Hết Thời Oanh Liệt
● Truyện ngắn Sơn Nam
Non trăm năm về trước, làn
sóng người Việt Nam từ Cần Thơ, Vĩnh
Long đổ xuống Rạch Giá, Cà Mau để
khai khẩn đất hoang. Họ đã gặp những
trở ngại thiên nhiên nào ? Tài
trí, sự dũng cảm của họ ra sao ?
Lòng chúng ta không khỏi phập phồng
âu lo khi ngày nay đọc lại quyển Truyện
Đời Xưa của cụ Trương Vĩnh
Ký. Cụ có nhắc lại câu chuyện cọp
ở vùng Gò Quao. Cọp ta đi dạo xuống
bãi sông để tìm mồi, rủi bị kẹt
đuôi trong bụi dừa nước ..
Rõ ràng thời ấy cọp quá lộng
hành dám bỏ rừng sâu, bén mảng
đến các xóm nhà sát mé
sông, nơi mà chúng bị cô lập, thất
thế nhứt. Ông cha ta đã đánh đuổi
lũ cọp ấy như thế nào ? Có người
đáp: nhờ các thầy võ giỏi
chuyên môn đánh cọp xuất thân ở
các trường võ Quảng Nam, Quảng Ngãi. Gặp
lúc nước nhà loạn lạc, các thầy
chạy vào vùng Cà Mau mà ẩn lánh.
Võ nghệ của các thầy quá đỗi
cao cường, gặp cọp là rượt bắt lại,
nắm gáy đè xuống, nện vào lưng
cọp những quả đấm thôi sơn chẳng
khác nào chúng ta ngày ngay đánh một
con mèo hoặc một con chó con ..
Người khác bảo rằng: họ
đã từng gặp mấy ông thầy bùa
Xiêm, chuyên môn dụ dỗ cọp. Các thầy
Xiêm nằm ngửa dưới gốc cây giữa
rừng mà thổi kè, nói đúng hơn
là thổi vào một miếng lá tre. Tức
thời cọp mẹ, cọp con chạy lại, quỳ xuống
hầu hạ canh gác cho thầy ngủ. Sau khi thức
dậy, thầy Xiêm vỗ về từng con, nhổ
vài sợi râu hoặc vài sợi lông
để nuôi sâu. Lông cọp, râu cọp
được đem về cắm trong măng tre đang
mọc. Vài hôm sau thì ô hô, mỗi sợi
là một con sâu. Tục truyền rằng loại
sâu ấy lớn bằng cườm tay, mặt đỏ
hói, mình mảy vằn vện, có
đuôi dài ngoe nguẩy. Nhiều người
nuôi nó trong một cái hũ kín mít
để giữ nhà. Khi có khách đến
sâu cọp nhảy dựng trong hũ nghe rổn rảng
rồi la hét ! Ngoài ra, cứt của loại
sâu này rất quý giá vì nó
là vị thuốc độc, giết người
trong nháy mắt. v.v...
Sự thật ra sao ?
Cọp U Minh, cọp Gò Quao ngày nay bị
tiêu diệt hoặc bị xua về Bảy Núi, về
Tà Lơn phải chăng là nhờ các thầy
võ Quảng Nam hoặc các thầy Xiêm có
bùa phép ?
Trả lời câu hỏi ấy, cách hay nhứt
là đến tìm các ông bà lão
hiện còn sống ở vùng Gò Quao, Trà
Ban. Mấy ông này nếu không trực tiếp
đánh cọp thì ít ra cũng đã thấy
và nghe rõ ràng hơn chúng ta. Vậy xin mời
các bạn đọc thân mến đến phỏng
vấn và nghe các ông trả lời.
- Thưa ông, ông xuống đây lập
nghiệp từ hồi nào ?
- Ðiều đó không nhớ chắc chắn
ngày tháng. Nhưng mà mấy cháu nên
nhớ: hồi Tây đánh nước mình, miệt
Rạch Giá, Cà Mau còn hoang vu. Ngoài biển,
có ghe đánh lưới của người Hải
Nam.
