Hiếp Dâm Lịch Sử [Sau 30-04-75]
(TRẦN TUẤN KIỆT)
Mấy ngày sau khi có sự đổi thay của
lịch sử, tôi gặp Nam ở bên Hồ Con
Rùa. Nam
đi bên kia, dường như đạp xe. Tôi gọi,
Nam
giật mình. Tất cả đều gấp rút.
Tôi không nói gì cả, móc trong
túi ra tờ căn cước:
- Tao không cần nữa. Mày thì cần,
dùng nó mà đi đường.
Nam bỏ đi. Tôi lặng yên
nhìn theo bạn, bùi ngùi.
Tôi quay lại quán cà phê ở
cây đa gần bên hồ. Bọn bụi đời
ngồi đó khá đông. Tôi thấy anh
bạn cũ nguyên làm quản lý cho tòa
soạn báo Sống. Nó đạp xích lô
rề lại, vảy tay và hét lên:
- Uống cà phê đi. Tao vừa chạy
được mấy cuốc.
Thêm một thằng đạp xích lô nữa
ở ban Văn Nghệ Địa Phương Quân. Hắn
cũng dừng lại, nhào vô cười khanh
khách:
- Mẹ nó, họ bảo chạy mau thì
tôi chạy thật chậm. Họ bực bỏ xuống
đường, trả tiền xe. Họ bảo chạy
chậm tôi chạy mau, họ sợ cũng
đòi xuống, trả tiền đi xe khác.
Anh này tên là Hoàng hát thật
hay, khí phách ngang tàng và trong ban Văn Nghệ
của đại úy Tô Công Biên. Anh vốn
không được trọng dụng lắm nên chỉ
mới lên hạ sỹ.
Thạch Hãn, tức anh chàng đạp xe
trước, nói:
- Ai trốn quân dịch hoài thì bây
giờ đỡ lo rồi.
Tôi cười nhẹ:
- Đỡ lo chuyện
bắt lính. Nhưng lại chỉ lo đạp
xích lô cả đời thôi.
Tôi uống ly
cà phê rồi bỏ đi. Ngang qua đại lộ
Nguyễn Huệ, thì nhớ ngay đến một chiến
binh Thủy Quân Lục Chiến [1] vừa gục
ngã ở tượng Thủy Quân Lục Chiến,
gần tòa Quốc Hội. Người ta kể, anh ta
đến trước tượng lính, cười
lên ngạo nghễ rồi nã một phát
súng lục vào đầu. Thật là một
cái chết oai hùng, sảng khoái.
Tôi đi loanh quanh
suốt buổi chiều hôm ấy, cho đến
đêm khuya không về nhà. Ngồi trên băng đá ở
bến tàu và đọc lại mấy vần
thơ cũ:
Rải rác mưa tro mờ Bến
Chương Dương
Ánh đèn khuya lạnh lẽo
chơi vơi buồn
Tôi khép áo mưa
Ngồi trên băng lạnh
Trông ngóng những con tàu
tha phương
Hồi còi rú lên buồn thảm
Tiếng còi như nỗi thê
lương ...
Nhiều người đã bồng
bế nhau ra đi.
Hồi chiều qua gặp Bùi Giáng ở Gia
Định đang cõng một tảng đá to.
Đi sau là một đám sinh viên Vạn Hạnh.
Dường như có anh chàng Tiệp Khắc hay
Pháp gì đó thấy thế lại gần hỏi:
- Lão già kia, sao vác tảng đá
to thế. Sao không bỏ xuống cho nhẹ mình ?
Bùi Giáng trả lời:
- Nếu bỏ tảng đá xuống, tôi sẽ
bay đi khỏi đất nước này đấy.
Phần nhiều người miền Nam đều
muốn ra đi. Họ ngồi túm ở Bến
tàu-Bến Chương Dương dưới trời
mưa gió. Ai cũng mong vượt đại
dương, lìa bỏ quê hương và chờ
đợi những con tàu âm thầm rời bến.
Họ khốn khổ, mỏi mòn và tuyệt vọng.
Buổi sáng Sàigòn ồn ào, lộn
xộn như một bầy cá trong rọ mà
người ta vừa vớt từ dưới ao lên.
