NỬA HỒN
THƯƠNG ÐAU
(Nguyễn Thượng Đức)
Tác giả Nguyễn Thượng
Đức, 54 tuổi, cư dân California, nghề nghiệp:
thông dịch viên.
Bài viết về nước Mỹ đầu
tiên của ông là chuyện "hai cái nửa
hồn" -một Việt một Mỹ- tranh cãi
sâu sắc trong nội tâm của người Việt
gốc Mỹ thuộc thế hệ thứ nhất.
Ghi chú của người viết:
Trong bài, những câu in trong ngoặc kép
được mượn từ thơ/nhạc của
Thanh Tâm Tuyền, Phạm Đình Chương,
Đặng Thế Phong, Văn Cao, Trịnh Công Sơn,
Phạm Duy, Trần Thiện Thanh, Nguyên Sa, Ngô Thụy
Miên, Lam Phương, Vũ Thành An.
*
Từ nhỏ, qua đến thời còn trẻ,
và cho đến bây giờ, tôi vẫn có
một cái tật rất xấu là hay "chế
biến" lại lời những bản nhạc mà
tôi đã nghe để nó hợp với
"khẩu vị" của mình. Việc chế biến
này chẳng phải do tôi hay ho gì, cũng chẳng
phải do tôi nghĩ tôi tài ba hơn tác
giả những bản nhạc ấy. Rất đơn giản,
tôi chế biến lời nhạc để ư ử
hát theo vì mặc dầu rất
yêu nhạc nhưng trí nhớ tôi kém cỏi,
không bao giờ nhớ nỗi trọn vẹn lời của
bất cứ một bản nhạc nào.
Như rất đông những người
chưa có cơ hội ra CD, băng nhạc, hoặc
ra "tác phẩm để đời", tôi
là ca sĩ phòng... tắm. Nhiều buổi
sáng, trong phòng tắm, vào những ngày
tương đối thong dong không bị hai cái
kim đồng hồ nó rượt đến đỗi
phải hấp tấp như một con lật đật;
trong tiếng hoà âm của những tia nước
đang tung tăng trên đầu, trên cổ
và tiếng đệm sột soạt của cái
bàn chải trên lưng, tôi ung dung tà
tà tì tì trình diễn rất tới những
đoạn nhớ được trong các bản nhạc
mình yêu thích. Hơn cả mấy cô ca sĩ
nhí nhí
trên sân khấu, tôi dám
trình diễn trọn vẹn một cách rất...
cóc cần nghệ thuật. Một tay
tôi nhịp nhàng đẩy đẩy cái
bàn chải chà lưng, tay kia cầm cục
xà bông xoa nhịp, tôi để trọn
tâm hồn mình vào bản nhạc. Các cô ca sĩ
này, nếu mà thấy được lối
trình diễn sống động của tôi
lúc đang tắm chắc chắn phải lăn
đùng bái phục, hoặc... ré lên gọi
911 rồi lăn đùng té xỉu luôn cũng
có !
Như đã nói, miệng
tôi hát, tâm hồn tôi trầm bổng với
lời nhạc, nốt nhạc. Chỗ nào quên,
tôi chế đại lời, hát tiếp. Nếu suy nghĩ không kịp những chữ
để chế biến, nếu không thêm thắt
biến chế nổi, tôi í i ì i, ứ ư
ừ ư, à a á a ... cho liên tục bản nhạc,
hoặc tôi làm một cú liên khúc nhảy
luôn qua bản nhạc khác.
Có lẽ giọng hát của tôi cũng
da diết, tha thiết, trầm ấm, mùi mẫn lắm
nên chưa bao giờ tôi nghe lời phàn
nàn hay khen chê gì từ đám khán
thính giả trung thành của tôi là những
miếng gạch men và các món lỉnh kỉnh
trong phòng tắm như thuốc gội đầu,
xà bông, kem, bàn chải đánh răng,
vân vân, vân vân. Vợ tôi
khen chê thế nào tôi không biết. Hoặc cứ coi như
là tôi sợ sự thật đau lòng ... lắm, nên cứ
giả vờ ngoan cố không cần biết. Mỗi
buổi sáng, từ lúc đứng đối
đầu với cái mặt còn thèm ngủ
của mình trong gương để cạo râu,
và từ lúc tôi ứ ứ á á trong
miệng " dạo" trước điệu nhạc
của một bài hát nào đó thì
bả đã lắc đầu bỏ đi chỗ
khác mất rồi. Có lẽ bả tôn trọng
ca sĩ, biết ca sĩ khi nổi nóng thường
hay biến dạng thành la sĩ, hoặc là bả
không biết câu "lựa lời mà nói
cho vừa lòng nhau" nên đành phải lặng
lẽ ra đi trong câm nín, dông đi chỗ
khác, trả lại cho tôi cái không gian
riêng tư của một người ca sĩ
phòng tắm nặng nợ với kiếp cầm
bàn chải cà lưng mà ca của mình.
Những bản nhạc tôi
thích thì rất nhiều, đứng hát
đến hết bình nước nóng gắn
trong garage cũng chưa hát được phân nửa,
nhưng không phải lúc nào tôi cũng chụp
lấy bất cứ một bài nào đó
để hát đại. Tôi
cũng tùy thuộc rất nhiều vào cái cảm
hứng của tôi và những ý tưởng
đang miên man trong đầu mình. Khi chợt
nhìn những tia nước từ vòi sen vừa bắn
ra, tôi có thể bắt giọng bằng một
cú "ngoài hiên giọt mưa thu thánh
thót rơi...", hoặc lúc thoáng hiện
trong đầu hình ảnh của bãi biển Nha
Trang mà hồi xưa có lần đã đặt
chân tới, tôi làm luôn một câu
"ngày mai em đi, biển nhớ thương em gọi
về...". Lúc cạo râu, nhìn trong
gương thấy cái đầu bù xù
và những cọng râu lởm chởm của
mình, tôi có thể đang "hôm qua
tôi đến nhà em, ra về mới nhớ rằng
quên cây đàn", nhưng đến
lúc nhìn hơi nước nóng bao phủ
trên tấm gương soi mặt, nhìn đám
hơi nước mờ mờ như sương, tôi
bước luôn rất gọn gàng vào "ai
lướt đi ngoài sương gió, không dừng
chân đến em bẽ bàng..." Tôi chuyển
nhạc nhẹ nhàng như cái tia
laser của máy CD hiện đại.
Đại khái, tôi đứng
tắm ở Mỹ mà tâm hồn tôi, lòng
tôi, mang mang hình ảnh của quê nhà.
Sáng hôm nay, trong lúc đưa cái
đầu có da nhiều hơn tóc của
mình ngay dưới vòi sen, mắt nhắm
kín, ngẩng mặt cho nước trôi sạch thuốc
gội đầu, miệng thì "ứ ứ, ư
ư ừ, ự ứ ư ư, ư ư ừ ừ ứ
ư ư, ư ư ừ ự ứ ư ư..." bản
nhạc Nửa Hồn Thương Đau, và trong
đầu hiện lên từng chữ trong bài
thơ của Thanh Tâm Tuyền đã được
Phạm Đình Chương phổ nhạc, tôi
đột nhiên cảm thấy lạnh tê người
mặc dầu đang tắm nước nóng. Tôi
cảm thấy giá buốt từ trong lòng bỗng
dưng ùa ạt lan nhanh ra như một
đợt sóng nuốt trọn thân thể
mình. Tôi ngộp thở. Toàn thân
nổi gai ốc. Tôi chới với,
hụt hẫng. Mắt tôi không bị chút thuốc gội
đầu nào chảy vào mà tự nhiên
thấy cay cay. Tôi tê cứng trong thế đứng nhắm
mắt để nước chan hoà trên mặt
mình.
