỏ mang “thuốc trắng”
mầy mò đến khu này bán dạo, bị
cảnh sát rượt đuổi chạy có cờ.
Vậy mà lâu lâu vẫn thấy mấy thằng
nhỏ điếc không sợ súng đứng
bán lén cho khách qua đường. Bao
nhiêu năm nay, cứ chiều chiều là tôi
tản bộ, chẳng có chuyện gì xảy ra.
Tôi cũng an tâm vì nếu không thấy
tôi về, chắc chắn Esther sẽ là người
đầu tiên báo cho cảnh sát.
Chiều hôm
đó không hiểu sao đầu tôi nặng
chình chịch. Chắc trái gió trở trời
gì đây, tôi nghĩ thầm. Vai tôi cũng
hơi nhức mỏi, có lẽ tại cố
khiêng thùng nước mắm sáng nay xếp
sang góc tủ, loạng choạng thế nào
suýt quăng luôn cả thùng. Cúi gầm mặt
đếm bước chân, tôi thanh thản tạt
sang khu chợ có mấy tiệm bán lẻ.
Tôi chợt nhớ đến lời viên cảnh
sát tuần trước:
- Bà đừng
bước sang phía khu chợ. Mấy thằng
lõi tụ năm tụ bảy bên đó nổi
cơn điên không biết lúc nào.
Còn bà tản bộ quái gì mà cứ
cúi gầm cái mặt xuống chẳng chú
ý đến một ai. Tôi không trù ếm
nhưng đi đứng cái kiểu đó rồi
cũng có ngày bà mang họa vào thân.
Tôi lại có tật
lúc nào cũng mang theo cái bóp nhỏ,
đựng tí tiền lẻ. Đôi khi trên
đường về tôi tạt ngang tiệm kem
làm một ly cho mát bụng, nhất là
vào những buổi chiều hè nóng nực.
Thấy tôi kè kè cái bóp trên vai,
ông luật sư của tôi có lần
khuyên bảo:
- Này bà, đừng
dại mà cầm theo bóp. Chẳng biết có
tiền hay không nhưng mấy thằng đứng
đường đang túng không nghĩ ngợi
gì nhiều đâu. Đang cơn đói thuốc,
gặp được bà là chúng vồ ngay.
Tôi gật đầu
ừ hử nhưng chẳng màng gì đến lời
khuyên, hễ bước ra khỏi nhà là cầm
theo cái bóp. Đang khi tôi cười tủm tỉm
nhớ lại những lời vàng ngọc của
các vị bảo vệ luật pháp hay lo xa
thì chuyện bất ngờ xảy ra. Bình thường
mọi việc cứ lừ đừ trôi như một
ngày uể oải bước qua trong tuổi già
bóng xế, vậy mà khi có biến động,
chuyện xảy ra chỉ trong nháy mắt, nhanh như
ánh chớp nhoáng lên trong màn đêm,
thoắt bầu trời vụt tối sầm như hũ
nút.
Một thằng nhóc
ở trong hẻm nhảy xổ ra, và nhanh như
cơn gió lốc, nó giật ngay cái bóp
tôi đang khoác trên vai. Sức giật phải
mạnh lắm, vì tôi có cảm giác
như cánh tay cũng bị đứt lìa khỏi
bả vai. Khi thấy đau tôi mới biết cái
bóp đã bị giật mất. Nhưng tôi
không có thì giờ suy nghĩ vì cả
thân hình tôi ngã chúi theo sức giật
của thằng nhỏ. Trước khi đập đầu
xuống nền đất, tôi thấy rõ những
viên sỏi nho nhỏ đủ màu trộn lẫn
với chất xi măng tráng sần sùi trên
mặt đường. Tôi nghe đánh bốp một
cái, đầu tôi nổ lửa rồi một
màn đen đặc thình lình bao chụp lấy
tôi.
Tôi chẳng thấy
đau đớn gì cả. Thằng nhỏ
đã giết chết tôi.