Còn trong đất liền chỉ có mấy
nhóm người Triều Châu, Phước Kiến
qua đây từ đời ông Mạc Cửu. Họ
ở gần chợ Rạch Giá, chợ Bạc
Liêu bây giờ. Kỳ dư, có vài
sóc người Miên ở giữa đồng.
Thưa thớt lắm. Sông Cái Lớn, Gò Quao
này nhiều khi chèo ghe suốt ngày mà
không gặp một nhà nào. Nghe nói hồi
Gia Long tẩu quốc, nhiều người cất
nhà ở Tân Bằng, Cán Gáo, Tàu Dừa,
Cái Nước. Hồi tôi xuống Gò Quao
này, ở miệt dưới đã có vườn
tược, có cau lão rồi. Nhưng đó
là chuyện xa xôi, cách mình một khoảng
rừng trên trăm cây số. Nghe nói chớ
tôi chưa từng đi tới.
- Lúc đó miệt Trà Ban này phải
chăng là hoàn toàn không có ai ở ?
- Sự thật như vậy. Vài nhà
người Miên ở tận giữa đồng
nhưng họ không làm ăn chung đụng với
người mình. Kỳ dư, ven sông Cái Lớn
này toàn là rừng. Trên bờ có cọp,
dưới sông có sấu. Mình chèo ghe ban
ngày, chừng vài trăm trước là thấy
sấu nổi trước mũi ghe. Trời chạng vạng,
nghe cọp rống, mấy ổng úp mặt xuống
đất nên có tiếng dội ..
- Hồi mới tới cất nhà, chắc cọp
khuấy rối mình dữ lắm !
- Không có ! Không có ! Mình ngu dại
gì vô tuốt trong ngọn cùng mà cất
chòi. Làm như vậy có hai điều lợi.
Một là trong mấy ngọn rạch không có
rừng già. Rừng chỉ ăn dài theo mé
sông cái, bề sâu vô chừng hai ba
ngàn thước .. Phía trong toàn là sậy,
đế, cây mốp, rừng chồi. Mình
có thể phá gấp sậy để đó
để làm ruộng trước, có lúa gạo
mà ăn liền. Ðiều lợi thứ hai là ở
xa cọp. Lúc mới xuống làm ăn, mình
cần sự yên ổn. Hơi đâu mà lo
chuyện đánh cọp, trong lúc mình
không rành võ nghệ.
- Ở hẻo lánh như vậy, chắc sợ
cọp dữ lắm. Cọp ưa tìm người
mà ăn thịt ..
- Vài người lo xa. Họ rào chung quanh
chuồng heo. Sợ nhứt là khi mình đi ruộng,
cọp lén vào nhà bắt con nít. Lần
đó, cọp tới sàn nhà tôi chạy
vòng quanh tìm cách vô nhà. Ðứa con
tôi ở một mình. Nghe tiếng động
đậy nó chạy ra sát hàng rào. Cọp
ta không phương thế nào vào trong
được nên day lại, thò đuôi
vô kẽ hàng rào. Trưa về nhà nghe
con tôi nói lại: “Ba ơi ! Hồi ba đi ruộng,
có con vèo vện lại đây, thò
đuôi vô. Con nắm đuôi mà nó mạnh
lắm, kéo ra được chạy vuột.” Chừng
đó, lối xóm ai cũng hoảng sợ
xây hàng rào chung quanh nhà. Ðêm cũng
như ngày chỉ nghe động tịnh là nghĩ
tới cọp. Nhưng dân mình gốc ở hai huyện
Cần Thơ, Vĩnh Long xuống đây. Ở
đó, đất khai khẩn lâu đời rồi
nên phần đông nghe tới tên cọp
là sợ chớ ít ai thấy tường tận
ông cọp lần nào. Có một cô nọ
ngồi rửa chén sau nhà, thấy cái
tàu mo cau rụng xuống bèn vụt chạy
vô nhà, đóng cửa lại: “Má
ơi, cọp ! cọp !.” Hỏi cọp ra sao. Cô
ta nói nó cao lắm, lưng nó vàng, bụng
nó rằn. Chừng xem kỹ lại rõ ràng
là tàu cau .. Có bà lão khác ngồi
câu cá dưới gốc cây xộp. Cọp
trong rừng men chạy ra chụp một cái. Bà nọ
té nhào bên một gốc cây. Nhờ vậy
mà cọp chụp hụt. Sau đó cọp chạy
cong đuôi vô rừng. Bà ngồi dậy mở
mo trầu ra ăn rồi lững thững về nhà
nói lại. Bữa nay xui xẻo quá. Câu
cá không được con nào, nhè gặp
heo rừng ra nhát. Chừng cả nhà hồ nghi trở
ra gốc xộp mà xem kỹ, rõ ràng là
dấu móng cọp.
