Con Tàu Định Mệnh
Và Hải Tặc
(Trần Đông Nam)
*
Tác giả Trần Đông Nam hiện là cư dân San Jose. Bài viết về nước Mỹ
đầu tiên của ông là chuyện kể về
chuyến tàu vượt biển khởi hành từ Rạch
Giá ngày 13 tháng 7 năm 1981. Sau
hai lần cướp bóc, hãm hiếp, giết
chóc, bọn hải tặc còn phá cho tàu
chìm trước khi bỏ đi. Nhân chứng
vụ hải tặc là kẻ sống sót duy nhất
trong số 53 thuyền nhântrên tàu, nhờ
bám được miếng ván trôi trên biển
và được tàu dầu của Mỹ vớt.
*
Liếc nhìn quanh như sợ có công an rình rập, nhất là sợ
người hàng xóm cạnh nhà thường
hay để ý nhất cử nhất động của
láng giềng. Đây là một lối kiểm
soát dựa vào yếu tố "nhân dân
làm chủ" để bắt đám dân bị
trị phải
tự cột chặt và xiềng xích nhau bằng
tình báo an ninh kiểu "tam tam chế",
nhà này kiểm soát nhà kia, nếu thấy
có gì khả nghi liền báo cáo công
an khu vực theo dõi bám sát điều tra. Sau
cái liếc mắt e ngại, Vỹ cầm một
cây vàng mỏng vánh, lén lút qua tay chị Bảy và ra dấu cất kỹ.
Vỹ kề miệng định thổi tắt
cây đèn dầu trên bàn bị gió tạt
đùa ngọn lửa tỏa sáng lung linh. Chị
Bảy đưa tay ngăn lại:
- Đừng. Anh cứ để tự
nhiên.
Vừa nói chị
Bảy Bét lén đưa cây vàng lá
qua tay chồng, nháy mắt cho anh Bảy
lòn đi ra cửa sau cho phi tang tông tích,
phòng khi bất ngờ công an xô cửa
xông vào nhà khám xét hộ khẩu.
Vỹ nhắc
anh chị Bảy, một lời giao phó định mệnh:
- Tui có bao nhiêu tài sản chừng
đó tin tưởng giao hết cho anh chị. Xin cố gắng lo cho. Vợ chồng tui
và hai đứa con tui rất tội nghiệp. Có gì không xuôi chuyện chắc
là tui tự vận.
Nghe nói chị Vỹ động lòng
khóc thút thít:
- Đi em tin chắc
là được. Mình ăn hiền ở
lành Trời Phật dòm xuống phù hộ cho
mình. Anh đừng nói vậy không nên.
Chị Bảy Bét
ghé vô tai Vỹ nói nhỏ nhưng rất quả
quyết:
- Anh Tư đừng
lo. Tụi tui làm ăn đàng hoàng mà !
Đã mười mấy hai mươi chuyến, chuyến
nào cũng trót lọt. Tụi tui qua mặt
công an cái rụp. Chuyến đi thành
công, qua bển làm ăn khá khiển, gửi
về cho vợ chồng tui thêm, nhớ nghen.
Nín lấy hơi,
chị Bảy đánh đòn phé tố:
- Thì anh chị
Tư cứ nghĩ lại nếu sợ thì thôi,
tôi về. Đi vượt biên ai dám
ép.
Anh Vỹ hoãng hốt
rút lại lời nói nhát gan:
- Nói là
nói vậy thôi. Chớ tui nhất quyết đi
thì đi. Ở với tụi này rồi cũng
sẽ chết. Không chết trước thì cũng
chết sau. Thà đi !
Anh Vỹ còn lo xa:
- Tui có cần
đem thuốc uống say sóng gì không? Sao tui
lo quá !
Chị Bảy
không dám cười lớn, nói trấn an:
- Anh khéo lo xa
thì thôi. Chủ tàu, tài công họ lo
đầy đủ hết rồi. Họ còn lo
hơn anh nữa đó. Chuyến này đánh
chuyến chót tài công đem vợ con đi
theo luôn. Anh Tư cứ yên chi lớn.
Chiều chập tối
đèn điện thành phố mới vừa
lóe ánh sáng vàng vọt ở ngoài
đường lộ trong khi đó tại một con
hẻm cụt, vô trong một con đường
mòn của Saigon, nay gọi là đường
liên xóm của thành phố Hồ Chí
Minh, trong căn nhà lá nhỏ một bên chủ
bên khách chụm đầu vào nhau bàn bạc
vừa mặc cả tổng số cây vàng để
mua một chuyến vượt biên. Ba cây vàng
cho một đầu người. Đưa đủ số
lượng ở tại Sài Gòn thì
được bớt nửa cây. Họ nói nhanh
rút nhanh còn lẹ làng hơn tụi Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam đi đánh Hội
Đồng Xã. Anh Vỹ tiễn chân khách ra cửa
còn hỏi vói thêm quần áo trang bị:
- Tụi tui mặc quần
áo gì cho không bị khả nghi ?