Ngay sau khi đầu
tôi đập xuống mặt đường, tôi
nghe có tiếng hút thật mạnh. Âm thanh
nghe rõ mồn một, giống như tôi bị
hút ra khỏi thân thể, lơ lửng trên
không. Quý độc giả đọc sách
báo nhiều, nghe nói lúc linh hồn lìa khỏi
xác, chắc hiểu tôi muốn nói gì.
Tôi không muốn nói dài dòng chi tiết
về một sự kiện mà quý vị
đã biết, chỉ xin minh xác rằng những
điều quý vị đọc trong sách vở
là đúng. Tôi dám nói thế vì
nó đang xảy ra cho tôi ngay bây giờ.
Và tôi đang lơ lửng trên cao nhìn xuống,
thấy rõ mọi người chạy dồn về
phía thân thể tôi đang nằm sóng
sượt trên mặt đường. Họ tụm
lại, đứng lố nhố vòng trong vòng
ngoài, nhiều người cố nghển cổ
nhìn cho rõ. Tôi thấy rõ ót của từng
người và tôi thấy mặt tôi với
đôi mắt nhắm nghiền, máu chảy loang
thành vũng một bên trán.
Ồ ! Tội cho tôi
quá, tôi nghĩ thầm. Tôi thấy chiếc xe
cứu thương hú còi inh ỏi, đậu xịch
bên lề đường. Hai ba người
đàn ông chạy bổ đến, khiêng
xác tôi lên chiếc băng-ca, miệng
không ngớt la lớn:
- Tránh ra, tránh
ra.
Mấy anh cứu
thương thật tận tâm với nhiệm vụ,
tôi thấy thương họ quá. Họ nhiệt
tình muốn cứu tôi nhưng tôi chỉ muốn
nói cám ơn, chuyện đã xảy ra đến
vậy thì cứ để nó tự nhiên. Ai
mà chả một lần phải chết. Riêng
tôi thèm… chết từ lâu lắm rồi,
xem nào… từ lúc thằng con lớn tôi
chết trận kia, mãi đến nay mới được
toại nguyện. Thôi, cứ để cái
xác tôi yên, cho tôi một lần thoả
ước nguyện bước đi gặp lại những
người thân.
Tôi còn nghe
người đàn ông gầy cao lêu khêu -
người hàng xóm - đứng bên lắc lắc
đầu chép miệng:
- Coi bộ không xong,
máu ra thế kia chắc phải vỡ sọ. Tội
cho Josie quá!
Tôi muốn an ủi
anh đã thương tiếc tôi. Thôi, đừng
buồn ! Cứ để tôi đi nhé.
Vươn mình lên cao hơn, tôi thấy
rõ thằng nhỏ giật chiếc bóp của
tôi chạy vội sang xóm bên kia đường,
sau lưng có ít nhất mấy anh thanh niên vừa
chạy vừa la, bắt nó… bắt nó…
thằng ăn cướp. Dù sao tôi cũng
cám ơn nó đã giúp tôi đạt
được ước nguyện. Tôi theo họ
phía trên cao để xem họ có bắt
được thằng nhỏ trời đánh
thánh đâm không. Nhưng tôi không
có thì giờ vì thình lình tôi bị
hút lên cao hơn, vút lên chín tầng
mây. Cảnh vật và mọi người
thoáng chốc nhỏ hẳn lại rồi biến mất.
Bỗng tôi rơi vào một đường hầm
tối đen, sâu hun hút. Tôi thấy người
mình hụt hẫng vì tốc độ rơi
nhanh đến chóng mặt. Đột nhiên,
tôi rơi chậm lại, và rơi tõm
vào một vùng ánh sáng trắng, trắng
tinh, trắng nõn. Chung quanh tôi cảnh vật đều
phủ một màu trắng tươi, trắng
mát, trắng kỳ diệu; một màu trắng cả
đời tôi chưa hề thấy. Chợt một cảm
giác êm đềm, bình an, thanh thản lạ
lùng ôm choàng lấy tôi, thấm vào
da, len sâu đến tận xương tuỷ.