Vài ba phút sau, lúc bước ra đứng
trước tấm gương lớn, tay cầm cái
khăn tắm lau khô nước trên thân thể,
tôi nhận ra rằng mình đột nhiên
đã ứa nước mắt vì cơn xúc
động đến bất chợt, gây ra bởi
tôi chơi dại, dám sửa lời và
ý thơ Thanh Tâm Tuyền.
Thơ Thanh Tâm Tuyền qua những nốt nhạc
quá tuyệt của Phạm Đình Chương
làm tôi mê mẩn, nhưng chính những
hình ảnh và viễn ảnh tạo nên do việc
chỉ thay đổi một vài chữ trong lời
thơ của ông đã làm tôi quay quắt
đến rợn người, xúc động đến
ứa nước mắt. Tôi đã
chế lại, trong đầu mình, qua giọng
hát réo rắt của Thái Thanh mà tôi
từng nghe, vỏn vẹn chỉ mấy câu thơ
đầu tiên trong bài Nửa Hồn Thương
Đau - để rồi xúc động chới với
trong đau thương một nửa hồn mình.
Như rất nhiều người gốc
Giao Chỉ hiện đang sống ở Hoa kỳ, hồn
tôi chia hai. Một nửa
"Made in America",
một nửa "Made in Vietnam". Trong một ngày, những lúc ào
ào làm việc hay bận bịu với đời
sống đầy sức ép ở đây thì
tôi sống trong cái nửa hồn đồ ngoại,
đã nhập cảng vô đầu từ khi
tôi đặt chân đến miền United States of America
này. "Thời gian còn lại
anh cho em tất cả em ơi" tôi sống trong
cái hồn đồ nội mà tôi đã
có từ thuở lọt lòng. Đồ nội,
đồ ngoại của tôi nó xen kẽ,
cái nọ nó lấn cái kia hiện lên bất
chợt chứ tôi không có cái "remote
control" nào để tắt bật hai cái nửa
hồn của mình. Lúc đang phom phom tống ga
lái xe trên xa lộ 50, tôi có thể
đang vừa nghe "nghìn trùng xa cách
người đã đi rồi...", vừa nhớ
đến con đường Phạm Ngũ Lão
có cô con gái mà tôi đã tóc
mai sợi ngắn sợi dài. Tôi đang phê
phê trong cái nửa hồn đồ nội của
mình thì rồi bất chợt, khi thấy có
cái xe đen trắng của mấy ông bạn
không mấy thân thiết lắm của dân
đang chạy ngược chiều, tôi vội
vã lật đật dông luôn qua cái hồn
đồ ngoại với hình ảnh phải ký
ngân phiếu trả tiền phạt về tội
chơi bạo 8, 9 chục dặm một giờ trên
đường. Cứ vậy, hai cái nửa
hồn tôi nó tự động "on", tự
động "off", liên tục trong một
ngày. Và cứ như vậy
vì một ngày thì dầu sao phần lớn cũng
như mọi ngày.
Nửa hồn đồ nội của tôi trú ngụ trong tim, nó tình cảm, nó tha thiết,
nó da diết. Nó hư hư thật
thật, mờ mờ ảo ảo. Nhưng
sức níu kéo của nó lại bền bỉ
như những sợi dây lòi tói neo tàu
vào bến.
Còn nửa
hồn đồ ngoại của
tôi nó nằm trong đầu. Nó tính toán,
nó logic, nó nguyên tắc, nó phân minh.
Nó tính thiệt tính hơn.
Nó rõ ràng. Nó đưa ra quyết định
tôi phải theo.
Khi đang sống trong nửa hồn
đồ nội, tôi nghĩ đến và nhớ
đến rất nhiều những gì tôi
đã thấy, đã cảm, đã nhận
vô đầu óc, liên tục từ thuở thiếu
thời cho đến ngày rời đất nước
mình. Các
nhà nghiên cứu bảo rằng trung bình một
ngày, đôi mắt ghi nhận và chuyển
vô đầu óc từ hai trăm ngàn đến
hai trăm năm chục ngàn hình ảnh. Con
số lớn quá tôi không tưởng tượng
xuể, và chưa bao giờ dám ngồi lục
óc đếm thử xem mình thấy được
bao nhiêu tất cả hình ảnh trong một
ngày, từ lúc mắt nhắm mắt mở buổi
sáng sớm, cho đến lúc khuya lắc khuya
lơ nằm chiêu hồi giấc ngủ trở về.
Chưa bao giờ tôi đếm thử coi xem mấy
nhà nghiên cứu này nói thiệt hay
nói đùa. Theo nguyên tắc nếu mình
không chứng minh được một điều
gì đó là sai thì mình phải chấp
nhận nó là điều không trật,
tôi khiêm nhượng chấp nhận số lượng
hình ảnh tôi thấy ở mức trung bình
thấp, sơ sơ hai trăm ngàn bức hình một
ngày. Rồi tôi tính sơ sơ luôn một
cú, tôi sống ở quê hương tôi tổng
cọng 18 năm, nhân 365 ngày một năm vị
chi là sáu ngàn năm trăm bảy chục
ngày. Nếu lấy trung bình ở mức
thấp là trong thời gian tôi còn ở Việt
Nam
mắt tôi chỉ chuyển vô đầu hai
trăm ngàn hình ảnh mỗi ngày thì
qua mười tám năm đó, tôi
đã có được trong đầu một tỉ
ba trăm mười bốn triệu hình ảnh của
quê hương mình.
Một tỉ ba trăm triệu !
Con số vĩ đại, hãi hùng quá, kinh quá ! Tình nhân
đi chơi với nhau chụp được một cuốn
phim 24 bô là đã nhớ nhau dài dài;
vợ chồng làm đám cưới chụp
hình giỏi lắm chừng trăm tấm gắn
trong mấy tập album là duyên nợ đã
níu kéo cứng ngắc rồi. Cái cuốn album kỷ niệm của tôi
với quê hương nhiều hình ảnh như
vậy nên bao năm nay tôi sống chập chờn,
lúc nào cũng lơ tơ mơ đến
quê nhà. Cái
dây lòi tói nửa hồn đồ nội của
tôi có sức níu kéo bền bỉ
vì nó kết bằng một tỉ ba trăm
mười bốn triệu dây tơ lận.
Khi nửa hồn đồ nội
kéo về, tôi chân đứng ở Mỹ
mà lòng thì ở Việt Nam. Nhiều lúc tôi tự lục
tìm trong một tỉ ba trăm triệu bức
hình kỷ niệm để tự hỏi lòng,
mình thương quê hương mình là
mình thương cái gì ?
