Ba hạt minh châu
(Phan)
Ông bạn tôi yêu hoa phượng tới
độ lên hẳn một kế hoạch qua mặt
luật pháp Mỹ. Ông về Việt Nam thăm
gia đình nhưng chọn đúng dịp hè
chỉ để nhặt vài hạt phượng
rơi ở sân trường cũ như nhặt lại
mối tình học trò ấp ủ bao năm. Sau
đó, giả bộ vô tình quên chung với
mớ bạc cắc trong cái túi phụ của
cái xách tay, thế mà ông qua được
sự kiểm soát tinh vi ở phi trường Los Angeles lúc
ông trở lại Mỹ.
Về tới nhà ở Dallas, ông trân quý ba hạt
phượng như bảo vật. Ông bỏ vào hũ
miểng, bỏ thêm mấy túi chống ẩm lấy
lại từ những hũ thuốc tây đã hết.
Từ đó, ông ngắm nhìn ba hạt minh
châu (cụm từ của vợ ông) trong hũ miểng
như ngắm lại một thời đã qua.
Bao nhiêu tâm tình với dĩ vãng
đã xa thì chắc chỉ ông với Trịnh
Nam Sơn biết ! “Người ơi ! dĩ
vãng đã xa…” Ông khoe bạn
bè khi có ai nhắc lại thời đi học.
Ông nói về hoa phượng, mùa hè
và tuổi nhỏ thao thao bất tuyệt như cố
chứng minh rằng: Tôi ít nói vì chưa
đúng chủ đề đó thôi ! Nhưng
khi mọi người không còn muốn nghe về
chủ đề cũ rích thì chả ai để
ý đến sự thẫn thờ, đôi mắt
buồn vời vợi của ông. Tôi cũng
vô tình nhận biết ra điều đó
thôi chứ nào giờ tôi đâu phải
người tinh tế gì đâu. Tôi khuyên
ông nên gieo xuống đất để một
ngày nào đó những người yêu
hoa phượng nơi đây, bất ngờ thú vị
thấy đỏ tươi trước sân nhà một
người đồng hương. Báo chí địa
phương thể nào chẳng đến chụp
vài tấm ảnh, thơ phú tràn lan trên
báo chí cho mà xem. Chuyến này tha hồ
đọc văn thơ nữ giới vì hoa phượng
gắn chặt với những kỷ niệm đầu
đời, tuổi thần tiên của họ. Mấy
ông mãnh đã già không mặn với
hoa phượng lắm đâu vì ngày xưa mấy
ông hái hoa phượng chỉ để mưu
đồ người nhận, đàn ông chỉ
yêu hoa biết nói, ít ai yêu hoa kỷ niệm
như ông đây…
Ông nghe bùi tai nên quyết định hạ
thổ ba hạt minh châu.
Ông đợi sang xuân là gieo hạt xuống
chậu đất phân đã chuẩn bị sẵn
sàng. Chậu đất đặc biệt tới một
anh bạn trẻ gọi là Hoàng Châu Cát
Cát bởi loại đất gì vàng
vàng, chiếu chiếu cát mịn trong đó
để cho tơi, cho xốp. Tôi có thể viết
thành sách nếu gom hết những chuyện kể
của ông từ khi đặt ba hạt minh châu
vào hoàng-sa-thổ. Đại khái là từng
ngày đi làm về, ông cầm ly rượu
đỏ hay chai bia, đến ngồi bên người
tình học trò còn chưa nứt mắt.
