Cảm
nhận 30-4
(Trần Khải
Thanh Thủy)
Sinh năm 1960 nên
ngày 30-4-1975 tôi tròn 15 tuổi, đang còn
ngồi trên ghế nhà trường phổ
thông trung học. Tin miền Nam hoàn toàn giải
phóng dội tới từng công sở , xí
nghiệp, trường học làm nức lòng
toàn dân , nét mặt ai cũng hân hoan
khúc khải hoàn ca. Lây tâm trạng chung của
mọi người , tôi cũng cảm thấy nhẹ
bổng như người không trọng lượng.
Cảm giác của người chiến thắng, nở
hoa trong hồn, vui mừng không sao kể xiết. Khắp
góc chợ, vỉa hè, đâu đâu
người dân cũng đưa tin nước
nhà giải phóng, chế độ ngụy quyền
sụp đổ. Các quầy báo đông nghịt
người xếp hàng mua báo quân đội,
nhân dân, Hà Nội mới, để xem tin chiến
thắng . Một cuộc cách mạng long trời, lở
đất, một chiến thắng vĩ đại của
quân và dân Việt Nam, cũng là một cuộc
cách mạng mùa thu tháng 8 -1945 lần thứ
hai của người Việt Nam, thời kỳ khổ ải
trường kỳ kháng chiến, thắt lưng buộc
bụng qua rồi , giờ chỉ còn xây dựng
đất nước to đẹp đàng hoàng
gấp 10 lần xưa thôi....
Mẹ tôi mừng gấp
đôi vì đã hơn 20 năm trời xa
cách , nay mới gặp được chị cả,
di cư vào Nam từ 1954 theo chồng. Người chị
mà vì có họ hàng dây mơ, rễ
má, máu mủ ruột thịt mà cả
nhà phải ngậm đắng, nuốt cay, tám
anh chị em trong nhà, kể cả mẹ tôi
không ai được kết nạp đảng
dù thoát ly, làm đường, thanh niên
xung phong từ năm 16 tuổi, phải sống, cống
hiến, lao động và chịu đựng hơn
gương Bác Hồ vĩ đại cả ngàn
vạn lần , vẫn ra rìa, vì trong gia
đình có người đầu hàng , theo
địch... một vết nhơ trong gia đình, dòng tộc
mà ngay cả khi thống nhất đất nước
vẫn không thể nào gột rửa được.
Loay hay vất vả
mãi, tận năm 1976 mẹ tôi mới xin
được cán bộ tổ chức cơ quan một
tờ giấy phép vào Nam ( thời gian đầu,
nhà nước chỉ xét các đối
tượng trong diện vợ chồng, con cái, bố
mẹ...) khỏi phải nói đến sự mừng
tủi của hai chị em sau 21 năm xa cách. Bác
ôm lấy mẹ tôi khóc khi hay tin cả bố
và mẹ đẻ đã mất ngay sau khi tiến
hành cải cách ruộng đất, nhà bị
đưa vào diện địa chủ, bóc lột.
Ông tôi khi ấy đang làm hiệu trưởng
trường cấp I, vì uất ức mà phải
giằng kính khỏi mắt đập mạnh xuống
nền nhà cho mắt kính vỡ tan để lấy
một mảnh nhọn và sắc nhất rạch ruột
tự tử ngay trước mặt cán bộ cải
cách... Khi cả đoạn ruột lòi ra
ngoài ổ bụng, một viên bác sĩ
người Pháp vội vàng chạy đến
băng bó, cấp cứu, nhưng ông tôi
đưa tay ra hiệu không cần thiết, kèm
câu nói chứng tỏ sự lựa chọn
đúng đắn của mình: "Một
xã hội mà kẻ vô văn hoá lên cầm
đầu, trừng trị người lương thiện,
cũng là người đã góp phần
nuôi cả đại đội chiến sĩ trong
nhà ăn no đánh thắng, giết giặc, lập
công... thì xã hội ấy chỉ còn
là sự đồi bại, tha hoá, cướp
bóc, trừng trị, không những không
đưa đất nước ra khỏi quỹ đạo
luẩn quẩn của nghìn năm Bắc thuộc,
mà còn không bằng xã hội trong thời
kỳ phong kiến thối nát ... Một xã hội
bất công, vô lý như thế thì
tôi còn sống làm gì ? Làm sao cam
tâm nhìn cảnh đất nước bị
tàn phá, lương dân bị giày
xéo .... Đời người chỉ chết có
một lần, sống mà phải mang vết nhơ
gia đình mình là địa chủ,
chuyên áp bức, bóc lột dân lành
thì sống sao nổi ?".