Bọn văn nghệ báo chí chùm nhum ở
Nguyễn Huệ gần Câu lạc bộ báo
chí. Có quán cà phê vỉa hè gần
đó, thường thì Huy Cường (nổi tiếng
ở dơ lẫn nhờ mấy phim Việt Nam anh
đã đóng trước đây) đang
đấu hót với số đông trong bầu
không khí chộn rộn. Vài hôm sau, nghe
nói là Huy Cường bị tóm vào
Công An vì tội nói bậy bạ và phản
động. Cố cãi nhưng Công an lấy một
xấp hình ảnh trưng ra làm bằng chứng
là anh đã tụ tập trái phép.
*
Sách được các nhà Khai Trí
- Sống Mới tuôn ra vô số cho anh chị em
văn nghệ sỹ bán xon khắp nơi, từ
trước đường Lê Lai đến rạp
Rex; sau đó bị tịch thu, đuổi bắt, họ
lại chở sách đến hẻm Cá Hấp, gần
bên hông rạp Hưng Đạo ngồi bán.
Vài người bộ đội đi qua, đứng
nhìn hỏi:
- Có “Nghìn lẻ một
đêm” không ?
- Có “Tâm hồn cao thượng”
không ?
Lại có tên hét to:
- Sách ngụy ! sách ngụy !
Một số chị em bụi đời ngồi
túm tụm gần rạp Rex nhìn qua chửi tục.
Lát sau bộ đội và bọn “30”
mang băng đỏ đi tới thu sách. Thế
là vô số những người bán sách
áp lại đánh giải vây cho nhau.
- Tụi nó tới kìa !
- Chạy đi, chạy mau. Coi chừng bị bắt,
bị cải tạo hết đó.
- Đốt đi ! Đốt đi !
Rồi sách được quăng thành
đống và người ta mồi lửa. Lửa bật
cháy càng lúc càng to, khói lên mịt
mù gần bùng binh bên hông rạp Rex.
- Đốt hết, đừng để tụi
nó chở về.
Xe díp đậu lại, bọn CA mang súng ống
ùa vào chỉ biết nhìn đống lửa.
Vài chị em lắc đầu:
- Thật tiếc cho sách.
- Tụi man rợ này thật giống thời
giặc nhà Tần đốt sách chôn học
trò !
- Rồi đây người trí thức
không có nữa !
- Nhìn sách báo bị đốt,
mình tiếc cho thời kỳ tự do nhất trong lịch
sử. Một nhà giáo nói với bạn.
- Bây giờ chúng nó tịch thu tất cả,
để cho dân không biết gì đến Tự
do và nhân quyền. Tội nghiệp cho lịch sử
dân tộc.
Sau khi giải cứu được cho một em
bé bán sách bị lôi lên xe, tôi lập
tức đi về hướng chợ Sàigòn.
Lúc qua nhà sách Khai Trí, tôi thấy
ông Khai Trí đứng ngoài cửa, ông
nói:
- Anh thấy thế nào ?
Tôi nhìn ông cười:
- Chúng nó hủy diệt toàn bộ
văn hóa tự do rồi. Ông không mở tiệm
bán cày cuốc đi cho hợp thời.
Ông buồn, than thở:
- Kho sách tôi hết sạch.
Tôi nói:
- Sao ông không đi ?
Ông Khai Trí yên lặng hỏi tôi:
- Còn Chu Tử ?
- À, tôi quên.
Để tôi ghé Chu Tử xem sao.
Tôi đi qua mấy
hàng sách bán ngoài lề đường
và nói với họ:
- Sách bị hốt ở
gần rạp Rex. Bày ở đây coi chừng
đó.
Hai cô gái đang
ngồi nhìn lên, một cô gọi tôi:
- Anh Kiệt có nhớ
em không ?
Hơi ngờ ngợ,
tôi hỏi:
- Em ở đâu !
- Em ở gần Đề
Thám, gần nhà in báo Phổ Thông.
- À ! Thư Lâm Ấn
Quán của con gái cụ Đông Hồ phải
không ?
Cô gái không
trả lời và hỏi:
- Bộ anh đi mua
sách hả ?
Tôi lắc đầu.
Cô lại hỏi tôi:
- Anh có nhớ hai
câu thơ này không ?