Thú thật cả đời người tôi
chưa một lần nếm được cái cảm
giác bình an thư thái đến vậy.
Tôi cười hể hả. Có ai ngờ chết
mà… sướng vậy đâu !
Thế là xong !
Người tôi nhẹ như bông, lâng lâng
múa lượn tận hưởng cái cảm
giác thú vị chưa một lần tận hưởng
trong đời. Bỗng tôi có cảm giác một
sức kéo nào đó tác động
lên người. Tôi vũng vẫy chống cự
nhưng sức kéo ngày càng mạnh, cuốn
hút tôi ra khỏi vùng mây trắng
nõn. Tôi chợt hiểu, họ bắt tôi trở
lại. Trời ơi ! xin thương tôi… xin
thương tôi, cho tôi ở lại đây,
đừng… đừng bắt tôi quay về.
Ông Trời vẫn
còn ghét tôi nhiều lắm nên bắt
tôi trở lại lượn chập chờn phía
trên thân thể đang nằm bất động,
chung quanh dây nhợ chằng chịt. Nào là
bình nước biển, nào là ống thở,
máy móc theo dõi nhịp tim chạy rì
rì, lâu lâu lại kêu tít một
cái. Hai ông bác sĩ và mấy cô y
tá trông bận rộn với các dụng cụ
y khoa. Họ đang cố cứu sống tôi.
Tôi muốn la lên
thật to:
- Đừng… xin
các ông các bà đừng làm gì
nữa, cứ để tôi đi… xin thương
tôi…
Nhưng tôi không
cưỡng lại được sức hút của
hiện hữu. Nó trì kéo tôi cho bằng
được vào phía bên trong thân thể.
Tôi thấy người tôi động đậy
và rồi tôi lọt hẳn vào trong. Lúc
nãy tôi ở trên nhìn xuống, bây giờ
tôi lại mở mắt nhìn lên và thấy
rõ từng khuôn mặt của bác sĩ, y
tá. Ánh mắt họ rạng rỡ khi thấy
tôi cựa người và mở mắt nhìn.
Họ đồng thanh reo hò, mừng rỡ:
- Bà cụ tỉnh lại
rồi… tỉnh lại rồi.
Trời ơi ! mừng…
mừng cái con khỉ, tôi rủa thầm. Họ hớn
hở cứ như làm được một việc
gì vĩ đại lắm. Quý vị có biết
đã làm hại tôi không ? Đang chết…
ngon lành các ông các bà lại chữa
cho tôi làm gì ? Bây giờ tôi phải cắn
răng sống đến bao giờ đây ?
Vậy là tôi sống,
sống thoải mái như chưa bao giờ nếm phải
cái chết. Sau ngày xuất viện, tôi
khóc vật vã đến cả tuần.
Tôi phải làm
cho ra lẽ. Thằng nhỏ đã giết chết
tôi. Chết nửa chừng sống lại thì cũng
xem như đã chết rồi. Viên cảnh
sát cười nửa miệng khi nghe tôi khiếu
nại:
- Bà nói gì
? Thằng nhỏ giết bà chết ? Bà nghĩ
xem có buồn cười không, nếu nó giết
bà chết tại sao bà còn đứng
đây để khiếu nạỉ
Luật sư của
tôi gật gù thêm vào:
- Thằng nhỏ
không thể bị kết tội sát nhân
vì một lý do đơn giản là bà
đang đứng sờ sờ trước mắt
tôi đây, bà hiểu chứ ?
Viên chánh án
tỏ vẻ thương xót nhưng giọng cộc
lốc:
- Trước sau gì
thằng nhỏ cũng vào tù nhưng không thể
kết án tội sát nhân được.
Hình phạt sẽ căn cứ trên tội
hành hung và cướp giật. Toà sẽ
đại diện bà để truy tố cho
đúng tội danh.