Ông tưới, ông trông, ông nom … sợ
từ cái kiến tới con sâu. Ông nhớ nhiều
về thời niên thiếu, thuở quần xanh
áo trắng lê la khắp thị thành. Nhớ
từng đôi mắt đã hớp hồn
ông để thương hoài ngàn năm, nhớ
người ơi ! dĩ vãng đã xa nào
đó bằng thơ như tất cả những
người Việt Nam
(mỗi người Việt Nam là một nhà
thơ). Ông biết tánh tôi ưa cả nể
nên ông cho xem chứ đưa cho mấy ông bạn
khác thì sợ họ cười. Tôi
thích bốn câu trong bài tứ tuyệt,
lê thê: “có
lần tôi với hơi quá tay/ bởi người
tôi thích thích hoa bay/ quá đà
tôi té trong đôi mắt/ tay cầm hoa phượng
tới hôm nay…”
đọc rồi tôi tưởng tượng ra thời
niên thiếu của ông: ngổ nghịch, phá
phách … chắc cũng thuộc loại “làm
học trò không sách vở cầm tay/ có
tâm sự đi nói cùng cây cỏ *”
mỗi năm đến hè nghe được lên
lớp thì mừng húm vì những tên linh
tinh cỡ đó thì thường ba năm hai lớp.
(Kinh nghiệm bản thân tôi như vậy !)
Tôi lại nghĩ lan man: Khi tuổi tác cảm
nhận được chỉ có
sự yên lặng là tử tế thì
người ta trôi về miền quá khứ nhiều
hơn vươn tới tương lai. Ông hên
là gặp được bà nhà cũng thuộc
tuýp người hiền lành, cam chịu, có
lãng mạn hay không thì hạ màn phân
giải. Nhưng bởi cuộc sống, công ăn việc
làm, gia đình, chồng con, họ hàng
bên đây bên kia biển đã
đánh cắp từng ngày hết những mộng
mơ. Nhìn bà cơ cực trên xác
thân, mệt mỏi trong ánh mắt …
đâu ai biết được gì ẩn khuất
bên trong. Lòng dạ đàn bà bí hiểm
như biển Thái bình hiền hòa, bao dung
nhưng nổi sóng thì nhận chìm tất cả
!
Trong từng đời người không ít
thì nhiều những bâng khuâng một thuở
khi trao ai cành hoa phượng với tha thiết mong cầu;
không ít thì nhiều những bâng
khuâng khi nhận hay không nhận một cành
hoa để nhiều lần tự trách sao mình
không độ lượng. “Rồi ngày
tháng nào đã ra đi khi ta còn ngồi
lại, cuộc tình nào đã ra đi khi ta
còn ngồi mãi nơi đây …*”
Khi tất cả chỉ còn là kỷ niệm
thì kẻ chôn chặt trong lòng, người
mượn thơ văn nói ra những thương
mong. Khi đời sống (cơm áo gạo tiền)
không còn làm khó được người
ta thì người ta làm khó nhau ! Hai người
đồng hành đi qua gian lao cuộc sống để
cùng hưởng an nhàn, thành quả sau
năm tháng cực nhọc chứ đâu phải
để hết trách nhiệm với nhau. Tình cảm
không thăng hoa thì đừng để nguội
lạnh theo đà cấm khẩu của nguyên
lý: chỉ có sự im lặng là tử tế.
Ông tâm sự với tôi như một
người hiểu biết nhưng hành động
như một người ích kỷ. Từ ngày hạ
thổ ba hạt minh châu, ông trút bầu
tâm sự với người tình học trò
chỉ còn là dư ảo thì nhà ông
không còn tiếng cãi nhau loạn xị.
Ví như trước đây, về đến
nhà là ông la toáng lên chuyện
giày dép vợ con để không đúng
quy cách như ông quy định, ai uống ly
nước đá mà không có miếng
napkin hay cái dĩa con phía dưới, làm
hơi lạnh in dấu lên bàn kiếng, hay nước
tươm ra làm hư mặt bàn gỗ bóng
loáng mà ông lau chùi mỗi cuối tuần.
(Những linh tinh, lẩm cẩm khác nữa …
nhưng chớ có ai dại bảo ông già sinh
tật khó khăn là khốn đấy !) Ông
rầy la không để cho ai sợ, ông cũng
không theo đạo thờ vật chất mà chỉ
cốt ý giáo dục ý thức trách nhiệm
trong đời sống cộng sinh, nề nếp vệ
sinh trong cuộc sống chung với hy vọng con cái
ông sau này đi đâu, sống ở
đâu cũng được người khác
không coi thường chứ cũng chả cần
kính trọng. Nhưng thường là ông bị
bà cự nự khó khăn, khắt khe quá
đáng ! Thế là ỏm tỏi trong nhà.