Nói lại những
lời hùng hồn trăn trối cho viên bác
sĩ người Pháp nghe xong, ông tôi nhắm
mắt trút hơi thở cuối cùng. Bà
tôi không chịu đựng nổi cái chết
phi lý, đường đột của ông, lại
chứng kiến cảnh mất nhà, cướp đất
của lũ cán bộ cốt cán, từng ăn
mòn bát, ngồi mòn chiếu nhà
mình, một điều u, hai điều con, nay giở
mặt gọi bà là địa chủ bóc lột,
đòi đưa ra đấu tố, trong khi con
cái ly tán khắp các phương trời
góc bể, Từ Hải Phòng, Lạng Sơn,
Hà Tây , Hà Nội v.v nên cũng ốm
đau , mòn mỏi, đành nhắm mắt,
xuôi tay khi tuổi đời chưa tròn một
vòng hoa giáp ...
Khóc cho bố mẹ
chán, bác tôi quay ra khóc cho mình, cho cả
đại gia đình 9 đứa con, gần 30 chục
cháu nội ngoại cùng 9 cặp dâu rể
đang trong cảnh bấn loạn tinh thần. Chỉ
vì tin ông bà còn sống mà nấn
ná ở lại, cấm con cái không được
"lầm đường lạc bước theo giặc,
bỏ quê cha đất tổ mà đi"... Giờ
cơ hội đã lỡ, tất cả đều
trong cảnh sống giở chết giở, 6 anh con trai
là sĩ quan cộng hòa đều phải đi
học tập cải tạo mút mùa, vợ con
không ai nuôi nấng, chăm sóc ... Đang từ
xã hội tiêu thụ, gi gỉ gì gi, cái
gì cũng có, thành xã hội bao nhiều,
cấp ít, gi gỉ gì gi, cái gì cũng
thiếu ... ai cũng hoang mang chán nản, bởi cuộc
sống đã bị cướp đi những
gì quý giá, căn bản nhất, không còn
là sống mà chỉ là sự tồn tại, vạ vật cho
qua ngày đoạn tháng, đau khổ đến
chết và đói nghèo đến chết, thậm
chí có người không chịu đựng nổi
cảnh địa ngục trần gian do bọn phát
xít mới đưa lại đã lặng lẽ
tìm đến cái chết, hòng làm đứt
tung mọi sự ràng buộc, dan díu với đời
Khi tôi vào, điều
cảm nhận đầu tiên của tôi là sự
hụt hẫng, suốt dọc đường trên
chuyến tàu xuyệt Việt, tầm mắt chỉ
được nuôi dưỡng bằng cảnh
nghèo, cái đói . Không phải
"Đường vô xứ nghệ quanh quanh, non xanh,
nước biếc như tranh họa đồ"
như thơ Tố Hữu miêu tả mà là :
Đất nước
mình đâu cũng mái nhà gianh ,
Gương mặt
người ai cũng xám xanh ,
Đơn giản
vì đồng đất bạc màu, hoang
hóa, hết tím hoa mua lại trắng mùa hoa sở.
Thứ hoa dại vốn chỉ mọc ở ven đồi,
sườn núi, đẹp thì có đẹp
nhưng không nuôi sống nổi con người.
Vào đến
Sài gòn, nếu nhà văn Dương Thu
Hương đã phải ngồi thụp xuống vỉa
hè vì đau xót, hẫng hụt trước
một sự thực trần trụi: Nền văn minh mọi
rợ chiến thắng nền văn minh hiện đại
thì tôi cũng có những nỗi buồn
tương tự. Đất nước liền một
dải, non sông thu về một mối, nhưng
lòng người đầy cách ngăn. Một con
sông bến Hải, một vĩ tuyến 17 ngày
và đêm, một nhịp cầu Hiền
Lương vẫn tồn tại trong lòng mỗi con
người. Dù là tình máu mủ, ruột
thịt, anh em, họ hàng, bà con, cô bác vẫn
không sao xóa nhoà được ranh giới của
kẻ thua, người thắng, kẻ bắc, người
Nam, kẻ lấn chiếm, người bị động...