Đại diện cho
tôi mà không nghe lời tôi khiếu nại
thì đại diện làm gì ? Thế
công lý và sự thật đâu ? Nhưng
tôi sẽ có cách của tôi. Thằng nhỏ
sẽ bị truy tố như người lớn vì tội
giết người. Tiểu bang này có án tử
hình cho tội sát nhân. Tiếng viên luật
sư vẳng bên tai:
- Cho dù tôi muốn
truy tố bị cáo để làm vừa
lòng bà thì cũng không biết dựa
vào đâu để trình toà. Sách vở
không hề có vụ kiện về tội
sát nhân mà nạn nhân vẫn còn
đứng trước toà, kể cả án lệ.
À, ra thế !
Vì tôi còn đứng trước toà
nên không thể cải tội danh thành
sát nhân được. Nếu tôi không
có mặt ở đây thì sự việc phải
khác chứ gì. Tôi chợt thấy bất
công cho cả tôi lẫn thằng nhỏ. Nếu
không xử theo tội sát nhân thì lại
bất công cho tôi vì tôi đã chết
rồi (có ai để ý điểm này
không ? tôi đã chết rồi, nghe rõ
chưa ?). Nó đã giết chết tôi… nửa
chừng rồi tôi sống lại. Còn nếu
toà nghe tôi cải tội danh thành sát
nhân thì bất công cho thằng nhỏ vì
chiếu theo luật lệ hiện hành không
có xác chết thì chưa thành tội.
Tôi nghĩ thầm, thì tôi có muốn
đứng đây đâu, tôi đã bước
sang bên kia thế giới rồi chứ, các
ông bắt tôi trở lại dương thế chứ
tôi nào muốn đâu; nói thẳng ra
tôi rất muốn chết lần nữa, để
tôi ở lại cái thế giới màu trắng
đầy an bình mà tôi may mắn nếm
được.
Những người chết
nửa vời sống lại thường có một
sứ mạng nào đó, như viết sách
kể lại cái cảm giác an bình, tả
cái thế giới toàn màu trắng, hoặc
loan truyền rằng thật sự có thế giới
bên kia… Riêng tôi cũng có một sứ
mạng.
Sứ mạng này thật
đặc biệt và tôi phải thực hiện
càng sớm càng tốt.
Thằng nhỏ
được tại ngoại hầu tra. Thì mấy
thằng đầu nậu bỏ tiền ra chứ
còn ai nữa ! Loáng thoáng tôi thấy
bóng nó lại xuất hiện ở khu chợ,
cười nói tỉnh bơ cứ như không
có chuyện gì quan trọng cả. Nó đứng
khoa tay múa chân, ba hoa khoác lác chuyện
gì đó, rồi cúi gập người
cười rũ rượi. Chưa bao giờ tôi lại
ghét cái dáng điệu của nó đến
thế.
Tôi sẽ dành
riêng cho nó một bất ngờ. Ngay tối nay. Thằng
nhỏ phải đi một mình. Trời phải thật
tối, hoặc lựa chỗ nào có ánh
đèn mờ mờ thôi. Và chắc chắn
không có ai lảng vảng chung quanh.
Tôi sẽ đứng
chận đầu thằng nhỏ, cầm trong tay khẩu
súng nhỏ chĩa thẳng về phía nó. Lỡ
có chuyện gì thì tôi còn một khẩu
nữa để trong xắc taỵ Nhưng chắc
không có gì bất trắc xảy ra vì
tôi chủ động mọi chuyện. Cả hai khẩu
súng cần được sử dụng ngay.
Thằng nhỏ chắc
chắn nhận ra tôi, nó sẽ cười khinh khỉnh,
hất đầu chỉ ngón tay về phía
tôi:
- Hê ! bà già
kia, chết hụt một lần chưa sợ sao ?