Kể từ đó, thiên hạ ưa
bàn tán về cọp, bắt đầu lo ngại.
Có người bàn: nên thành lập một
đội binh để vô rừng đánh cọp.
Công việc đầu tiên là đốn tre tầm
vông vạt nhọn để sẵn. Khi gặp cọp
thì đánh trống lên, cả xóm
xách tầm vông tới nghinh chiến. Mới nghe
qua, dường như có lý. Nhưng sau
đó, ở rạch Cái Cam, Phong Ðiền, Cần
Thơ, có người xuống cho hay: “Ở xứ
tôi, có bố trí như vậy nhưng thất
bại. Gặp cọp, đánh trống lên, ai nấy
xách tầm vông chạy tới. Cọp im lặng,
trụ hình một chỗ. Thinh không, ổng
hét lên. Tức thì ai nấy chạy tán
loạn. Có người thiếu điều đổ
ruột vì chạy càn đụng nhằm ngọn
tầm vông của bạn mình. Về sau, có
người gài bẫy được một ông
cọp. Họ đút mũi tầm vông vô miệng
cọp để đâm. Dè đâu cọp nhai
nát như .. mình ăn mía.”
- Vậy làm thế nào mà đánh
cọp đến đỗi không còn sót một
con như ngày nay?
- Chuyện đó phải làm lần hồi.
Bố trí một đạo binh đánh cọp
không xong, dân xóm này mới bày đặt
cất miễu thờ cọp. Ðó là ngụ
ý: “Chúng tôi là người làm
ăn, không dám đả động tới
ông, xin ông cứ ở trong rừng để
chúng tôi được yên ổn !.” Cất
miếu xong, chạng vạng có người tới
đốt nhang. Mấy hôm đầu, ông cọp
đi vòng quanh miếu, đứng nhìn nhang rồi
về. Bữa sau đem ra cũng một cái đầu
heo rừng. Cọp mừng lắm. Từ đó
xóm giềng được yên.
Nhưng tạo hoá vần xoay, dân miệt
trên xuống đây khai khẩn ngày thêm
đông. Ðất giữa đồng khai thác hết.
Bấy giờ chỉ còn là đất rừng
sát mé sông, nơi cọp ở. Ðó
là hồi nguy nan nhất cho dân mình và cũng
cho cọp. Nhiều người làm gan cất nhà
sát mé rừng. Ban đầu, đôi ba
nhà, sau, năm mười nhà. Họ thấy ở
gần rừng mé sông tuy là nguy hiểm
nhưng có nhiều huê lợi khác: ăn ong,
làm rẫy. Một công rẫy trúng mà
được tới một trăm hai chục giạ
khoai lang. Lúc này, nhiều người chết
vì đi một mình vô rừng bị cọp
chụp bất thình lình. Họ sắm mác
thông, thứ có cán dài để ứng
phó. Nhưng ở chỗ rừng dày, con người
khó bề xoay trở để thủ thế.