- Thơ gì ?
Cô gái duyên
dáng đọc:
Anh ngồi dưới
một cành dương liễu
Trong chốn lao
tù nhớ tới em ! ..
Thơ của anh đấy!
Dường như
tôi viết bài này khi nằm trong Quân lao
Gò Vấp nên nói:
- Phải, anh còn nhớ
! Thôi chào em nghe !
Đáng lẽ
tôi phải hỏi tên cô vì cô nhớ
tới thơ của mình, một niềm vui nho nhỏ
nhưng gấp quá, tôi cần phải gặp những
người bạn thân để liệu việc
gì đó.
Tôi quay sang nhà
Chu Tử trong lúc gia đình anh đang chộn rộn.
Anh Chu Tử ăn mặc gọn ghẽ, cứ đi tới
đi lui, mấy người trong gia đình cứ
đưa mắt nhìn theo anh.
Tôi chào. Anh
cười:
- Sòng phé
đã tan rã cả mấy hôm nay rồi, chỉ
có anh mò tới.
Rồi thêm mấy bạn
lạ bước vào. Anh không ngồi với
tôi nữa và quay sang với mấy người
đó, thầm thì, rù rì. Con mắt Chu Tử
đã lớn càng nở to trong đôi
kính. Có khi anh lại chửi thề.[2]
Tôi biết anh
có chuyện riêng, không muốn mình nghe,
dù rất thân ! Tôi từ giã anh, ra bến
xe lam đi về hướng Ngã Sáu
Sàigòn.
*
Thường nhật
tôi hay lên đó uống cà phê ở
nhà một người bạn tên Chiêu. Anh
là chủ trại chăn nuôi heo ở Dĩ An.
Lúc này tôi và Chiêu đang tìm
“đường cứu nước” ngày
nào cũng bàn bạc ở đó, nhưng
ghe tàu chưa có nên công việc chậm
chạp như gà mắc đẻ.
Khi công việc
chưa ra gì thì Chiêu chở chạy vòng
vo đi thăm mấy người bạn ở cầu Chữ
Y, những người này toàn là dân
tư sản.
Bây giờ là
lúc CS đánh Tư Sản nên họ sợ lắm.
Nhà cửa ruộng vườn và sinh mạng
đều bị bắt, bị cải tạo, bị tịch
thu. Chiêu nhờ có ông bác ở ngoài
Bắc vào làm ở Tòa án tối cao
gì đó bảo lãnh nên chưa bị
gì. Tuy vậy Chiêu sốt ruột lắm, anh
nói với vợ và tôi:
- Đi chuyến này
có Ba Kiệt theo thì đỡ lo. Kiệt nhớ
kiếm cho một số đàn em tin cẩn, trang bị
vũ khí đề phòng cướp biển.
Tôi ậm ừ nghĩ
trong bụng:
- Mẹ tổ ! Gặp
cướp biển thì chỉ có nước
đi mò tôm ! Đánh chác gì ba
cái nghề võ với súng đạn.
Nhờ có sự bảo
vệ của cấp lớn nên Chiêu thường
trụ ở nhà tại khu ngã 6 Saigon. Ở
đây an toàn hơn là về Dĩ An. Mỗi
ngày Chiêu phát cho tôi một số tiền
nho nhỏ để đưa cho bà xã đi chợ.
Lúc này có Vũ
Bằng và thi sỹ Lý Minh từ Quận Tư
lên thăm.
Dọc đường
chúng tôi đi qua ngả Thị Nghè đến
Ngã Ba Hàng Xanh. Xe cộ tấp nập, đủ
loại hàng được bày bán trên
mé lộ. Chúng tôi không mua mà chỉ
đi xem rồi ghé quán cà phê. Vũ Bằng
còn rất khoẻ. Tôi cười nói
dóc với ông:
- Tôi đang viết
món ngon Nam Bộ đấy !
Vũ Bằng hỏi thiệt
tình:
- Anh cũng có
nghiên cứu về món ăn ?
- Tôi đọc
món ngon Hà Nội của ông rồi. Sau
tôi mê món thịt cầy. Thường buổi
cùng bọn Nguyên Vũ, Mặc Tưởng ăn
nhậu thịt cầy ở đường rầy xe lửa,
cổng số 3, gần chợ Vườn Chuối.