Con trâu ruộng lúa ư ? Xạo ! Tôi gốc Quảng Nam, cha mẹ
dẫn vào Đà Lạt sống từ 3 tuổi,
nhà nghèo nhưng là công tử bột,
có biết cày bừa cóc chi đâu
mà bảo thương con trâu ruộng lúa ?
Thương con sông uốn khúc ư
? Chẳng phải luôn. Con
sông nào lại chẳng uốn khúc
? Thương sương mù, thương đồi
thông ? Ở đây xách xe chạy lên Lake Tahoe
thì thấy thiếu gì đồi thông với
sương mù. Thông ở đây còn cao
hơn thông ở Đà Lạt, sương
mù ở đây còn mù hơn, còn
dày đặc không thấy đường
hơn, đâu có thiếu đâu
? Thương "ngôi trường đại học,
con đường Duy Tân cây dài bóng
mát" ? Cũng
không đúng. Cây trên con
đường tôi đã ở mấy tháng
lúc mới về Saigon chưa hẳn đã nhiều,
đã cao, và có nhiều bóng mát bằng
những hàng cây trên đường J Street dẫn
đến trường đại học Sac State.
Thương tô mì Quảng, tô bún bò
Huế, tô phở, tô mì ư ?
Lại càng không phải nốt.
Bún, phở, mì ở đây chẳng
thiếu. Chất lượng đem
vào phòng thí nghiệm phân tích kỹ
có lẽ lại khá hơn bún phở mì
ở Việt nam vì tôm thịt gia vị ê hề.
Thương bạn bè, hàng xóm láng giềng ? Cũng chẳng phải
luôn. Mỗi một người
có mỗi cuộc đời để sống.
Mỗi chặng đường trong cuộc đời
mình đều có thêm bạn bè,
láng giềng mới và để lại những
láng giềng, những bạn bè trong chặng
đường đã đi qua. Bạn bè và
láng giềng mình đâu có lúc
nào mình thiếu đâu ?
Tôi có nhớ có nghĩ đến bạn
bè ngày xưa, có nghĩ đến các
thầy cô ở ngôi trường cũ của
mình, nhưng chuyện này cũng không hẳn
là điểm làm tôi thương quê
hương mình. Rồi rất thật với
lòng, tôi cũng đã tự hỏi có phải
mình tơ tưởng đến quê hương
vì nơi đó còn có người
mình "...lấy nhau chẳng đặng ... ghét
hoài nghìn năm" ? (viết vậy để vợ dzui lòng
đó mà!). Rất thật lòng,
tôi thấy điều này cũng chẳng phải. Tôi với
"người" đi qua đời nhau rồi, fi-ni rồi,
và xa xưa lắm rồi. Đôi lúc tôi
có bất chợt thoáng nghĩ đến người
tí tí những lúc vui buồn lẫn lộn,
coi như cho có thêm chút mắm, chút muối,
mặn mà đậm đà chút xíu
cái thuở con tim của mình nó mới biết
rung rung vậy thôi, chớ khi tôi tơ tưởng
đến quê hương thì trong cái quê
hương mà tôi tơ tưởng nó
không nhất thiết lúc nào cũng có
bóng dáng của "nàng" ở trỏng.
Tôi không rõ ràng là mình
thương cái gì ở quê nhà.
Đàn ông thương đàn bà có
thể kể lể một thương tóc xõa
đuôi gà, hai thương ăn
nói mặn mà có duyên, ba thương... bốn
thương.... năm thương... sáu
thương... Kể gọn gàng
chóng vánh một lèo tới mười
thương. Tôi không biết mấy
người Mỹ gốc Giao Chỉ khác thì
như thế nào chứ riêng tôi thì
tôi chịu. Biểu kể đích xác năm cái
thương quê nhà tôi kể không tới.
Vậy mà tôi cứ thương
hoài. Những cái làm
tôi thương nó cứ mờ mờ ảo ảo
mà lại rất rõ nét. Nó
lơ tơ mơ mà lại rất thực. Nó hư hư ảo ảo mà lại
chình ình. Nó làm tôi cứ u
hoài, đầu óc cứ vấn vương, cứ
bơi bơi đến cái miền đất ở
tuốt luốt phía bên kia bờ
đại dương.
Nó khiến tôi, như qua mấy câu trong
bản Nửa Hồn Thương Đau mà tôi
đã sửa lời lại, vẫn cứ thường
xuyên
"Nhắm mắt,
Cho tôi tìm một thoáng
quê xưa
Cho tôi về quê cũ nên
thơ
Cho tôi gặp quê trong ước
mơ..."
Từ bao năm qua, khi lái xe ngang qua quãng
đường có những cây Palm - cứ tạm gọi loại
cây này là ... dừa Mỹ - thì trong đầu
tôi lại hiện lên ngay những hàng dừa
thứ thiệt, có trái đàng hoàng, ở
Cam Ranh, ở Tuy Hòa ... những nơi tôi
đã thấy những hàng dừa thứ thiệt
này. Và ý nghĩ so sánh, thấy "dừa
mình" đẹp hơn "dừa Mỹ" lại
hiện lên trong đầu, đưa đến kết
luận: dừa Mỹ ở Cali
ẹ, chẳng có trái ! Dừa không trái
như ... con gái thiếu con trai (Ai muốn nghĩ tiếp
thế nào đó thì cứ việc nghĩ).
Khi lang thang ở những bến tàu vùng biển
San Pedro, Long Beach, hay bến tàu dọc bờ sông ở
Old Sacramento, trong đầu tôi cứ hiện lên
hình ảnh của những hàng quán dọc
theo bến tàu Saigon. Tôi phê bình trong đầu
một cách rất ngang phè rằng dân Mỹ
quả thiệt còn ... chậm tiến, chưa biết
thưởng thức thú ăn hột vịt lộn,
ăn mì, ăn xôi, ăn chè,v.v. ở những
nơi tình tứ như thế này.
Khi đi đến bất cứ nơi nào
có đông hàng quán của người Việt,
tôi cũng đều tìm vào những tiệm
ăn có bán món mì Quảng để rồi
vừa ăn, vừa chấm điểm trong cái nửa
hồn đồ nội rằng là tô mì
này so với tô mì của bà Chín
Mì Quảng trong con hẻm bắc ngang đường
Hai Bà Trưng với đường Phan Đình
Phùng ở Đà Lạt thì còn chưa bằng.
Mì Quảng ở Bolsa, mì Quảng ở San Jose, ở Sacramento,
v.v., không so lại tô mì Quảng ...
Đà Lạt ! Ngay cả lúc
đi với mấy "ôn", mấy "mệ"
bạn mình vào quán hứng chí gọi thử
một tô bún bò Huế, món ăn mà
ông bạn văn Trần Kiêm Đoàn của
tôi đã long trọng nâng niu bằng hai tay,
thiết tha hít hà bằng mũi, ngắm một
cách trìu mến bằng mắt và ăn bằng
... tâm hồn "Về Huế" của ổng,
tôi thấy bún bò Huế ở đâu cũng
thua cái tô bún tôi đã ăn ở
cái quán lụp xụp bên cạnh bến xe
Đà Lạt.