Khi nhận ra khẩu
súng tôi cầm trên tay, nụ cười
trên môi bỗng méo xệch, nó đưa
hai tay ra phía trước, phân trần:
- Này này,
có gì thì nói chuyện giải quyết với
nhau nghen. Coi chừng ngón tay bà cướp
cò…
Tôi sẽ ra lệnh
bằng một giọng rắn rỏi, vẻ mặt
đanh cứng lại để cho nó biết tôi
không đùa:
- Đứng yên nghe
con. Nghe tao nói đây…
Rồi tôi moi trong xắc
ra một khẩu súng nữa, trao cho nó:
- Cầm lấy.
Chắc chắn nó
không ngờ chuyện xảy ra kỳ cục đến
vậy. Cặp chân mày thằng nhỏ khẽ cau
lại, vẻ mặt nhăn nhó nhưng tôi tin chắc
là nó sẽ cầm lấy khẩu súng.
Cướp cạn như nó có thêm khẩu
súng việc làm ăn càng thêm khấm
khá. Tôi khuyến cáo:
- Đạn có đủ
sáu viên trong đó. Cũng như khẩu tao
đang cầm trên tay, đạn đã sẵn
sàng. Chỉ cần bóp cò là xong.
Nghe nói đến
đạn khuôn mặt thằng nhỏ rạng rỡ
hẳn ra. Hoá ra nó đang cầm trong tay đồ
chơi thật. Nhưng thế nào nó cũng mở
miệng hỏi:
- Để làm
quái gì ? Bà có súng, tôi cũng
có súng là thế nào ?
- Tao muốn mày giết…
tao, nghe rõ chưa ? Tao sẽ đếm đến
năm, nếu mày không bắn tao sau năm tiếng
đếm, tao sẽ bắn mày. Tao lập lại lần
nữa, mày không bắn tao thì mày chết.
Nào, bắt đầu… một… hai…
Mũi súng chĩa thẳng
vào tim nó, tôi dõng dạc đếm. Trong
vòng mười bộ trở lại, tôi chưa
bao giờ bắn hụt. Bill tập cho tôi bắn từ
thuở mới sang, chàng phải khen tôi có khiếu
bắn. Đã bắn là trúng ngay giữa hồng
tâm, không trệch một ly. Mặt thằng nhỏ
bối rối thấy rõ:
- Bà có
điên không ? Bộ bà muốn chết lắm
hả ?
- Im miệng ! Hai…
ba…
Đến tiếng thứ
tư chắc chắn nó bắn tôị Thằng
nhỏ không thể không bắn vì lẽ dễ
hiểu là nó không muốn chết, còn
tôi thì muốn chết. Tôi ngã xuống,
khẩu súng văng ra một bên. Dĩ nhiên
nó bỏ chạy, nhưng chẳng ăn nhằm
gì đến tôi. Mọi người biết ai
đã giết tôi, và sẽ tìm ra
nó. Có kể lại chuyện tôi ra lệnh
nó phải bắn tôi cũng chẳng ai tin.
Và công tố viện sẽ nghiêm nghị kết
tội thằng nhỏ như thế này:
- Bà già biết
thân yếu đuối nên mang theo khẩu súng
để phòng thân. Còn mày, mày giết
bà già để bịt miệng, không muốn
bả ra toà làm chứng về tội hành
hung và cướp giật.
Lần này, chắc
chắn nó sẽ bị truy tố vì tội
sát nhân. Mặc dù chưa đến 18,
nhưng nó sẽ bị xử như người lớn.
Nó sẽ chết rũ trong tù, hoặc lên ghế
điện. Cả cuộc đời niên thiếu của
nó đầy dẫy tội ác; bàn tay
nó đã nhuốm máu đôi lần. Thằng
nhỏ sống chỉ gây tai họa cho người
khác chứ chẳng lợi ích gì cho xã
hội. Mà dám nó chết cả xóm lại
ăn mừng vì đỡ được một mối
lo. Còn nó không chừng lại cám ơn
tôi vì được sống ở một thế
giới bình an không vướng chết chóc hận
thù. Nhưng chuyện đó là chuyện nhỏ,
chuyện lớn nhất là tôi đạt
được ước nguyện. Tôi nằm chết
thoải mái. Lần chết hụt trước
hơi bất ngờ nên tôi không chuẩn bị
gì. Lần này thì khác, tôi thanh thản
bước sang vùng trời đầy mây trắng,
và an tâm ở lại tận hưởng một
cuộc sống mới.