- Ừ cứ mặc
đồ thường. Hàng ngày mặc đồ
gì thì cứ giữ thứ đó. Giản dị
thôi. Như thường ngày đi làm vậy.
Nhớ là đừng đội nón lưỡi
trai, dân Rạch Giá họ sẽ biết ngay
mình ở Sài Gòn xuống
Vỹ nói
đúng ý.
- Chị Bảy
Bét mới thật là một chuyên viên vượt
biên ! Tui hên lắm mới gặp được
chị.
*
Bắt đầu từ
11 giờ đêm, từng nhóm 5,3 người len lỏi
trong vườn mía từ từ chui ra có mặt
tại tụ điểm. Đủ hạng người
Nam, Trung, Bắc, đàn ông đàn bà,
nam, nữ, ông già bà cả. Người cụ
bị áo quần, người xách túi
xách hoặc giỏ đi chợ đựng đồ
ăn giống như người đi chợ, có lẽ
họ ngụy trang che mắt công an hoặc người
địa phương không biết họ toan
tính vuợt biên. Tụ điểm là một
khoảng trống nằm trong khu vườn mía.
Mía nhổ sạch chỉ còn lại các
gò đất lỏm chỏm để đám
đông không đụng chạm lá mía cắt
da và tránh tiếng đông xào xạc. Cả
bọn không ai bảo ai đều im thin thít.
Nhưng hồi lâu lại có tiếng người
đàn bà rầy con:
- Đi ỉa lại
không đi trước bây giờ phải làm
sao ? Khổ cho tui quá ! Đồ quỷ !
Trong bóng
đêm có tiếng người tặc lưỡi,
gầm gừ:
- La um chết cả lũ
bây giờ. Cho nó ỉa đại trong quần
đi. Để thúi còn hơn đi ra ngoài
kia cho công an bắt.
Rồi lại có
thêm tiếng khóc ưng ức của người
con gái. Một người dọa nạt:
- Muốn chết hay
sao, bịt miệng nó lại đi các ba các
má !
- Đi vượt
biên sao chị lại khóc ?
- Em nhớ má em.
- Trời ! Thật
là trẻ con!
Trong bóng tối mờ
mờ trăng,Vỹ thấy ông bạn vừa kêu
"trời" có mang khẩu súng K-54 thả xệ
ngang hông. Vỹ đoán biết chính gã
là công an làm việc cho quận huyện
gì đây nhưng đã thông đồng
"bán bãi" làm lơ cho đám
vượt biên trốn ra khơi.
Tới giờ đã
định, đám người lạ trong đó
có anh chị Bảy Bét tới dòm từng người nhận
diện và thu lại thẻ mua giấy tàu của
khách hàng, đó là hộp lưỡi
lam hiệu Bà Đầm. Ở đằng xa, con
tàu lù lù xuất hiện tức thì
đám đông không ai bảo ai tua túa chạy
vụt tới để giành sự may mắn lên
ngồi được trên tàu mới chắc
ăn "Hàng Vượt Biên Thứ Thiệt".
Tàu rời bến
đậu, mọi người thở phào nhẹ
nhõm. Kẻ ngồi người đứng giống
như đám mía lau cắt trong vườn
mía kia thả ra biển lững thững như
đám lục bình trôi. Con tàu đang theo
dòng nước trôi dạt thong dong không
khác nào một chiếc tàu đưa người
du lịch khoan thai ngoạn cảnh, chớ không
có tính cách trốn chạy của con
tàu vượt biên đúng nghĩa. Vỹ lo
sợ không tưởng tượng được
vì đây lại là con tàu vượt
biên vì nó nhỏ thó dài chỉ độ
13 thước. Không mui. Không thuyền trưởng.
Không lương thực. Không thuốc men. Vậy
mà chuyên chở 53 mạng người, vách
tàu chỉ còn cách mặt biển không
hơn một gang tay. Ban tổ chức họ là ai ? Chở
đám người này đi đâu ? Một
lát nữa phong ba của đại dương sẽ
cuốn đám người dại khờ bỏ tiền
ra để chôn lấp mạng mình trong lòng
biển cả ?