Chưa hết, khi tôi vẽ kiểu và
làm cái vườn sau nhà, tôi cũng cố
gắng xếp mấy cục đá bự bự chỗ
này, xây cái hàng gạch cong cong đằng
kia, trồng hai ba cây thông, cây dừa (Mỹ) kế
bên cái sân lót gạch đỏ v.v., để
cho nó giống cái vườn cái cảnh ở
Việt nam -
mặc dầu hồi ở Việt nam bản
thân tôi chưa có cái vườn nào
cả. Trong những ngày tương đối
không lạnh, tôi vẫn thích gác cẳng
lắc lư trên cái võng
sau nhà, để lòng lắng đọng,
làm một tí tí "chiều chiều ra ... nằm
ngõ sau ..."
Rồi đi thăm bạn bè ở đây,
tôi để ý thấy đa số có vẻ
cũng như tôi. Người nào
có nhà có cửa rồi thì cũng lui cui
làm hòn non bộ, làm cái sân lát
gạch, làm những chậu kiểng, trồng
dàn bầu, dàn bí ... cho có vẻ Việt
Nam.
Và những người đang ở chung
cư thì thể nào trước nhà, hoặc
sau hè, cũng có cây ớt, chậu rau
húng, rau thơm, diếp cá, bụi sả ... để
ăn (dĩ nhiên) và để thỉnh thoảng
chiều chiều đứng tưới nước nhớ
bụi sả, đám diếp cá, rau thơm, rau
húng, cây ớt ở quê hương mình. Bởi vậy mà ở Mỹ đi tìm
nhà Việt nam rất dễ, nhìn cái lối
chăm sóc vườn trước, vườn sau;
nhìn đám rau, bụi sả ... là nhận ra
liền.
Tóm lại, đại khái là khi mắt
tôi vừa nhìn thấy một hình ảnh
nào đó ở đây, cái máy vi tính trong tim tôi nó chạy
cái ào, và chỉ trong tích tắc,
nó lôi trong cái bộ nhớ kinh khiếp của
nó ra rồi đẩy lên đầu tôi
hình ảnh liên hệ tôi đã thấy ở
quê nhà.
Tôi không thiên vị quá
mức đến đỗi phải nghĩ rằng
cái gì của quê hương cũng hơn ở
đây. Khi đi ngang
qua những đồng lúa bát ngát dọc
theo xa lộ số 5 gần Sacramento, tôi nghĩ về
những đồng lúa mình đã thấy ở
miền Nam, ở ngoài Trung, rồi lòng thì cứ
ước ao phải chi dân mình cũng có
được những máy móc nông nghiệp
hiện đại như ở đây để việc
canh nông bớt khổ cực.
Những khi lái xe đi xa,
tôi thường có ý nghĩ phải chi
đường xá ở Việt Nam được mở rộng,
được bằng phẳng như đường
xá ở đây. Lái xe ban
đêm, nhìn những miếng nhựa phản chiếu
ánh sáng gắn trên mặt đường,
tôi vẫn cứ phải chi đường xá ở
Việt Nam
cũng có gắn mấy miếng nhựa như vậy
để người lái xe thấy đường.
Những buổi sáng đi làm ngang qua
khúc đường có đám con nít
đang cắp sách tới trường, nhìn
đám con nít Mỹ tôi liên tưởng
ngay đến đám con nít ở Việt nam; rồi
ngó thấy chỉ sơ sơ cái trường tiểu
học (hoặc trung học) thôi mà đã
dãy nọ nối tiếp dãy kia trên cả một
khu đất rộng, tôi nghĩ ngay đến chuyện
phải chi quê hương mình cũng có
được những ngôi trường khang trang
như vậy để con nít Việt Nam tụi
nó học cho ... đã !
Khi nhìn thằng con mình vung vãi những
chiếc xe lửa, xe cứu hỏa chạy pin đồ
chơi của nó trên sàn nhà, cái
chơi cái phá, tôi hình dung ngay đến
những món đồ chơi tự biên tự diễn
của đám con nít ở Việt Nam, rồi nghĩ
phải chi tôi gởi về đó được
mấy cái đồ chơi của con tôi cho tụi
nó mừng.
Tôi cứ thiên vị
thấy cái gì ở đây cũng không bằng,
và tôi cứ "phải chi" như vậy
liên miên ngày này qua ngày khác bao
nhiêu năm rồi. Cứ thế, trong đầu tôi
lúc nào cũng có ý tưởng
được nhìn, được thấy, được
sống trên quê hương mình. Tôi
ôm ý tưởng sẽ về sống ở Việt
Nam
từ ngày mới đến Hoa Kỳ.
Chuyện về sống ở Việt Nam có nằm
trong dự tính về tương lai của tôi. Đây là điều tôi mong ước
một ngày nào đó mình sẽ thực
hiện được. Ngẫm nghĩ kỹ
thì thấy chướng chướng, và có
vẻ vong ơn bội nghĩa với tiền nhân
Huê Kỳ quốc nữa, nhưng thiệt tình
là sống ở đây phần lớn tuổi
đời mình rồi, đã bơi lội, tắm
mát trong cái giòng linh động của đời
sống tân tiến, và thụ hưởng biết
bao quyền lợi của một người dân xứ
này nhiều năm rồi, mà lúc nào
tôi cũng cảm thấy mình như người
đứng bên lề, mắt hờ hững nhìn
và lòng rất ít rung động vì những
gì đang xảy ra quanh mình. Từ ngày
chân ướt chân ráo đến đây,
và cho đến giờ này, tôi vẫn thấy
tôi là người Việt đang "sống tạm"
trên đất đai của "tụi
Mỹ".
Như phần lớn những người đang
mon men rón rén không dám bước dần
dần đến cái tuổi "tri thiên mệnh",
hoặc những người đang ở trong lứa tuổi
năm bó này, tôi thường nghĩ về
những điều tôi muốn hoặc dự
tính sẽ làm trong tuổi về hưu của
mình. Thời gian có những cái
quái đản nghĩ không ra lẽ.
Ngày tôi "xuân xanh", ngơ ngác
như con nai vàng khè lần đầu tiên
đặt bước trên lá khô xứ Mỹ,
cho đến nay vèo một cú đã hơn
ba mươi niên. Thời gian của quá khứ chạy
nhanh như xe tám máy mới
keng, số tay, đổ xăng super unleaded 92 độ.
Còn thời gian trước mắt của một
đời người sao thấy nó bò như xe ... bò đói. Chậm chạp, lịch kịch,
chở theo bao nhiêu niềm nỗi nặng
nề, và còn có nỗi sợ hãi
là lết còn không tới nữa.
Tương tự như dự tính của nhiều
bằng hữu, được biết qua những lần
nghe họ tâm sự, dự tính của tôi
là một ngày nào đó, lúc
các con tôi đã trưởng thành - đại
khái là khi nào tụi nó học hành
xong xuôi, có công ăn việc làm, tự lập
rồi - thì vợ chồng tôi sẽ dông về
Việt Nam ở, sống trọn vẹn một trăm phần
trăm trong nửa hồn đồ nội của
mình. Lúc đó, vợ chồng
tôi xấp xỉ 60 rồi, khoẻ khoắn với
trách nhiệm rồi.