Khắp thành phố, sự phân biệt kỳ thị
vẫn hằn lên trong từng ánh mắt, giọng
nói, điệu cười. Các anh chị tôi
tiếp đón một cách vừa phải , qua
quýt, không thân cũng chẳng sơ. Nếu
không có bác tôi làm cầu nối hẳn
cuộc đón tiếp còn gượng gạo, buồn
tủi hơn nữa. Đơn giản vì tôi
là người miền Bắc, người của phe
đối địch, bị đầu độc từ
tấm bé, nên mọi lời ăn tiếng
nói đều do "cha mẹ sinh con, đảng
đoàn xã hội chủ nghĩa sinh
tính"... Động mở miệng là nhắc đến
bác Hồ, gọi tên thành phố cũng
là thành phố Hồ Chí Minh chứ không
phải Sài Gòn, càng không dám nói
"Sài Gòn hoa lệ" hay "hòn ngọc
Viễn Đông". Đã thế còn
luôn bảo vệ ý kiến mình theo
đúng đường lối, chủ trương,
chính sách, quan điểm của đảng
và chính phủ. Ngay cả khi bác hỏi:
"Ngoài Bắc, mỗi tháng được
phát mấy lon sữa, hả con ?" Cũng phải
lên gân, lên cốt trả lời theo
đúng những lời dạy dỗ khuyên bảo
của thầy cô trên lớp học của
mình: "Cần gì đâu bác, không một
gram sữa, không một ký thịt nào mà
vẫn đánh thắng bè lũ đế quốc
và tay sai đấy thôi".
Biết bao ông bố
bỏ lại vợ con ra căn cứ địa cách
mạng rồi tập kết ra Bắc, trở về dắt
theo cả vợ lẽ, con thêm . Biết con trai đi học
tập cải tạo, con dâu một nách 4,5 con nhỏ,
vẫn không một lần lên trại thăm
nuôi, còn dài giọng trách: - "Ai biểu
nó vô Việt Nam Cộng Hoà, quay súng bắn
lại cách mạng, Giờ tao vô trại cũng
có bảo lãnh cho nó ra được
đâu"... khiến con dâu vì nghèo,
đói, uất ức mà phải tự tử, bỏ
lại bốn, năm đứa con côi cút, găm
thêm vào lòng người chồng đang ngồi
tù cải tạo một vết thương sâu hoắm.
Trong khi người miền
Bắc thích ăn món cua bể (bê của)
hàng hoá rùng rùng chuyển động ra
phía bắc, thì trong nam cứ dần dần
nghèo đi, câu hát của người dân
miền Nam như lưỡi dao đâm vào tim
người miền Bắc đau nhói: "Đi ta
đi giải phóng miền Nam, đi đến khi
nào người dân không còn cái quần,
thì ta còn chiến đấu, quét sạch
chúng sinh , lời bác sui dại bên tai, chiến
đấu cho đến ngày Nam, Bắc nghèo bằng
nhau".
Một dân tộc bị
quá khứ lịch sử chia đôi thành hai
vùng địa lý, chính trị, thuộc về
hai chiến tuyến. Một vết cắt xuyên thấu
mỗi gia đình, số phận, tưởng chừng
giải phóng được rồi là tình
người, no ấm về theo. Ai ngờ, vì những
chính sách cai trị man rợ kéo dài
mà kéo theo bao cảnh ba đào loạn ly,
trước tiên là cảnh chia đàn xẻ
nghé của tất cả các gia đình
"ngụy quân, ngụy quyền" chồng, con, anh
em vào trại cải tạo, vợ con ở lại
nheo nhóc đói khổ, phải đương
đầu với cuộc sống vô cùng khắc
nghiệt cùng bao quyết sách man rợ, sai lầm
chết người của đảng cộng sản:
Tài sản bị cướp trắng sau cải tạo
công thương nghiệp, giết chết cái gọi
là mầm mống tư sản mại bản để
đề cao lý tưởng xoá bỏ chế
độ người áp bức bóc lột
người. Đổi tiền "Ngụy " ra tiền
đảng với giá trị gần như không,
đến mức người dân phải thốt
lên đầy cay đắng khi cầm một
nhúm tiền của đảng, bác trên tay:
"Bố cạn
tiền rồi cán bộ ơi,
Đổi tiền
mà sao đến nỗi này
Chưa tiêu
đã hoá tiêu đi hết
Chú phỉnh
tôi rồi, chính phủ ơi"
Trong khi đại bộ
phận người dân thành phố nghèo
đi trông thấy, thì những anh bộ đội
cụ Hồ, ba lô con cóc lép kẹp trên
lưng với chiếc khung xe đạp, con búp
bê nhựa xấu xí hôm nào, bỗng
giàu lên một cách đáng ngờ. Từ
vô sản thành hữu sản, còn người
dân chịu cảnh đấu tranh giai cấp, cải
tạo công thương nghiệp , nên đi từ
hữu sản thành vô sản. Không những khốn
khổ vì đời sống thấp kém, còn
khốn khổ vì bị cán bộ cách mạng
đè đầu cưỡi cổ, sách nhiễu
lung tung.
