TRÊN MẶT BẰNG CỦA
CÕI CHẾT
(HUY PHƯƠNG)
“Khôn dại cùng chung
ba tấc đất
Giàu sang chưa chín một nồi
kê”.
(Vua Tự Đức)
Từ bảy năm nay, nhiều lần liên lạc
sang Mỹ, ông anh rể tôi luôn luôn nhắc
nhở chúng tôi gởi tiền về để
xây lại mộ bố mẹ và ông bà
tôi cho khang trang, đẹp đẽ hơn. Ông cho
biết hiện nay trong làng, những người
có thân nhân ở hải ngoại đang
có phong trào đua nhau xây lại mồ mả,
lăng tẩm cho to lớn, để khỏi xấu hổ
với bà con là mình có con cái
là “việt kiều” mà không
được nở mày nở mặt với người
ta. Ông nhắc tôi năm lần bảy lượt,
nhưng lần nào tôi cũng giả lả
nói sang chuyện khác. Không phải tôi tiếc
tiền xây lăng cho cha mẹ tôi cho bằng
làng bằng nước, nhưng quả thật trong
làng còn nghèo, nhiều người già
lưng còng rồi mà phải bắt ốc, hái
rau, mót lúa mới có cái bỏ vào
miệng mỗi ngày, mà bản thân tôi cũng
chưa giúp đỡ được gì. Bây
giờ xây mồ đắp mả cha mẹ mình
cho cao lớn lên để làm gì, chẳng qua
chỉ gieo thêm tủi nhục cho những người
bà con chung quanh.
Thế rồi năm ngoái, hai ông anh bà
chị tôi được đi du lịch một chuyến
sang thăm con ở Mỹ. Tôi nghĩ với số tiền
chi phí rong chơi này, người ta xây ba
cái lăng thứ bự cũng còn dư, nếu
có lòng và muốn làm, đâu có
cần kêu gọi đến ai. Tôi mời anh chị
tôi ghé tiểu bang tôi, ở lại chơi
vài ngày, thăm em cho biết sự tình. Nếu vì phương tiện hẹp
hòi mà không mời khách đến
nhà, có khi người ta lại tưởng
mình giàu có mà keo kiệt.
Chương trình thăm viếng này hầu hết
là những chuyến đi đây đó cho
khách du lịch biết thêm về nước Mỹ,
tôi “khoe” cho khách biết từ cái
nhà mấy triệu ở Newport Beach cho đến những
khu xập xệ Santa Ana, nơi không thiếu những
căn chung cư hai phòng của một gia
đình người Mễ có đến 12 người
chen chúc sống với nhau.
Một buổi trưa trời khá
nóng nực, sau khi đi loanh quanh, tôi đưa hai
ông bà vào thăm một nghĩa trang đầy
bóng mát trong thành phố. Ở đây thật tĩnh mịch
vắng tiếng động cơ của xe
cộ qua lại, lại có tiếng chim hót
đâu đó, khiến tâm hồn mình trở
nên thanh thản. Những hàng bia
mộ đồng loạt, cùng một kích thước
trải dài trên những thảm cỏ xanh mướt
và chắc chắn dưới những nấm mộ
kia, những nắm xương cũng nằm trong những
chiếc hố vuông vắn giống nhau mà những
người phu đào huyệt đã làm sẵn.
Vì tò mò, cũng là lần đầu
đi thăm một nghĩa địa của người
Mỹ, ông bà theo tôi đi
thơ thẩn một vòng qua các ngôi mộ.
Tôi giới thiệu cho ông bà đây
là ngôi mộ của một tỷ phú trong
thành phố mới chết cách đây
vài năm, đây là nấm mộ của quả
phụ một vị Đại tá Mỹ, và gần
nhất là nơi yên nghỉ của một thi sĩ
rất nghèo mới định cư tại Hoa Kỳ
sau năm 1975. Tất cả nghĩa trang
là một mặt phẳng và tên tuổi
được ghi trên một mảnh đá
đen nhỏ nằm trên mộ giữa đám cỏ
xanh. Anh chị tôi có vẻ ngạc nhiên
nghe tôi nói chuyện vì không ngờ rằng
nghĩa địa ở Mỹ khác hẳn ở Việt
Nam, không có cái cao, cái thấp, không
có cái lớn cái nhỏ, người
giàu có hay kẻ nghèo hèn đều theo
một quy luật bình đẳng, ai cũng như ai.