Thời thế tạo anh hùng. Bận
đó, ông thầy Râu -thầy thuốc Nam,
vì có râu dài nên gọi là thầy
Râu- có đứa con gái bị cọp vồ.
Tức mình ông cầm mác rượt theo tận
giữa rừng, chém cọp rớt một cẳng.
Tư Ngạn bị cọp cõng mất một con heo
nái. Chú rượt theo cầm cự với cọp
suốt buổi trưa. Nhờ lối xóm tiếp cứu
nên mới thoát nạn. Từ đó về
sau, chú ưa uống rượu, cặp mắt
luôn luôn đỏ ngầu.
Kinh nghiệm là không nên đánh cọp
nơi chật chội, tứ bề có cây cối.
Cọp sợ con người. Bằng cớ là ở
giữa đồng trống, mình cầm mác
thét lớn là cọp chạy mất. Vì vậy,
khi dân mình phá động rừng, cọp tản
mác, kiếm nơi khác mà hùng cứ. Rạch
Cái Bần này lần hồi còn sót lại
được ông Mun.
- Tại sao ông Mun dám ở lại ?
- Vì ông thuộc về lại cọp
già, đã từng chống chọi nhiều phen với
loài người. Cọp nhỏ thì đi. cọp
già ở lại. Thứ già là thứ dữ.
Mỗi rạch chỉ còn sót lại một hai
ông. Dân trong xóm đều quen mặt nên
đặt tên. Có hai ông, Ông Vện với
Ông Mun. Vện là cọp đực. Ông Mun
là cọp cái.
Trời đất dành riêng cho đôi cọp
này số phận riêng. Trước hết xin
nói về ông Mun.
Thường ngày ông tới lui vàm Xẻo
Gừa - một xẻo nhỏ, có cây gừa to lớn,
nhỏ gừa (rễ thòng xuống) buông xuống
hàng trăm cây to bằng cổ tay, bằng
cây cột nhà. Ông Mun ngủ sát cốc,
chung quanh có nhỏ gừa che chở nhiều lớp.
Ông dạn lắm. Sáng đi, chạng vạng
về. Tháng Tư năm đó, ông sanh
được bốn ông Mun con...
Thật là khủng khiếp, lạ thường.
Xưa nay, cọp sanh một hay sanh đôi là
cùng. Ðàng này sanh tới bốn con. Dân
làng nhìn nhau lắc đầu, tưởng tượng
một ngày kia bốn ông Mun nhỏ lớn lên,
sung sức.
Phải đối xử bằng cách nào ?
Bắt bốn ông Mun con chăng ? Chuyện
đó rất dễ. Ông Mun mẹ thường
đi tìm mồi, để bầy con bơ vơ ở
gốc cây gừa. Nhưng mất con, ông Mun mẹ
sẽ đổ quạu, trả thù, gây nhiều
chuyện bất an cho xóm.
Lo xa rồi lại nghĩ gần, ông thầy
Râu, ông Hương Văn Huệ, ông Tri
Khách lừa bày ra một kế: bắt bớt
ba, chừa lại một.
Thi hành xong, ba ông đem ba con cọp nhỏ
về nhà. Xóm giềng rất đỗi vui mừng.
Nhưng ba ông không yên trí, sợ ông
Mun mẹ đánh hơi theo tìm con để trả
thù ..
Sau rốt, các ông mua nhang đèn về
dựng bàn thờ trước nhà mà khấn
vái:
- Xin trình cúng ông Mun được hay:
Thói thường xưa nay một mẹ thì một
con. Ðằng này, ông sanh tới bốn con.
Dân làng chúng tôi lo sợ nên thừa
lúc ông đi vắng có tới xin bớt ba
con, chừa lại cho ông một con. Như vậy
không mích lòng ông mà cũng không hẹp
bụng chúng tôi.