Ông Vũ Bằng
tươi cả nét mặt:
- Ồ ! Tôi có
đến đấy một lần.
- Chiều thứ bẩy
thì không còn chỗ trống.
- Ở đấy ngon
hơn ở Lý Thái Tổ .
Uống cà phê với
Lý Minh, nhà thơ miền Nam, bạn của Trần
Phong Giao. Tôi hỏi:
- Có gặp Trần
Phong Giao không?
Lý Minh cười:
- Gặp một lần.
Nghe nói Trần Phong Giao đang bán phở.
- Anh em ở toà soạn
báo Văn còn ai không ?
- Họ biến
đâu mất. Còn Dương Nghiễm Mậu
thì đang làm sơn mài gì đó,
núp rất kỹ.
- Kinh nghiệm Cộng Sản
ở miền Bắc mà ! Tôi đáp.
Vũ Bằng và
Lý Minh ngồi im lặng...
- Thôi chúng
tôi về đây. Hôm nào rảnh Kiệt
qua Tân Thuận chơi.
Hai người ra về
có vẻ thong dong. Tôi ăn uống qua loa vài
chén cơm rồi lên nhà Hoanh, hắn đi
cà thọt đang ngồi với một đám
anh em, có cả Thế Nguyên, anh Thảo nhà
giáo và Nghiêu Đề.
Họ thường đấu
láo ở quán cà phê trong cư xá.
Hoanh nói:
- Tối nay mình ra Cấp
chơi.
Thế Nguyên
nói:
- Cẩn thận.
Hoanh bảo:
- Ở đó
là quê hương của tớ. Có nhiều
ghe đi biển ở gần hải đăng.
Thế Nguyên
nói:
- Tùy các anh.
Hắn làm cho mỗi
người một cái thẻ ở Hội Nhà
Văn, lúc đính vào túi thì bộ
đội cũng không làm khó dễ gì.
Chiều hôm đó, bốn năm tên lên xe
đò ra Vũng Tàu.
Vừa ra nhà Hoanh ở
gần Hải đăng, chưa kịp uống chén
nước thì có một số bộ đội
ở xã tới:
- Các anh cho xem giấy
tờ. Các anh đi đâu ra biển giờ này
!
Hoanh nói:
- Nhà tôi ở
đây mà. Ông già tôi là bác
Tư đó.
- Tôi không hề
thấy các anh ở địa phương này.
Mau trình giấy tờ ra.
Hoanh nói:
- Chúng tôi
là người ở Hội Nhà Văn đấy.
- Chúng tôi chẳng
biết hội hè gì hết. Giờ này ra biển
thì bị bắt. Có lịnh giới nghiêm
đó. Biết không ?
Ông già của
Hoanh nói:
- Chúng nó
là người nhà mà. Tháng nào lại
không ra đây chơi !
Công an xã,
có bộ đội đi kèm, nói:
- Thấy các anh
là người của Hội Nhà Văn nên
chúng tôi thông cảm. Ngày mai các anh phải
trở về Sàigòn ngay, không được
phép ở lại đây ?
- Sao vậy ?
- Đây là
vùng biển cấm. Các anh định vượt
biên thì mới ra đây.
Suốt đêm
đó họ cho người canh giữ. Ở cái
ụ có chiếc ghe lớn, họ cũng cho một
chú bộ đội địa phương và
hai anh chàng “30” ngồi canh chừng. Biết
đã bị động, chúng tôi
đành trở về Saigòn ngày hôm sau.
Tôi theo Hoanh lên
nhà Thế Nguyên ở gần Ngã Bẩy gặp
một anh cán bộ cấp cao tên là Tư
Bình. Sau khi biết tôi, Tư Bình bèn rủ
đi nhậu và nói:
- Hồi nằm trong rừng Kong Pong Chăm. Tôi
đọc tờ Chí Trai , thấy anh trả lời Tổng
Thống ngon lành quá, nên mong có lúc về
Saigòn tìm anh nhậu một bữa cho biết.
Tôi không chịu nổi cái tài uống
rượu của Thế Nguyên và Tư Bình
nên nhậu một hai lần rồi không lại
đó nữa.