Ôi chao ! thật
không ngờ ông Trời vẫn còn ghét
tôi. Kế hoạch tôi suy tính kỹ càng
đến thế vậy mà trục trặc vẫn xảy
ra.
Tối nay, khi tôi trao
khẩu súng cho thằng nhỏ, nó ngơ
ngác, tay run run cầm lấy. Khuôn mặt nó
nhuốm chút sợ hãi nhưng lấy lại vẻ
tự tin khi rờ được chất thép lạnh.
Tôi nói, tao sẽ đếm đến
năm…
Thì ngay lúc
đó, một con chó có bộ lông
vàng từ trong bóng tối nhảy xổ ra ngoạm
lấy chân tôi. Trời ơi ! con Captain. Cha
tiên nhân con chó, ở đâu lại đến
phá đám không đúng lúc thế
này ? Còn Esther nữa, có chó phải giữ
sao để nó chạy lăng nhăng cắn người
? Những câu hỏi thoáng nhanh trong óc và
tôi cũng không có thì giờ tìm
câu trả lời vì con chó kéo người
tôi ngã chúi về phía thằng nhỏ.
Đang đà chúi, ngón tay tôi mấp
máy và khẩu súng cướp cò,
viên đạn vụt thoát khỏi nòng
súng, xé gió đâm thẳng vào lồng
ngực thằng nhỏ, để lại một lỗ
phía sau lưng. Khoảng cách khá gần
nên sức công phá của viên đạn mở
toang lồng ngực, máu trào ướt đẫm
cả vạt áo. Tôi nghĩ sự việc xảy
ra chưa đến một giây; thằng nhỏ vừa
thấy con chó, ngơ ngác chưa kịp phản ứng
thì bị ngay viên đạn cắt đứt tĩnh
mạch dẫn máu lên óc. Thằng nhỏ
ngã bật ra sau, chết liền, chết tốt ngay tại
hiện trường, trên tay vẫn còn nắm khẩu
súng. Còn tôi ngã đè lên người
nó.
…Viên cảnh
sát sau khi quan sát hiện trường trấn an
tôi:
- Đúng là thằng
nhỏ muốn giết bà để bịt miệng.
Còn bà hoàn toàn có lý do để
tự vệ.
Thế là tôi vẫn
sống còn thằng nhỏ lại chết. Coi vậy
nó may mắn hơn tôi nhiều lắm. Khi bước
qua thế giới đầy hoa trắng tươi
mát kia, chắc chắn nó sẽ cám ơn
tôi. Thế giới mà nếu lỡ biết một
lần người ta sẽ không thiết tha gì với
chốn hồng trần nữa, nơi vốn gây nhiều
sầu não.
Tôi lỡ một lần
biết đến thế giới đó, thèm
bước sang vĩnh viễn nhưng không được
vì số mệnh, số kiếp, số trời, số
đen số đỏ… gì gì đó. Kế
hoạch của tôi thật hoàn hảo, trừ con
chó chết tiệt không nằm trong dự
tính. Lỡ hết mọi chuyện nhưng tôi sẽ
không bao giờ tuyệt vọng. Thua keo này
bày keo khác.
Thế nào có
ngày tôi cũng kiếm được một thằng
nhỏ trời đánh khác để thực hiện
kế hoạch tuyệt hảo một lần nữa. Cầu
mong sẽ không có con chó nào chạy
rông vào phút cuối.
Quý vị đọc những dòng chữ
này cũng xin cầu chúc tôi sớm đạt
được ước nguyện nhé. Cám ơn
quý vị nhiều lắm.
Hải Ngữ
(Bai Chuyen)