Nhưng từ hôm ông gieo ba hạt minh
châu vô chậu đất thì về đến
nhà, ông không quát nữa ! Có gì
chướng mắt ông, ông tự tay dọn dẹp
để khỏi la, khỏi cãi thì mới
còn thời giờ tâm sự với ba hạt minh
châu. Ông ngồi sắp lại những đôi
giày dép lung tung, bà gọi con gái ra
nói nhỏ. Con gái ông lặng lẽ đến
sau lưng bố: “Con xin lỗi bố. Bố để
đó con.” Hôm sau ông về, giày
dép ngăn nắp đúng như ông muốn.
Thế ra la lối om xòm bao nhiêu năm là
vô ích ?!
Ông hài lòng về cô con gái
còn ở nhà với cha mẹ chứ anh chị
nó thì đi không muốn về, đã
rõ. Ông chợt nhớ ngoài những đứa
con, ông hình như có vợ nữa ?! Bà vẫn
hiện diện qua từng bữa ăn, món ăn
mà ông ưa thích. Ông tính công
sơ sơ để trả công bà nhưng tiền
nào trả nổi mấy mươi năm, từ
ngày da trắng tóc xanh đã da nhăn mắt
xếp. Ông hối hận nhiều đêm nên tự
dọn bàn sau khi ăn, xắn tay áo rửa
chén thì bà không cho. Thế là bà
rửa ông úp, tình ơi là mùi
nhưng mùi chuột chết. Bởi xong chuyện,
ông đi đọc báo, xem tivi thì bà sắp
lại cái máy rửa chén vì ly ông
úp với nồi, dao kéo cứ nghểnh lưỡi
lên trời như chờ tay ai xọc vô máy rửa
chén là đổ máu. Ông gài bẫy
bà đấy chăng ? Chén ông úp lên
cái phin pha cà phê, rồi sáng mai ông lại
la lối om xòm: “Cái phin pha cà phê của
tôi đâu rồi ?” ông không bao giờ
tìm được vật gì ngay trong nhà
ông nên ông giải quyết bằng cách la
toáng lên thì bà sẽ tìm cho ông.
Ông kết luận nhẹ hều: “Thì ra cả
đời. Tôi chỉ tìm được mỗi
món quà thượng đế giành cho
tôi là tìm được vợ tôi.”
Ông nói ra câu nào nghe cũng phải
nhưng đừng nghe những gì đàn ông
nói mà hãy nhìn kỹ những gì
đàn ông làm ! Toàn ngược.
Đàn ông thương vợ khi đã để
trong hòm chứ lúc còn sống thì
thương bồ cũ nhiều hơn (lại kinh nghiệm
bản thân …). Lúc này thơ phú nhặng
cả lên vì ngày nào cũng đi mây
về gió với ba hạt minh châu. Chẳng nghe
ông nói tới những than phiền, càm
ràm của bà nữa và cũng không nghe
ông kể công bà giáo dục con cái. Dạy
con là chuyện của mẹ, con hư tại mẹ
cháu hư tại bà nhưng con ngoan là đức
của bố. Khoe con mình là việc của
đàn ông, đàn bà biết gì
mà khoe, không khéo lại thiếu điểm của
con ông.
Đứa con còn lại trong nhà lúc này
cũng ít ở miết trong phòng hơn. Nó
lượn tới lượn lui nói cười
rôm rả làm ông vui theo. Hóa ra đàn
bà con gái thích nói ! Bà cũng bớt
im ỉm như người tù khổ sai chung thân.
Từ những lời lẽ đã nói ban đầu
về ba hạt minh châu của ông: “…
tào lao”; “… làm chuyện không
đâu”; “… dư tiền thì cứu
đói nạn nhân bão lụt mà để
đức cho con cháu, tiền đâu dư mà
tốn hai ba chục bạc đi mua đất tốt nhất
để ươm trồng phượng vĩ ngày
xưa”; “Già rửng mỡ…”;
“…già sinh tật”… Nếu bà
nhà còn nhớ những gì mình
đã nói thì bà không tự tay
bưng chậu phượng ươm ra phơi nắng
cho có nắng để ông hú hồn hú
vía ! Đi làm về không thấy chậu
phượng ươm của ông đâu. Ông
lo rồi điên tiết quát ầm lên như
vỡ chợ. Sau đó hối hận, lại lo bệnh
la tái phát rồi hứa với mình đừng
la lối om xòm nữa nha, ta.