Tôi thấy Bùi Giáng đang đeo bị
gậy múa võ ở bùng binh Ngã Bảy
bèn ra gọi:
- Thầy ơi ! Thầy !
- Kiệt hả ?
- Thầy vào đây uống cà phê !
Tôi bước tới một quán cà
phê rộng nhưng vắng teo. Tôi nhìn
vào không có ai. Bùi Giáng ngồi xuống
nói:
- Có sống được không ? Mầy
võ giỏi, sao không phi thân vào
đánh chết cha chúng nó hết đi.
Tôi buồn, không trả lời.
Trong quán, cô chủ bước ra ăn mặc
rất Tây, vóc người như đầm. Thật
đẹp.
Cô hỏi, giọng người Bắc ở
trong Nam
từ lâu:
- Các ông uống gì !
Tôi nói:
- Cho cà phê đen ! Hai ly !
Tôi uống với Bùi Giáng một
lúc, cũng sốt ruột đâu đâu.
Tôi móc tiền còn lại đưa hết
cho Bùi Giáng rồi nói:
- Thầy ngồi uống cà phê. Tôi
đi đây.
Tôi trả tiền, nhìn cô gái thanh
nhã một cái nhìn còn đầy khao
khát, rồi lên xe lam đi về Khánh Hội.
Tôi hay ghé Bằng- Đặng Phi Bằng, hắn
viết cho Văn Hóa Ngày Nay, và cả
Tân Phong, sau này chuyên dịch sách cho
các nhà xuất bản.
Hiện giờ thì Bằng chạy thuốc
Tây làm ăn khá, lại rất thân với
bà Nguyễn Thị Vinh. Lúc nào ghé Bằng,
hắn cũng nhét cho tôi mấy đồng,
nói vài câu chuyện văn nghệ rồi mạnh
ai nấy chạy theo cái sống.
Ngồi với Bằng, tự nhiên nhớ tới
anh Lý Đại Nguyên và cụ Nguyễn
Đức Quỳnh, tôi bật cười khan. Bằng
hỏi:
- Mầy cười gì mà có vẻ thống
khoái thế !
- Tao nhớ cụ Quỳnh lúc còn sống ở
Đàm Trường Viễn Kiến.
- Nhớ gì mà cười !
- Cụ Quỳnh thường chứng minh rằng
các cuộc chiến tranh trong lịch sử Việt
Nam thường thì miền Nam đánh ra Bắc
thắng, như thời Nguyễn Huệ đánh ra
Thăng Long vậy !
- Cụ Quỳnh nói chuyện đời xưa
thôi. Bây giờ, mày thấy không. Bộ
đội từ Bắc đánh vào Nam...
- Tao không đi lính mà cũng thấy
thua rồi !
Tự dưng nói đến đó, ngực
và cổ tôi nghẹn ứ lại, khí uất
xông lên, muốn xỉu xuống. Bằng chụp lấy
tôi hoảng:
- Gì .. Gì đó ! Bộ từ sáng
tới giờ, mầy chưa ăn gì hả ?
Giây lát tỉnh lại, tôi nói:
- Đi bộ xa nên hơi mệt. Dương
Văn Minh đầu hàng- Tao tự thấy buồn !
Tại sao lúc đó mình không xông pha
trận mạc như anh em, tử chiến với Cộng
Sản. Để bây giờ.. Tất cả cũng trở
thành số không.
Bằng nói:
- Có rất nhiều tướng đã tự
tử.
- Họ rất anh hùng. Giờ thì lịch sử
đã thay đổi.
Tôi nói:
- Tự nhiên tao nhớ tới cụ Tam Ích.
Ông có nói tới trò hiếp dâm
thính giác trong văn học. Còn bây giờ
thì lịch sử cũng bị hiếp dâm rồi
đó !
*
Sau một thời gian tôi có dịp quay lại
Ngã Bảy, để đón xe lam đi
Sàigòn.Trời mưa tôi tạt vào
quán của nàng thiếu phụ có vóc
dáng vẻ đẹp Tây Phương đó.
Nàng bước ra, thấy tôi, tự dưng
nói một câu:
- Mấy hôm nay anh đi đâu mất
tiêu !