Biết bao cán bộ
lãnh đạo với khẩu hiệu - tưởng
chừng bất di bất dịch như một chân
lý sống: "Một cái kim, sợi chỉ của
dân không lấy" , bỗng vụt hiện
lên thành các quan cách mạng, quan đồng
chí. Vừa ngủ quên trên ngai vàng quyền
lực, chia nhau quả thực, vừa quay lưng lại nỗi
khổ của dân, hà hiếp cai trị dân,
dù đó là những người từng
nuôi dưỡng bao bọc che chở cho mình trong
suốt những ngày cách mạng còn gian khổ
cam go nhất. Bao nhiêu tàn dư đế quốc,
phong kiến, tưởng đào tận gốc, trốc
tận rễ bỗng rùng rùng trở lại, gấp
cả trăm, nghìn lần những tiêu cực yếu
kém của thời kỳ tồi tệ, hà khắc,
phong kiến trước kia- tàn dư của chế
độ mới xã hội chủ nghĩa. Càng
giành được chính quyền, giành
được quyền tự chủ, tự quyết
thì càng lòi sự dốt nát, bất lực
trong phương pháp quản lý của đảng
cộng sản. Đất nước liền một dải
nhưng lại thực hiện chính sách, ngăn
sông, cấm chợ, khiến 400 quận, huyện trong
cả nước biến thành 400 lô cốt,
pháo đài riêng biệt...Từ Lạng
Sơn tới mũi Cà Mau, đất nước bị
băm nát thành trăm nghìn mảnh vụn bởi
các trạm gác, chốt canh, nhân viên thuế
vụ v.v. Chỉ đem cân gaọ, lạng thịt từ
tỉnh này sang tỉnh khác, huyện này sang
huyện khác đã bị coi là buôn lậu
và bị phạt, bị bắt, bị nhốt vô
tội vạ, khiến lòng dân tứ tán ...
Làn sóng di tản ồ ạt, di tản bằng mọi
giá, gần 90% các sĩ quan ra khỏi trại cải
tạo trở về là cùng vợ con bỏ đất
nước ra đi, tạo thành một làn
sóng lưu vong nhiều không kể xiết, nạn
thuyền nhân khủng khiếp nhất thế giới...
Chưa kể các trại tù mọc lên như
nấm suốt dọc bờ biển Đông để
nhốt người vượt biển. Hiếm có
người nào đi một lần đã
trót lọt. Người bỏ mình trên biển
thẳm, người bị bắt hết lần này
lần khác, người trở thành nạn
nhân của bọn hải tặc Thái Lan v.v.
Đau thương nhiều không kể xiết...
Đất nước
không phải của toàn dân tộc Việt Nam
như lời cha già dân tộc nói mà chỉ
là của một phe nhóm những kẻ lãnh
đạo cộng sản, còn những người
dân thấp cổ bé học thì thuộc tầng
lớp bị trị, bị cai quản, đầy áp
đặt thô bạo và phân biệt đối
xử không khác gì bài học lịch sử
đau xót của cả nghìn năm trước
đó: "Được làm vua, thua làm giặc".
Hễ là người miền Bắc dù không
có chứng chỉ văn bằng, năng lực
lãnh đạo, quản lý, nhưng đều
được cất nhắc lên thành cán bộ.