Ra xe, tôi thấy mặt ông anh có vẻ
đăm chiêu như đang suy nghĩ một điều
gì và từ ngày ông trở lại Việt
Nam đến nay gần cả năm, tôi không nghe
ông nói gì về việc xây mộ,
làm lăng cho bố mẹ tôi nữa.
Tôi biết hiện nay có nhiều gia
đình ở hải ngoại đang gởi tiền về
xây lăng cho bố mẹ, kể cả
ông bà để báo hiếu. Trong chữ
Hán, hiếu là kính yêu cha mẹ, nhưng
hiếu cũng có nghĩa là có tang cha mẹ,
nên người xưa gọi việc tang lễ
là việc hiếu. Hiếu sự
là việc chôn cất ma chay cho người chết.
Hội hiếu là một tổ chức lo việc chung sự. Lo mồ mả cho cha mẹ cũng
là báo hiếu. Ở Huế trong vùng biển
Thuận An có một ngôi
làng tên An Bằng (dân ở đây đọc
trại là An Bường), có một cái nghĩa
địa, đắt giá nhất thế giới. Cũng
như tất cả dân chúng ở các
vùng biển, sau tháng 4 năm 1975, dân Thuận
An cũng nhiều cơ hội vượt
biển đi tìm cuộc sống mới hơn những
người ở xa biển. Thôn An
Bằng có 800 gia đình nhưng trong đó
đã có 75% gia đình có người
vượt biển, sang Mỹ sang Tây. Xung quanh ngôi
làng này chỉ là những đụn
cát, xưa dân An Bằng những năm mất
mùa cá có khi phải ăn cháo
xương rồng, lấy cây xương rồng
phơi khô làm củi đốt và kéo
nhau lên thành phố Huế ăn xin.
Khi có tiền người ta nghĩ
đến việc báo hiếu, cha mẹ còn sống
thì quà cáp tiền nong, cha mẹ đã
qua đời thì lo xây đắp một phần
cho khang trang để tỏ lòng hiếu nghĩa. Lúc đầu người ta chỉ
xây lăng, đắp mộ vừa
phải, nhưng sau đó thấy mộ phần của
hàng xóm đẹp hơn, sang trọng hơn hơn
hẳn gia đình mình, lại muốn chạy
đua cho bằng hoặc hơn người khác.
Có khi lăng mộ đã xây xong lại đập
phá đi để làm lại đẹp đẽ
hơn nhà bên cạnh, cứ tuần tự như
thế, nghĩa địa An Bường thành một
thành phố của người chết tốn
kém nhất. Một ngôi mộ lớn
nhất ở đây phải tốn khoảng 100,000
đô la. Theo học giả Lê Văn Lân tả
một ngôi mộ gia đình theo Phật Giáo ở
đầu làng An Bằng thì “Một ngôi
mộ theo Phật giáo xây năm 1999 với những
hình chữ Vạn, hình bánh xe Pháp
luân đúc trên cổng tam quan, cột chạy
rồng cẩn sứ xanh với những họa tiết tứ
quí: mai lan cúc trúc. Muốn lên cổng tam
quan này, du khách phải bước lên năm
bậc cấp, hai bên trang trí cặp kỳ
lân, ở chính giữa là một đỉnh
trầm màu vàng hòe lớn cao nừa tầm
người; đỉnh đứng trong một vòng
cung chạy hình đúc mây khói. Sau cổng
tam quan, là nhà bia hay bi
đình có một tầng mái hình lục
giác với góc cong lên, lợp ngói
hoàng ly. Đặc biệt trên từng mái bi
đình là một cái tháp tròn
có tượng Phật ngồi có hai từng
mái trông xa giống cái bảo bình đựng
cốt Phật, riềm mái chạy hoa sen. Trên
chót đỉnh bi đình cũng như trên
chót bốn trụ cổng tam quan là hình
năm quả bầu, tượng trưng cho bầu
Thái cực. Sau bi đình là những
ngôi tẩm chứa những thạch quách tô
điểm với họa tiết chữ Vạn và
hoa sen. Cuối lăng là một cổng sau với ba tầng
mái với lưỡng long triều nguyệt.”