Ông Mun về ổ, thấy mất con, gầm
thét, rồi vài hôm sau dẫn đứa con
còn lại đi đâu mất.
Bây giờ làm sao để nuôi ba
ông cọp con nọ ?
Cọp con hiền lắm, mình mẩy mềm mại,
bò tới bò lui, cái lưng uốn éo
như con mèo lớn. Tối ngày, mấy cậu cứ
đòi sữa. Biết được chuyện ấy,
người đàn bà động lòng,
xúm xít lại, đặt mấy cậu ngồi
giữa bộ ván, ai nấy ngồi vòng quanh
mà dòm ngó cho mãn nhãn. Các cậu
đánh hơi rồi từ từ bò ngay lại
người đàn bà nào có sữa
để đòi bú. Bà chủ H. cho bú
thử. Kết quả, vài ngày sau vú sưng
lên làm độc, đau sứt núm vú, bấy
giờ thiên hạ càng lo ngại. Sau cùng, chở
ba cậu ra chợ Rạch Giá để nạp cho
quan phó chủ tỉnh. Ông phó tên Quitxy
thưởng cho hai mươi lăm đồng bạc trắng.
- Còn ông Vện ?
- Ông Vện có lẽ là chồng
ông Mun cha của mấy cậu nọ. Phải chăng
vì già nua bịnh hoạn mà ông Vện
không theo vợ theo con. Buổi sáng đó
người ta thấy ông Vện nằm dài
trên bờ rẫy, sát mí rừng. Ban đầu
ngỡ là ông ngủ trưa. Chừng mặt trời
lên cao ngạc nhiên làm sao, ông vẫn nằm
ì không nhúc nhích. Thiên hạ xúm
lại gần, lấy đất chọi thữ rồi lấy
cây dài đem cọc, chừng đó mới
biết ông chết. Họ thui râu của ông, lấy
thước đo ông dài một thước
sáu. Người khác đòi, khiêng
lên cân thử. Các bậc kỳ lão cản
ngăn, cho rằng làm vậy là quá khinh thị
mạt sát kẻ đã chết.
Rạch Cái Bần không còn cọp nữa.
Các rạch khác cũng nỗ lực như vậy.
Lần hồi, ghe xuồng đi thông thương
ngày đêm từ ngọn Cái Cau đến
vàm sông Cái Lớn. Câu hát thời
xưa:“U Minh Rạch
Giá thị quá sơn trường, Dưới
sông sấu lội, trên rừng cọp tha” không còn. Ghe xuồng tàu
bè tấp nập, bọn sấu phải lui về
vàm. Cũng thời câu hát xưa, thiên hạ
sửa lại như vầy: "Ðường đi Rạch Giá thị
quá sơn trường, Gió run bông sậy, dạ
buồn nhớ ai".
Bông sậy là nơi đã khai thác
thành rẫy. Lòng dạ con người thơ thới
hơn. Không còn sợ cọp, sợ sấu. Họ
rảnh trí mà ngắm cảnh nhớ tình. Nhớ
ai bây giờ ? Trai nhớ gái. Vợ nhớ chồng.
Người nay nhớ công ơn người xưa
đã đánh cọp để tạo lập
nên làng nên xóm. Họ không phải
là thầy nghề võ, thầy bùa.
Chẳng qua là họ muốn sống nên phải
ráng sức cùng nhau, mỗi người ráng
một ít. Sự thật về chuyện đánh
cọp Gò Quao là vậy. Nó dễ mà
khó, khó mà dễ. Người đánh cọp
thời đó không bao nhiêu, tên tuổi của
họ không cần bia đồng tượng
đá. Vậy mà về sau này có bao
nhiêu người tự xưng là thầy
đánh cọp thời xưa để hát thuật
Sơn Ðông, bán thuốc trật gãy
xương hoặc bán bùa Xiêm để dụ
dỗ gái tơ.
Thiệt đáng trách biết chừng
nào !
SƠN NAM
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)