Tôi cảm động, ngồi lại uống
cà phê bên người đẹp. Thời buổi
đói meo mà cô không có vẻ gì
"khổ sở" như mọi người. Cô
nói:
- Mấy hôm nay em đi bơi !
Tôi nhìn cô, cô lại nói :
- Có nhiều cán bộ làm quen lắm.
Có một ông cấp đại tá, muốn gặp
em thường.
- Thế chồng em làm gì trước
đây ?
- Chồng em làm trung tá đi cải tạo
rồi !
Ngoài trời tối rầm xuống, mưa
gió bất thường. Tôi nhìn mưa, uống
hết ly cà phê lúc nào không biết.
Cô chủ quay vào nhà trong. Quán chỉ
có tôi ngồi là khách duy nhất.
Trời mưa càng lớn. Cô chủ trở
ra và thực thà nói tiếp theo chuyện về
mấy anh cán bộ. Cô bảo:
- Anh biết không ? Họ bám riết,
mà em không ưng.
Tôi nói:
- Thế cô định làm gì ?
- Em quốc tịch Pháp, có lẽ sẽ
đi Pháp.
Thế là lại thêm một người
đẹp muốn rời xa quê hương.
Cô càng nói càng có vẻ
thân mật với tôi hơn. Giờ này,
tôi không biết đi đâu. Tôi nghĩ,
chắc ông Bùi Giáng cũng chẳng đi
đâu. Những người còn lại như
Tô Kiều Ngân, Văn Quang, Hồ Nam, Nguyễn Thụy Long,
Uyên Thao... có lẽ vì lý do nào
đó còn ở lại.
Trời mưa dai dẳng, tôi quay sang cô chủ
nói:
- Cho anh mượn cây viết.
Cô chủ vào đem cây viết bơm mực
của thằng con nàng vừa đi học về:
- Anh viết coi còn mực không?
Tôi đến bên tường, xé ra một
tờ lịch lớn ngồi viết. Bây giờ
tôi chỉ có thơ,.. và viết gì
đây ? Có lẽ viết cho người chủ
quán nét mặt cô đơn kia, đang ngồi
trước mặt. Tôi làm thơ:
Trời mưa có buồn không
em
Có nghe máu chảy ruột mềm
từ lâu
Ngày mai những hạt mưa
ngâu
Mưa cho đất nước thêm
màu tang thương
Gầm lên sau bãi chiến
trường
Chồng đi cải tạo đôi
đường nước non
Em ôi giữ vẹn lòng son
Thờ chồng trọn đạo
nuôi con một mình ..
Mưa rơi man mác sự tình
Chờ chồng em nhé mai anh sẽ về
Ngày xưa đã nguyện
câu thề
Đừng vì dâu bể ê
chề người xưa ..
Sau khi tôi viết đầy trang lịch lớn,
mưa cũng dần tạnh. Tôi gác bút
lên tờ lịch, gửi lại chút tiền
cà phê, và đi thật nhanh.
Trong mưa gió, tôi nhớ mấy câu
thơ của ai đó:
“... Tôi đi giữa phố giữa
nhà
Chỉ thấy mưa sa
Trong mầu cờ đỏ...” [3]
Ngày tháng ấy giờ đã trôi
qua hơn ba mươi năm tan tác...
Trần Tuấn Kiệt
– SG
2008
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Người tuẫn tiết này là
T/tá Long phục vụ ngành Cảnh Sát Quốc
Gia.
[2] Nhà văn Chu Tử [Chu văn Bình] sau
đó bị chết trên đường vượt
biên vì mảnh đạn VC bắn tàu.
Xác ông đã được thả chìm
vào lòng biển Nam Hải. Có thể nói
ông là người bị thảm tử đầu
tiên được ghi nhận trong số những
người không may trầm mình dưới
đáy đại dương trên con đường
gian nguy tìm kiếm tự do.
[3] TTK trích từ bài thơ rất dài:
Nhất Định Thắng của Trần Dần.
Bài này ông TD sáng tác năm 1955
và đã cho đăng trong Giai Phẩm Mùa
Xuân năm 1956. Hai câu này đúng ra
là:
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
{Chú thích: PBTD}
(Bai Chuyen)