Về phải Thiên Chúa
Giáo, tuy khác hình ảnh và dáng dấp
nhưng mức độ đồ sộ cũng không
chịu thua sút. Chỉ một cái cổng tam quan của
đi vào ngôi mộ này thôi trị
giá cũng lên đến 30,000 đô la.
Không phải chỉ có cao lớn, mà khu
nghĩa địa này còn là nơi thi thố
tài năng của nhiều nghệ nhân còn
sót lại của triều Nguyễn để có
những các cột chạm rồng, những bậc
tam cấp lưỡng long, những tấm bình phong chạm
trổ tứ quý. Các nghệ nhân xây lăng ở đây không những biết
xây nề, lên hình dáng của kiến
trúc, mà còn biết đúc, chạm, cẩn
các loại sành sứ, tô màu, vẽ
hình hoa lá, mây nước. Các
loại sứ để trang trí vẩy rồng,
lông phượng phải mua từ Bát Tràng
ngoài đất Bắc đem về. Đây
là lăng tẩm của những bậc
vương giả chứ không phải của kẻ bần
dân, với tâm lý là xưa khốn
khó, giờ chết rồi cũng làm cho tổ
tiên mát mặt.
Công trình kiến trúc đầy phô
trương này chắc chắn tốn kém hơn
hẳn những ngôi nhà gạch ở làng
này và trong vùng biển Thuận An, nơi
mà những người buôn thúng bán
bưng vẫn hằng ngày lang thang trên bãi biển,
bán những chiếc bánh bột lọc bằng
đầu ngón tay hay cho thuê những manh chiếu
dơ bẩn, rách nát cho du khách để
mót nhặt từng đồng bạc cho những bữa
cơm đạm bạc qua ngày.
Những vị Vua Chúa ngày xưa khi mới
vừa lên ngôi đã chọn chỗ để
lo hậu sự cho mình, tiến hành công việc
xây lăng tẩm để làm
nơi an nghỉ cuối cùng, có khi lăng tẩm
dành cho lúc chết còn nguy nga hơn cung điện
khi còn sống. Vua Tự Đức cũng vì lo
chỗ nằm thiên thu của
mình quá tráng lệ với đào
hào sâu, xây hồ rộng, đắp núi
cao đã đày ải phu phen vào những
công việc nặng nhọc xây dựng lăng
Khiêm Lăng khiến nhân dân ta oán, mới
xẩy ra loạn giặc Chày Vôi:
“Vạn
Niên là Vạn Niên nào,
Thành
phơi xương lính, ao đào máu
dân”.
Hoàng Đế Bảo Đại theo
Tây học, có lẽ không nghĩ nhiều về
nơi an nghỉ cuối cùng, không xây lăng
tẩm, mà có lẽ ông cũng không bao giờ
nghĩ rằng vào cuối đời ông sẽ
được mai táng trong nghĩa địa Passy của
nước Pháp xa xôi, trong nơi bình thường.
Ba anh em nhà họ Đinh, khét tiếng là hung
thần một thời ở Bắc Bộ Phủ với
những cái tên Đinh Đức Thiện, Lê
Đức Thọ, Mai Chí Thọ, chung
thân cũng một “sè sè nắm đất
bên đường”.
Người xưa thường nhắc nhở đến
chuyện vô thường của đời người
“giàu có đến vạn muôn tối ngủ
cũng chỗ nằm hai thước, vương hầu
khanh tướng chết cũng chôn ba tấc đất !”
HUY PHƯƠNG
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)