Chiếc tàu
không ống khói trôi tà tà trên mặt
đại dương phản chiếu ánh trăng soi
rọi mặt biển như tấm lụa xanh xanh óng
ánh. Người người mở mắt thao
láo nhưng lòng họ chết điếng bởi
sự yên lặng đến lạnh lùng của vực
sâu và biển cả. Đang lặng thinh bỗng
nhiên có tiếng người đàn ông
khàn giọng chửi thề:
- Đ.M ! Chết hết
một máy xăng rồi.
Có tiếng
chân trần dẫm lên be tàu cây chạy lẹt
xẹt chạy về hướng đuôi tàu,
nói xen vô:
- Liệng mẹ
nó cái máy cal xăng đi.
- Ừ, còn lại
cái máy dầu liệu đi nổi không?
Nửa tuyệt vọng
nửa như người bị chìm bám
được ván gổ:
- Nổi hay không nổi
thì sao chớ ? Còn cách nào hơn nữa
?
- Ừ !
Vỹ tiến lại
gần anh tài công ngồi ở ván
đuôi tàu hỏi tìm sự thật:
- Sao anh không giữ
lại cái cal xăng để khi nào sửa lại
được máy thì có xăng dùng ?
- Máy vô nước
rồi còn giữ lại làm gì cho nặng
ghe.
Bây giờ Vỹ
đã sáng mắt, họ đưa mình
đi ghe nhưng lúc còn ở trên bờ
lái buôn khoe khoang đi tàu cho lực lưỡng
và được lòng tin của khách. Vỹ
vẫn không chán nản góp ý:
- Tôi là thợ
máy, đâu anh đưa tôi dụng cụ
để tôi mò mẫm sửa chữa thử coi.
Anh tài công loay
hoay lấy một vật bằng sắt nhét dưới
khoang ghe lẹ làng đưa qua tay Vỹ:
- Có cái kềm
mũi nhọn được không ?
- Trời ! Chỉ một
cái kềm con thì làm gì vặn được
các ốc voi. Cụ bị đơn giản như vầy
thì vượt biên nỗi gì ?
Lúc đó trời
mờ sáng, Vỹ thấy rõ viên tài
công là một người đàn ông tuổi
khoảng 30, ốm nhom, tóc dài quá mép
tai. Một mắt lé ngó trái thấy bên
mặt. Hắn mặc cái áo thun màu xám
nhà binh để lòi cánh tay xương xẩu
suông đuột như cái que củi chắp nối
với một cán cây điều khiển
bánh lái chân vịt. Vỹ nhìn mà
thương hại cho anh tài công, thân xác
bé nhỏ, tài năng thấp kém lại
đảm đang việc lớn quá sức mình.
Vỹ một mình cười lớn, đám
người trên ghe đangVỹ tưởng rằng
ông này bị tuyệt vọng đến cuồng
trí chớ có biết đâu rằng họ bị
Vỹ cười chê mọi người có mặt
tại đây, kể cả Vỹ, đều ngu si
giao tính mệnh cho một gã tài công
có tiếng mà không có miếng, vì
gã chẳng biết định phương hướng
và xử dụng hải bàn thì có
khác nào đi vào chỗ chết.
Mạng người
có số. Cũng có thể trong 53 người
trên chuyến ghe vượt biên này không
có số bị tù cộng sản nên rạng
sáng ghe đã chạy ra ngoài hải phận
quốc tế. Như một buổi tiếp rước
náo nhiệt tại khải hoàn môn. Họ vui
cười la ó. Có người ca hát vỗ
tay reo hoặc đánh tay vào bao bị làm nhịp
cho các điệp khúc, hát hò vô tận,
như đã đạt được sự
thành công trong chuyến hải trình lên
được mảnh đất tự do.
Vui tới đó rồi
ngưng lại đó vì chuyến đi còn
tiếp tục. Biển rộng bao la bao trùm một
chiếc ghe cỏn con. Có khác nào con kiến
vàng nhỏ nhí đeo trên chiếc lá thả
trôi trên con sông cái. Xa thăm thẳm. Ghe vẫn
trôi theo giờ khắc định mệnh, đủng
đỉnh lần hồi đo từng gang tấc đại
dương. Bắt đầu có người trên
ghe bị say sóng ụa mửa, tay móc họng cho
nôn ọe. Ở đây tiếng người
rên như bị cúm. Kia, lại có tiếng
khóc của trẻ nít đói bụng. Mọi
nhu cầu không được thỏa mãn nhưng
cũng qua đi vì mọi người đã mệt
lả và thiếp dần. Như lớp cá
mòi đóng hộp, mọi người nằm
sát bên nhau, ôm ấp nhau tìm hơi ấm
và sức sống hiu hắt của sức kiệt
và hơi tàn. Lâu lâu một cơn
sóng tạt qua để rửa ráy lớp người
hôi thối vì sự đóng cặn của bụi
cát, mồ hôi, bã ói và tổng hợp
của cứt đái gia vị trên thân thể
da thịt của lớp cá mòi gần như
sình thúi.