Tha hồ đi đâu cũng
được. Tôi sẽ: "...về quê cũ
nên thơ, gặp quê trong ước mơ..."
Nhưng, như mọi người, tôi
thương bằng tim, làm việc
bằng đầu. Khi dự kiến về
tương lai, tôi suy nghĩ với sự tính
toán rất thực tế về tất cả những
điểm phải nghĩ đến. Tôi
logic cẩn trọng và kỹ lưỡng trong
cái nửa hồn "made in America" của mình
rồi phải chấp nhận những lý luận nảy
sinh từ nửa phần hồn này. Quyết định nó
đưa ra tôi phải làm theo
vì như đã nói ở phần trước
đây, khi mình không chứng minh được
một điều gì đó là sai thì
mình phải chấp nhận nó không trật. Có gì đi nữa thì nửa hồn
đồ ngoại này nó rất ... Mỹ,
nó bảo vệ lo lắng cho tôi cũng chỉ
vì quyền lợi riêng của nó. Tôi còn, nó còn. Tôi đi, nó tiêu diêu miền cực
lạc, hoặc miền địa ngục.
Tôi đã suy nghĩ là với
đà làm việc từ nhiều năm nay, giả
như không có một điều bất thường
nào đó xảy ra thì khi thu vén gọn
gàng lại, sau tuổi 60 vợ chồng tôi
có thể tương đối có được
một cuộc sống không phải lo lắng về
nhu cầu tài chánh cho lắm ở Việt nam. Lâu nay, lo sống và sống lo như vậy
quá đủ rồi. Tôi nghĩ sẽ sống
trong một căn nhà nhỏ nhỏ ở Đà
Lạt, kiếm một chân dạy Anh văn ở một
cái trường trung tiểu học nào
đó hoặc một chân dịch thuật
sách báo ở một nơi nào đó,
làm việc không lương để chia với
cái đám con nít hiếu học Việt Nam một
chút kiến thức chuyên môn của mình.
Rồi thì tôi sẽ thu xếp
để ráng mà đi, mà thấy, mà sống
trong cái quê hương của mình. Vợ tôi sẽ làm gì đó
thì ... hậu xét. Bả đã tòng
phu với tôi lâu nay rồi thì tôi chắc
bả cũng không cự nự chuyện cùng
tôi giang hồ trên quê hương trong tuổi
già. Bả sẽ chiều ý tôi, "cho
tôi về quê cũ nên thơ, cho tôi gặp
quê trong ước mơ..."
Nhưng rồi câu tiếp theo trong bài
hát nó làm tôi tê tái: "Hay chỉ là giấc
mơ thôi ?"
Cái điều tôi muốn làm, muốn
về quê cũ nên thơ, muốn gặp quê
trong ước mơ đó, tôi có thực hiện
được không, hay nó chỉ là giấc
mơ thôi ?
Tôi suy nghĩ, phân tích với
sự tính toán rất thực tế những
"điều kiện ắt có và đủ"
để mình thực hiện cái chuyện trở
lại sống nơi quê nhà. Trước nhất, đến
lúc tôi "về hưu" đó, thể chế
chính trị ở Việt Nam nó như thế nào ? Ngày còn
đi học, như rất nhiều chú nghé non
khác, tôi từng vẽ vời nuôi chí lớn,
mong "làm quan" để "giúp dân
giúp nước". Đụng cú 75 lộn
tùng phèo, rồi càng lớn tuổi càng
mở được mắt, càng thấy được
chuyện đời, tôi càng theo
đạo Lão, chí lớn tôi xẹp lép.
Thêm vào đó, qua những tiếp xúc,
được nghe những lời tâm tình của
nhiều bằng hữu cao niên đã từng
"làm quan", tôi càng tiêm nghiệm
được cái phù du của công danh. Từ
nhiều năm qua, tôi đã dẹp mọi
chí lớn chí nhỏ để thụ hưởng
tận tình cái thú làm anh dân đen,
rung đùi cười cợt trên những
cái dổm của những kẻ loi nhoi muốn
"quan" lớn, "quan" bé trong tập thể
người mình. Tôi
thấy làm dân quá đã, quá
thú vị. Tôi thấy
làm dân là sướng nhất, khoẻ nhất.
Sau thời gian làm dân Mỹ gốc Giao Chỉ,
tôi muốn về Việt Nam được làm
dân Giao Chỉ gốc Đại Cồ Việt, hưởng
thụ cái thú làm dân Việt trên
đất nước Việt. Nhưng vấn đề
đặt ra là làm người dân, tôi
có hít có thở được cái
không khí tự do khi sống trên quê
hương mình; tôi có có được
những cái tự do và những quyền căn bản
của một người dân, như tôi
đã có và đã sống trong nền tảng
đó từ bao nhiêu năm nay trên đất
người; hay tôi phải sống phập phồng
trong âu lo ? Cái máu Quảng
Nam hay cãi của tôi, mặc dầu đã
được khí hậu trong mát của
Đà Lạt làm cho loãng ra nhiều lắm rồi,
nhưng ở đây thỉnh thoảng tôi vẫn
lớn họng khi gặp chuyện bất bình, chuyện
trái tai gai mắt. Về quê hương sống,
tôi có còn được phép và
được quyền thỉnh thoảng hả họng
la làng hay không, hay lại phải sợ bị
đi cải tạo mà im lìm như con hến ?
Tôi muốn sống ở quê nhà như một
con người chứ tôi không muốn sống ở
đó như một con chuột lúc nào cũng
phải đề phòng, lúc nào cũng phải
phập phồng vểnh tai nghe
ngóng, canh chừng hiểm nguy. Tôi vẫn
muốn cười cợt hả hê khi thấy chuyện
dổm. Và tôi muốn sống ở quê
nhà như một con người chứ không muốn
về bển làm con hến.
Chừng đó không thôi cũng đủ
làm cho tôi thấy rõ rằng chuyện về
sống ở quê hương chưa chi mà
đã nhiêu khê quá cỡ !
Nhiêu khê thiệt tình !
Cái phần hồn đồ ngoại
của tôi còn phân tích một điểm
rất không thể không nghĩ tới được,
và rất quan trọng nữa, là điều kiện
y tế thiết yếu cho cái thân thể "over
miles" của những người lớn tuổi. Sau chữ lão của chu
kỳ một đời người là chữ bệnh.
Và nói đến chữ bệnh
là phải nói đến chuyện nhà
thương, chuyện bác sĩ, chuyện máy
móc y khoa. Mới đây, một người
em của tôi sau dịp về Việt nam nghiên cứu
về bệnh tim có đem qua một
số hình ảnh cho thấy thực trạng của
vấn đề chăm sóc y tế cho dân
chúng sau mấy mươi năm "tiến bộ".