Con em " Ngụy quân, ngụy quyền" bị
phân biệt đối xử, bị xem xét về
lý lịch, thành phần . Bao nhiêu khẩu hiệu
dùng để tập hợp lực lượng, thu
hút quần chúng sớm đến ngày chiến
thắng, giờ trở thành đầu môi,
chót lưỡi , thành sự bội ước với số
đông đồng bào, đồng chí, anh em,
cô bác. Xã hội bị tha hóa , tuột dốc
từng ngày. Thời điểm trước "giải
phóng", miền Nam Việt Nam dưới sự chỉ
đạo của chính thể cộng hoà, 21 triệu
người đã ra khỏi sự đói
nghèo luẩn quẩn của nghìn năm lịch sử,
nay nhờ được đảng cộng sản
"giải phóng" mà cả nước
húp chung một niêu cháo loãng, cả
nước lặn ngụp trong những ô tem phiếu,
nhá bo bo, mì hạt sái hàm, ăn khoai
và củ mì đớ họng. Từ chỗ
vượt xa Nam Hàn và Thái Lan trong thập kỷ
70, thì ngay sau "giải phóng" một năm,
đã kém xa Nam Hàn và Thái Lan về
mọi mặt. Mượn lý tưởng
"xoá bỏ chế độ người bóc lột
người" để liên tục đánh
vào tầng lớp hữu sản, để dần dần
thay thế vai trò, từ vô sản thành hữu
sản và ngược lại . Ngọn cờ của
giai cấp vô sản càng giương cao thì tầng
lớp cán bộ, lãnh đạo đảng
càng giàu lên một cách bất ngờ,
trong một thời gian vô cùng ngắn ngủi ,
trong khi bao nhiêu căn cứ cách mạng, bao
nhiêu vùng nông thôn rộng lớn phải sống
cảnh giật gấu vá vai, ăn bữa nay, lo bữa
mai thì cán bộ cộng sản ăn chơi
phè phỡn , ăn luôn cả thành tựu
cách mạng bao năm gây dựng trong lòng
dân . Khắp thành phố khi đó là một
bức tranh hiện thực trơ trụi , xám
ngoét, hậu quả tất yếu của sự
lãnh đạo dốt nát, cộng với chủ
nghĩa cơ hội, ăn xổi ở thì, cũng
như kiêu ngạo, ảo tưởng của kẻ
chiến thắng. Vừa công kênh cái dốt,
đề cao cái ác, lại vừa giày
xéo lên lương tâm của những người
lương thiện, chưa kể còn cố tình
bám vào những lý thuyết sách vở lỗi
thời là chủ nghĩa Mác, Lê để
níu kéo sự phát triển hài hòa của
cuộc sống . Càng giương cao ngọn cờ
"bách chiến bách thắng" trong mọi lĩnh
vực thì càng khủng hoảng, thua lỗ.
Càng nêu cao khẩu hiệu "nói thẳng ,
nói thật , đổi mới tư duy, nhìn thẳng
vào sự thật" thì càng dối lừa,
gian trá, khiến cho bài toán kinh tế mỗi
ngày lại mang thêm nghiệm âm
Hàng nghìn gia
đình bị dồn lên khu kinh tế mới, mới
chẳng thấy đâu, chỉ thấy mênh
mông mịt mùng là rừng, núi, vách
đá dựng đứng. Ngày nắng rát
da, đêm lạnh thấu xương. Một ngày
trải đủ 4 mùa xuân, hạ, thu,
đông, chẳng biết làm gì để
ăn, để sống đành ôm nhau mà
khóc, ôm nhau mà sợ, rồi không thể
ôm nhau mà chết, đành dắt díu lếch
thếch kéo nhau về lại nơi ở cũ, vạ
vật nơi xó chợ, lề đường,
vì nhà cũ đã được quan
cách mạng chiếm cứ, trưng dụng vô
điều kiện ...
Ba mươi ngày ở
lại Miền Nam thâm nhập thực tế, trở
ra lòng tôi trĩu nặng. Cũng như tất cả
những người dân miền Nam khác trong thời
kỳ đó, tôi không nhận được
gì từ chế độ mới xã hội chủ
nghĩa mà chỉ cảm được nỗi
đau, nỗi khổ, nỗi bàng hoàng, hẫng hụt,
bất bình của người dân với
chính quyền cộng sản
33 năm qua rồi , nỗi
đau còn đọng lại, vẹn nguyên,
làm tổ, kết kén trong hồn tôi,
càng ngày càng mưng mủ, và bây giờ
vỡ toác trên trang giấy ...
Bệnh viện Châm Cứu 28-4-2008
Trần Khải Thanh Thuỷ
(VI NGUYEN sưu tầm, Bắc Kỳ Di
Cư và Việt Hải Trần chuyển)