Họ lại thức dậy.
Người mắt trỏm lơ. Kẻ tóc tai rũ
rượi. Trưa biển nóng ác nghiệt.
Đàn ông cởi trần có người
tháo bỏ quần dài. Đàn bà con
gái có người bị nóng biển
hành hạ bứt rứt giựt đứt nút
áo lúc nào không hay để thân thể
lồ lộ đi tới đi lui trên một thân
ghe tròng trành điên đảo. Không
khác nào một khu người điên có
mặt trên biển, chỉ có một mặt trời
chứng kiến .
Giông tố chưa
tới nhưng tàu cướp đã tới gần.
Từ đàng xa một con tàu chạy sồng sộc
tới càng lúc càng nhanh. Một đám
đực rựa đứng trước mũi tàu
la hét rần rần. Chúng nói gì với
nhau bằng tiếng Thái chí chóe như bầy
khỉ ở rừng già. Tới gần mới thấy
thằng nào thằng nấy mình mẩy đen
thui như quét lọ, tay chân kệch cỡm,
dân đánh cá nên tên nào cũng lực
lưỡng, sức lực mạnh bạo. Chúng chỉ
mặc một cái quần xì trông thấy
cái gò bắp cải trước mặt ai cũng
kinh hồn vì biết chắc chắn là bọn
cướp, nói đúng là gặp hải tặc
rồi. Nói đến hải tặc dân mình ở
Việt Nam đều rợn tóc gáy vì
nói đến hải tặc là hiếp dâm,
giết người. Biết vậy như khi ở xứ
mình không ai màng tới thảm trạng tang
tóc đó, vì thật sự nghe nói
nhưng chưa ai chứng kiến hình ảnh
rùng rợn và khủng khiếp như hôm nay
đám người Việt đi vượt biên
là nạn nhân của vụ hải tặc.
Chúng hô hố nhảy
bươn qua ghe vượt biên làm cho chiếc
ghe lắc lư, nước biển có dịp đổ
vào tràn đầy như cơn nước dẫn
thủy nhập điền. Tiếng khóc, tiếng
kêu trời. Van xin, cầu nguyện. Không được
5 phút tất cả đàn ông đàn
bà người Việt trên ghe đều bị
chúng ra lệnh cởi trần truồng để
chúng khám vàng bạc nữ trang. Có tiếng
khóc ré. Nhìn lại ở trên ván
đầu ghe một tên hải tặc Thái
đang đè một cô gái Việt làm
tình túi bụi như một con voi rừng. 1
tên, 2 tên, 3 tên cả lũ chúng noi
gương xấu xa làm việc dâm ô táo
bạo trên ghe. Không ai dám trở tay vì số
người trên tàu của họ rất
đông và toàn bộ là đàn
ông dữ tợn. Một người đàn
ông Việt lui cui tìm vật gì dưới
khoang ghe bị một tên Thái mới làm
tình xong nhìn thấy lại gần bưng hỏng
anh lên và quăng xuống biển. Có tiếng
người la chói lói có lẽ là vợ
của anh ta vừa bị hãm hiếp xong chưa hết
khiếp đảm thì hốt hoảng thấy cảnh
chồng mình bị quăng xuống biển . Chồng
bị ngoi ngóp bơi theo ghe, nhưng ghe đã chạy
xa bỏ anh ở lại với sóng biển vừa
lên ngọn cuồng phong.
Bọn hải tắc
tiếp tục bày nhiều cảnh khủng khiếp.