Thê thảm lắm ! Thê thiết
lắm ! Y sĩ Việt Nam bây giờ không
thiếu những người có khả năng
và tâm hồn, nhưng họ có giỏi
và có lương tâm cách mấy cũng
bó tay vì thiếu thốn
phương tiện, thiếu thuốc men chữa trị bệnh
nhân. Thiếu thuốc men phương tiện vì
dường như những người
theo chân bác Hồ chỉ
thương dân khoẻ mạnh chứ không mấy
thích dân bệnh. Họ chẳng thà
đem ngân quỹ quốc gia ra bắt dân khoẻ
mạnh đi lao động xây
cái con đường mang tên bác ở tuốt
luốt trên núi cho khỉ tản bộ hơn
là dành tiền đó ưu tiên cho việc
chăm sóc những người không còn hồ
hởi phấn khởi lao động được. Thêm vào đó lại còn vấn
đề chút ít tiền gì trong ngân
sách y tế nó cũng đã chạy qua
ngân hàng Thụy Sĩ hết rồi.
Mấy mươi năm qua, với đà tiến
bộ siêu việt của ngành y khoa trong chế
độ ưu việt ở Việt Nam hiện thời,
tôi rất sợ cái viễn ảnh ngày
nào đó phải đem cái xác thân
over miles của mình vào nhà thương ở
Việt Nam để tune up hoặc là để sửa
chữa, thay đồ phụ tùng. Mấy bức
hình người em đem về cho thấy khăn bịt
mặt của bác sĩ, y tá, được
phơi chung với những tấm khăn trải giường,
khăn lau, bao cao su bọc tay v.v. bay phất phới
trên hàng dây kẽm, ngay bên cạnh con
mương lầy lội rác rưới; những bức
hình chụp trong phòng hồi sinh cho thấy
trên mỗi giường có hai bệnh nhân
đang nằm chèo queo ... ráng hồi sinh, làm
tôi thương cảm cho dân mình bốn phần
mà hãi sợ cho viễn ảnh phải cần
đến nhà thương ở Việt nam của
tôi tới sáu phần. Ba mươi năm qua
"nước ta" đã tiến bộ, thực
hiện được những bước nhảy vọt
xa tuốt luốt ... ra đằng sau như thế; ba
mươi năm tới sẽ ra sao ?
Cái phần hồn "made in America" của tôi, vốn rất
lo lắng bảo vệ và vốn rất gắn
bó với thân xác của tôi, nó
phân tách xong rồi nó nhận định chuyện
trở lại Việt Nam
để sống của tôi là "No way, José !". Dịch ra tiếng Việt
là "Bỏ qua đi Tám !"
Cái hồn "made in America" của
tôi còn phân tách. Dầu muốn dầu
không gì, tôi đã hội nhập ào
ào vào đời sống, vào xã hội
và vào văn hóa xứ người. Những
thói quen, tập quán (và nói cho xôm tụ
chút đỉnh, tư tưởng nữa) của bao
nhiêu năm trên xứ người chắc chắn
sẽ không giúp tôi dễ dàng
"tái hội nhập" vào đời sống
nơi quê nhà.
Nhiều người ra đi năm mười
năm, làm một chuyến Việt Kiều năm ba
tuần trở lại Việt Nam đã rên
nóng, rên bụi, rên đông đúc chật
hẹp, rên thiếu tiện nghi, thiếu vệ sinh, chịu
không thấu. Nhiều người
khác, thâm thúy hơn và có chiều
sâu hơn, rên về vật chất thì
ít mà rên về vấn đề tâm linh
thì nhiều, với không ít quan ngại.
Một anh bạn người Nam của tôi, qua Mỹ
năm 82, đã rất thật lòng qua câu
nói: "tui dzề bển tui thấy tui ngu hơn họ
nhiều quá. Mình ở Mỹ lâu chừng
nào mình đâm ra mình thơ ngây
và ngu như mấy thằng Mỹ. Mình dzề
Dziệt Nam
mình chơi hổng lại dzới người ở bển !"
Câu nói của anh bạn nghe vui vui mà
chua xót, đau đớn, nói lên một thực
trạng bắt buộc phải nhìn nhận là
ít nhiều gì, qua bao nhiêu năm trời sống
dưới một chế độ chỉ biết trị
dân mà không biết dạy dân, lại
còn bịp dân nữa, giá trị đạo
đức trong lòng rất nhiều người
dân Việt nam đã vì hoàn cảnh sống
mà bị lung lay không phải ít. Nói ra có thể động chạm,
và bị rầy nữa, nhưng mà cũng như
rất nhiều người đã nhìn nhận, sự
thật là dân mình sau này coi bộ phức
tạp hơn ngày xưa nhiều lắm. Kẻ có chút quyền hành thì lộng
hành. Người không quyền
hành thì phải "uyển chuyển".
Bên Đức, bức tường ô nhục
đã sụp cả bao năm rồi mà dân
Tây Đức vẫn đang điên đầu với
đồng hương của họ bên Đông
Đức. Giả tỉ mai mốt này đảng cọng
sản Việt nam tị nạn qua ... Cu Ba thì bao
nhiêu năm sau đó phần tâm linh của
người Việt nam mới phục hồi trở lại ? Cần bao nhiêu năm mới
làm phai nhạt đi cái việc trồng người
tầm bậy trăm năm của ông Hồ
?
Nói cho ngay, nếu chỉ bàn về vấn
đề tiện nghi của đời sống thì
thiệt tình là ở Mỹ nhiều năm, sống
trong những tiện nghi đầy đủ, tôi trở
thành loại người chịu lạnh rất dở
mà lại chẳng ưa nóng nực. Mùa
đông, tui lập cập than lạnh lúc mới
bước lên xe. Mùa
hè, ra ngoài là tôi toát mồ hôi
la nóng. Mai mốt, ở tuổi 60, biểu
tôi đem cái thân sáu bó của
mình chọi nhau với cái nóng điên
người của Saigon không
có máy lạnh hoặc cái lạnh ê
răng ban đêm của Đà Lạt không
có máy sưởi, nói thẳng ra là
tôi thấy không hấp dẫn lắm lắm. Tuy nhiên, nóng lạnh là ... bệnh của
Trời. Có muốn đổi cũng
không đổi nỗi nên tôi nghĩ mình
chấp nhận được. Về nước,
mình nóng toát mồ hôi riết rồi
mình quen, tự nhiên sẽ thấy ... mát theo
lối "nắng Saigon anh đi mà chợt
mát"; còn mình lạnh thì mình
ráng quấn thêm cái mền, bận thêm
hai ba cái áo, hoặc đem hai cái thân 6
bó của mình với vợ ra mà ca bài
"em ơi, nép vào lòng anh ...", thì
chắc cũng ấm áp phần nào. Còn bụi
bặm, chật hẹp, thiếu tiện nghi ... là chuyện
nhỏ ! Điều
mà tôi nghĩ là mình sẽ chịu
không nổi, sẽ không cách nào đối
phó được, là mình sẽ bị kỳ
thị trên chính quê hương mình.
Tôi sẽ là "Việt kiều"
trong mắt hàng xóm, bà con láng giềng.
Việc được ra nước ngoài,
"được sống đầy đủ, dư thừa,
đô la trên cây cứ thò tay mà lấy"...
trở thành một cái "tội" khó chối
cãi; và dầu cho tôi có tế nhị
như thế nào đi nữa, có cố gắng
sống hòa mình thế nào đi nữa,
thì đối với bà con hàng xóm
láng giềng, tôi cũng vẫn sẽ là Việt
kiều, chứ không phải là người Việt
như họ. Tôi sẽ là "đối
tượng" của phân bì, của kèn cựa
soi móc, hoặc của ganh ghét tị hiềm. Anh công an - nói dại miệng,
nếu lúc ấy còn công an ! - sẽ ghé thăm tôi,
hỏi thăm "hao-a-ru" một phát, mời
tôi đến trụ sở "đi-nàm-thủ-tục-đầu-tiên"
một phát. Bà bán quần
áo sẽ tính giá đặc biệt "bớt"
cho Việt kiều một tí, giảm giá cái
áo len từ ba trăm ngàn đồng "xuống"
còn chỉ có sáu trăm ngàn. Rồi
nếu răng long tóc bạc phải đi thăm
các ông các bà nha sĩ thì họ cũng
sẽ vì tình nghĩa mà tính giá
đặc biệt, "on sale", nhổ một cái,
tính giá ... nguyên hàm !
Mình sống trên quê
hương mình mà đi đâu mình cũng
thấy mình được đối xử như một
anh Mán mới ở núi xuống thì thiệt
đau lòng.
Thêm vào đó, cái nửa hồn
"made in America"
nó còn quơ tay quơ chân
chỉ cho tôi thấy là chính cái thân
cây tôi cũng đã mọc được rất
nhiều cành, rễ, sau bao nhiêu năm ở xứ
này. Các con tôi đã sinh ra và lớn
lên ở đây, tụi nó như trái chuối,
vàng ngoài trắng trong, thương
ham-bơ-gơ hơn thương phở. Bắt
tụi nó "thương" cái xứ Việt
Nam
tụi nó chưa hề thấy, "về"
cái nơi tụi nó chưa hề đặt
chân tới để sống là điều
không làm được. Rồi
đây, mai mốt tụi nó sẽ lấy vợ lấy
chồng sinh con đẻ cái, vợ chồng tôi sẽ
có cháu nội cháu ngoại. Như những ông những bà bạn cao
niên hơn mình hiện giờ, vợ chồng
tôi cũng sẽ gần con gần cháu thì
điên cái đầu mà sống xa tụi
nó lại thương nhớ chịu không thấu.
Tôi là đàn ông mà
còn cảm thấy vậy rồi huống chi vợ
tôi. Rồi còn anh em họ
hàng bằng hữu ở xứ này nữa. Chuyện về Việt Nam sống coi vậy chớ
cũng kẹt. Bứng cây non đi
cấy nơi khác thì còn làm được.
Dời một cây "trung thụ" mấy
mươi năm đem trồng nơi khác coi bộ
không dễ dàng. Đem cả cành
lá rễ theo thì không
đem được, mà chặt hết rễ
lá cành thì cây không sống đặng
- hoặc sẽ sống chơ vơ như cây cột
đèn vô tri vô giác.
Tôi suy nghĩ tất cả những điều
kiện ắt có và đủ đó rồi,
tôi thấy rất rõ ràng một điều
rất thực là mình, cũng sẽ như nhiều
người khác, sẽ chẳng bao giờ trở lại
để sống trọn vẹn trên quê
hương của mình. Việc trở về để
sống, thực tế, "chỉ là giấc mơ thôi !"
Nó chỉ là giấc mơ
thôi không những đối với riêng một
mình tôi, mà cũng chỉ là giấc
mơ thôi đối với bao nhiêu người
khác nữa. Nhất là với những bằng hữu lớn
tuổi mà tôi có duyên được quen
biết rồi thành thân thương. Những người tôi gọi bằng
bác, chú, hoặc những người tôi gọi
bằng anh, chị cho thân mật, mặc dầu tuổi
họ hơn tôi có đến một hai giáp.
Hình như càng lớn tuổi,
tôi càng hay suy nghĩ đến và càng cảm
thông hơn với những ông già bà cả
này. Tôi thường
hình dung đến họ khi dự kiến về
tương lai. Tôi nghĩ đến cái
dây lòi tói kết bằng những sợi
tơ hình ảnh quê hương của mình.
Mười tám năm thôi, không
là bao nhiêu cả, mà đã bền bỉ,
níu kéo không rời. Còn sợi
dây của những người thân, bằng hữu,
có đến mấy chục năm hay là gần
trọn cuộc đời họ ở quê
hương. Làm sao họ sống ở đây
mà không bị cái hồn "made in Vietnam"
của họ làm cho ngầy ngật, lơ tơ
mơ đêm ngày ? Làm sao họ
chịu cho thấu ? Tôi "may mắn"
chỉ sống trên quê hương thời gian
chưa là bao, và ở đây tôi còn
ham hố bon chen sống, còn lu bu với công việc
của mình; ở đây tôi xoay xoay chạy nhảy
trong cái hồn "made in America" rất nhiều giờ
trong một ngày, mà tôi còn điêu
đứng, huống chi là những người
thân, bằng hữu lớn tuổi này. Tôi
liên tưởng đến những khuôn mặt
đã có nhiều nét thời gian của bằng
hữu lớn tuổi hơn mình, tôi nghĩ đến
ánh mắt đã chứng kiến biết bao
đau thương của những bằng hữu cao
niên, rồi tôi nghĩ đến ước mơ
của họ, ước mơ không khác gì với
ước mơ của tôi, một ngày nào
đó sẽ có cơ hội được về
sống trên quê nhà; tự nhiên tôi thấy
xót xa. Bên cạnh những lần gặp gỡ
tay bắt mặt mừng, bên cạnh những nụ
cười, lời nói tếu lúc họp mặt,
thăm viếng, tôi biết lòng họ còn nặng
nề hơn tôi rất nhiều mỗi khi lắng
đọng suy nghĩ về quê nhà. Lúc họ
lủi thủi ở vườn sau, sân trước,
khi con cái họ đã đi làm, đi học,
hoặc đã rời xa, tôi đoán là họ
còn ngật ngầy trong hình ảnh quê
hương gấp trăm lần tôi. Ngay giờ
phút này, trong không khí Tết gượng
gạo của những người Việt tha hương
trên đất Mỹ, trong những căn nhà ở
Elk Grove, ở Rancho Cordova, ở Carmichael; trong những chung
cư ở khu đường số 5, ở đường
47, hay ở khu "cư xá sĩ quan cải tạo"
Shade Tree, có bao nhiêu bằng hữu của tôi
đang quay quắt nhớ về quê hương
? Có bao nhiêu bằng hữu lớn tuổi
hơn tôi đang nghĩ đến chuyện một
ngày nào đó sẽ về sống ở
quê nhà ? Và có bao
nhiêu bằng hữu đang tư lự, suy nghĩ những
điều tôi đang suy nghĩ, rồi bùi
ngùi, xót xa, như tôi đang xót xa,
bùi ngùi, nhận ra rằng việc trở về
sống ở quê hương mình nó chỉ
là giấc mơ thôi !
Nó chỉ là giấc mơ
thôi, như giấc mơ làm loài cá hồi
(cá salmon) mà tôi đã có lần nghĩ
đến cách đây nhiều năm. Cá salmon sanh ở nguồn,
lớn lên ra biển sống, rồi bất chấp mọi
ghềnh thác ngược dòng trở về để
đẻ trứng, cấy giống, rồi chết,
thân xác lở loét bên giòng.