Một ông trạc tuổi 50 có bịt cái
răng vàng ở hàm trên, bị một
tên cướp Thái bắt ông nhe răng,
nó lấy cái búa bổ vào hàm để
bươi lấy cái răng vàng. Chúng lượm
được cái răng vàng trong khi không ai
còn thấy đó là cái mặt người
mà chỉ hình dung được đây
là cái tô vun máu. Một đứa
bé 2, 3 tuổi đang ôm bú sữa mẹ, cuối
cùng cũng bị một tên hải tặc
kéo lôi xệch đứa bé ra khỏi
vú mẹ liệng xuống biển như trò
chơi ném dĩa bay vèo trên mặt nước,
rồi quay lại ôm thân thể người
đàn bà xé tẹt chiếc quần
xi-líp để hành lạc trước mặt mọi
người. Một cô gái lõa lồ mới vừa
bị chúng hãm hiếp xong còn quá khiếp
đảm vội ôm một người thanh niên
đứng gần bên để mong được che
chở và tránh được cảnh bị
chúng bề hội đồng tập thể. Nhưng
bọn cướp Thái chưa chịu tha. Chúng men tới gần
kêu hai người ra, buộc là vợ chồng thật
sự thì hãy làm tình trước mặt
mọi người chúng mới tin là vợ chồng
thật. Chúng hả hê tom góp vàng bạc,
thỏa mãn khoái lạc nhục dục rồi giục
nhau trở lại tàu đánh cá của
chúng. Tưởng vậy là yên nhưng
vài tên Thái còn sót lại kêu hai
thanh niên Việt Nam còn trẻ lại gần rồi
bất thần chúng xô ngã xuống biển.
Tàu cướp
Thái đi xa, còn lại trên biển một
quang cảnh tang thương. Khóc lóc. Rên siết.
Kêu trời. Kêu Phật. Oán Chúa. Oán
Thần. Có người lên cơn điên
cười khóc rũ rượi. Có người
nhẩy ùm xuống biển tự tử làm
tung nước bắn
lên ghe. Không ai can gián. Cũng không ai
còn sức tiếc thương. Số người
còn lại trên ghe là hiện thực của vết
ô nhục còn sót lại trên mặt biển.
Chiếc ghe vô danh
không người lái tiếp tục trôi tới
phía trước, vật vờ theo định mệnh. Thêm một đêm rồi
thêm một ngày, chẳng biết bao lâu, lại một tàu cướp
khác xuất hiện. Tàu bọn cướp
này lớn hơn, bọn hải tặc cũng
đông hơn. Những người sống sót còn
trên chiếc ghe trôi dạt đã kiệt sức.
Mọi sự mặc tình. Bọn hải tặc dữ
tợn như sói rừng. Cảnh tượng ô
nhục lại tiếp diễn. Đàn bà con
gái bị hãm hiếp. Búa rìu đập
đầu đàn ông. Xô người xuống
biển.
Trước khi rời
chiếc ghe tả tơi, lần này bọn hải tặc
còn ra sức đập phá chiếc ghe cho tan
nát. Ghe bể, từng mảnh ván ghe bềnh bồng. Một
số sống sót trong đám thuyền nhân rải
rác trên mặt biển rán tìm bám từng
miếng ván. Họ ngoi ngóp và lần lượt
chìm sâu. Và rồi
tất cả dấu vết của con tàu định
mệnh biến mất trên mặt biển. Màn
đêm trở về bao trùm lên mặt nước
đại dương.
*
Một người duy
nhất sống sót trong đám 53 người
vượt biên ra khơi ngày 13 tháng 7 năm
1981 có tên trong giấy An Sinh Xã Hội của
Mỹ ghi là Nguyễn Cảnh Vỹ.
Hồ sơ lý lịch
tại sở Di Trú INS ghi rõ hơn, ông Vỹ
là thuyền nhân "Boat people" đi tàu
vượt biên bị chìm, may mắn bám
được một tấm ván trôi nên sống
sót và được một tàu Mỹ
làm việc ở dàn khoan dầu ngoài khơi
cấp cứu.
Tại Department of Social Security thì ghi hồ sơ tên Vỹ bằng tiếng Mỹ:
Marriage status: single
Realation: None
History of health: Mental
Chuyện thật về số phận con tàu
định mệnh ấy xảy ra thế nào
không còn ai biết đến. Giống
như số phận cả ngàn con thuyền, hàng
trăm ngàn thuyền nhân đã chìm
sâu trong đại dương, tất cả chìm
dần vào lãng quên.
Chứng nhân duy nhất về con tàu bị
hải tặc kể trên không ai khác
hơn là ông Nguyễn Cảnh Vỹ, giờ
đây chỉ là một cái xác mất hết
hồn vía.
Với giấy tờ lý lịch được
cấp phát, ông Vỹ được người
Mỹ và nước Mỹ nhân đạo chấp
thuận cho ông lãnh tiền bịnh Social Security
Income ngay từ lúc bước vào đất Mỹ
tìm "Tự Do."
TRẦN ĐÔNG NAM
(Bai Chuyen)