Điều đó vẫn canh
cánh bên lòng tôi. Đôi khi, trong những tháng
11, 12, tôi vẫn thường ra đứng bên bờ
sông American River, gần đập nước Nimbus Dam,
nhìn xác thân trầy trụa lở loét của
những con cá Salmon đang dập dình theo
sóng nước tấp bên bờ mà
thương cảm, xen lẫn chút kính phục,
ngưỡng mộ. Nhưng rồi khi nghĩ
đến việc trở về quê hương để
sống của chính bản thân mình, tôi
biết không bao giờ tôi dám bắt chước
loài cá Salmon. Cá
Salmon ngon lành dám can đảm bất kể
thác ghềnh quay về nơi chôn nhau cắt rốn
(?) của nó, rồi chết, tại vì nó
hơn tôi cái chỗ không có những suy
tính phức tạp của một con người. Cá Salmon nó dám ngon lành
chơi bạo tại vì nó là ... con cá.
Tôi đứng bên bờ sông, tôi nhìn
thân xác rã rời của nó, vì ...
tôi là con người.
Một con người Việt Nam đang ôm giấc
mơ trở về nguồn cội của mình. Trong
đầu con cá Salmon không biết có gì
không chứ còn trong đầu tôi ngoài
cái nửa hồn "made in Việtnam" thôi
thúc tôi trở về còn có cái nửa
hồn "made in America" ôm cứng, giữ chặt,
kéo cẳng tôi lại, bắt tôi sống cho hết
cuộc đời của một người Việt
trên đất Mỹ.
* ** *
Nơi tôi làm việc nằm
ngay trên đường Stockton
Boulevard. Ngày nào
có công việc tôi cũng phải lái xe chạy lên chạy xuống cái trục
lộ tập trung các sinh hoạt Việt nam này
ít nhất vài ba lần. Tôi đoán
là cũng như tôi, những người Việt
khác - nhất là
những bằng hữu cao niên hơn mình - khi đi trên con đường
này đều thấy hiện tại và
tương lai của một đời người
nó rất rõ nét ngay ở góc đường
Stockton với đường Lemon Hill. Bên này
là chợ Vĩnh Phát, buôn bán các thứ
cần thiết và gần gũi nhất với sự
sống là thức ăn, gạo, mắm, thịt,
cá; còn phía bên kia đường là
nhà quàn và nghĩa trang Sacramento Memorial Lawn,
nơi mà người bạn văn của tôi
là Nguyễn Hàn Thư đã rất văn
chương phụ đề Việt ngữ ra thành
"Khu Chung Cư Vĩnh Cửu". Cái bon chen, sôi động, của một đời
người mong được vĩnh phát rất cận
kề với cái hiển nhiên, tĩnh lặng của
sự vĩnh cửu. Vĩnh cửu là muôn niên,
đương nhiên sẽ đến. Vĩnh phát
là tính toán, là tạm thời, là
mong mỏi.
Sáng nay, tôi thấy rất rõ nét,
qua mấy câu thơ được sửa lời,
điều mình đã mơ hồ trong đầu,
điều mình sợ hãi, là với tất
cả phân tách và suy tính của lý
trí trong cái nửa hồn "made in America", những
"thoáng quê xưa, ... quê cũ nên
thơ, ... gặp quê tôi ước mơ" rốt
cục, rất thực, "chỉ là giấc mơ
thôi", và giấc mơ này đang chết
trong tôi. Theo ngày tháng, theo thân xác
càng ngày càng thêm miles của mình,
"quê nhà đang chết trong tôi" - Nói
đúng hơn, dự tính một ngày
nào đó sẽ về sống một trăm phần
trăm, sống trọn vẹn là người Việt
chứ không phải là Việt kiều nơi
quê hương mình, đang rất thực và
rất đau xót úa tàn theo cái thân
xác over miles của mình. Tôi sẽ
phải đành đoạn chấp nhận thực tế.
Và tôi sẽ phải "nghe
lòng tiếc nuối, nhớ thương suốt đời"
suốt phần đời còn lại của
mình.
Cái xe thời gian còn lại
của cuộc đời tôi do con bò đói
nheo lòi be sườn kéo đi đang lịch kịch,
lịch kịch tiến tới. Tôi
đang ở tuổi trung niên. Các con tôi
sẽ lớn. Nếu Trời Đất
thương, tụi nó sẽ nên người, sẽ
có gia đình sinh con đẻ cái. Và nếu Trời Đất thương, vợ
chồng tôi sẽ đến cái tuổi cao
niên như những bằng hữu cao niên mà
mình đang có. Các con tôi sẽ
có cuộc sống riêng tư của tụi
nó, rời xa. Tôi với bà xã sẽ
như nhiều bằng hữu lớn tuổi hơn
mình bây giờ, lẩn quẩn sân trước
vườn sau "cố gắng vui lên mà sống,
tô lên đôi môi nụ cười"
làm người Việt tạm cư ... vĩnh viễn
trên đất Mỹ. Mỗi năm trong thời gian
đang tới, tôi sẽ tiếp tục như
đã tiếp tục từ ngày rời quê
hương, chơi vơi trong cảm giác cô
đơn của người đứng bên lề lạc
lõng nhìn những nhộn nhịp của ngày
lễ Giáng Sinh, Tết tây ở đây. Rồi
trong cái tĩnh lặng của những ngày
tháng Giêng, tôi sẽ tiếp tục, như
đã tiếp tục từ ngày đặt
chân tới xứ này, gượng gạo tay bắt mặt mừng với anh em bằng
hữu mà lòng buồn thiu đón cái Tết
ta đang tới.
Tôi sẽ nhớ thương suốt
đời những gì tôi không thể thực
hiện được. Tôi sẽ mãi mãi thương đau
trong cái nửa hồn "made in Vietnam".
Một ngày nào đó, gần
xa chưa biết, tôi cũng sẽ như những bằng
hữu thân thương cao niên hơn mình, nằm
xuống. Thân xác
tôi có lẽ sẽ nằm trong Khu Chung Cư Vĩnh
Cửu, nửa hồn "made in America"của tôi sẽ
tiêu diêu miền cực lạc (hay chốn địa
ngục), mất hút. Còn cái nửa hồn
đồ nội của tôi, cái nửa hồn
"made in Vietnam"
của tôi, sẽ lây lất, vất vưởng
bên chỗ tôi nằm. Tôi sẽ
mãi mãi đau thương vì không bao giờ
còn được về sống như một người
Việt trên quê hương mình.
Sáng nay, lúc đứng tắm, ứ ứ
ư ư bài hát Nửa Hồn Thương
Đau được sửa lời, "Nhắm mắt,
cho tôi tìm một thoáng quê xưa - Cho tôi
về quê cũ nên thơ - Cho tôi gặp quê trong
ước mơ..."; ứ
ứ ư ư đến đoạn "hay chỉ
là giấc mơ thôi - Quê nhà đang chết
trong tôi - Nghe lòng
tiếc nuối, nhớ thương suốt đời",
trong ý nghĩ đó tôi đã buốt lạnh,
ứa nước mắt.
Nguyễn Thượng
Đức
(Phuong Nguyen sưu tầm, /O-O/ chuyển)