Tôi không tài nào kể hết chuyện
gia đình ông bạn vì chuyện dài
như Chương trình gia đình bác
Tám trên đài truyền hình
Sàigòn trước '75. Chỉ biết từ
đó. Sân sau nhà họ có đôi ghế
tình nhân với cái đôn dã chiến
là khúc cây nhà kia cưa cây, đốn
cây. Ông khệ nệ nhặt về để cho
chậu phượng ươm của ông ngự tọa.
Ông ngồi một mình không hề chán chỉ
thấy cô đơn trong những buổi chiều
tàn. Giữa ngổn ngang những ký ức
đã xa đến rò rỉ dư lệ thì
người chia sẻ duy nhất với tâm tư
ông cũng chỉ có bà. Ông không nhớ
tự bao giờ đã không ngồi bên nhau một
cách ôn hòa như hiện tại. Ông bị
cô con gái nháy lén tấm ảnh ông
đưa tay vuốt mấy cọng tóc mai đã
bạc của bà. Mặt mày ông trơ trẽn,
chẳng xứng với nụ cười trong héo
ngoài tươi chút xíu nào. Ông
nói rồi không biết phải mình nói
hay không ? “Em vào rót cho anh ly rượu”.
Bà không quang quác như con quạ già,
như mọi khi, mà đi đỏng đảnh
như hồi con gái, bưng ra nửa ly hồng hồng:
“… đủ rồi đó nha ! Chiều nay ly
rưỡi rồi đấy !” ông không nổi
khùng với kỳ phùng địch thủ như
hôm qua mà ông lại nhớ đã bao
lâu ông không hề hỏi … nên ông
hỏi: “em uống gì không ?” rồi
ông đi lấy.
Mặt trời mọc rồi lặn để lại
mọc, nhưng đây là lần đầu
ông thấy chói qua con tim mình chân lý
phượng yêu. Phượng ươm chưa
hé mầm nảy đọt mà hoa đã nở
trên môi cười. Những bông hoa biết
nói trong nhà ông lúc này ưa tủm tỉm.
Cô con gái ù lì dù chưa từng bệnh
hoạn nan y nhưng không khéo: con này á khẩu
vì chẳng nghe nó nói bao giờ ! Biếng
cười như biếng ăn, biếng ngủ. Bây
giờ nó ưa luyên thuyên, kể lể đủ
thứ chuyện trên trời dưới đất.
Bao lâu rồi nó mới đứng sau lưng bố,
quàng tay ra trước ngực ông mà hôn
lên gò má nắng mưa chai sạm của
người cha lạnh nhạt. Ông mừng, con ông
đã biết nói dù hơi muộn. Tới
tuổi đi Đại học nó mới biết
nói câu: “mời bố mẹ vô xơi
cơm, con đợi.” Ông ăn bữa cơm ngon
nhất trong đời từ khi sinh ra con bé èo uột
này.
***
Ba hạt phượng buồn trong chậu đất
tốt nhất trên nước Mỹ mà vẫn
không sao hé mầm nảy đọt. “Quá
khứ đã xa không trở lại bao giờ !
Quá khứ chỉ còn là kỷ niệm cho
lòng trân quý nếu mình trân quý.
Không thể nào bắt quá khứ sống lại
như hiện tại dù tốt hay xấu hơn cũng
là hiện tại hiện hữu một lần
thôi như hạnh phúc đang có là tiếng
cười, nước mắt của hôm nay. Một lần
té trong mắt người để tay cầm hoa
phượng tới hôm nay chỉ nên giữ
gìn như kỷ niệm. Đừng tìm kiếm
trong vô vọng mà quên những hiện tại
đang từng ngày hóa thành kỷ niệm.
Hãy làm cho hiện tại vui lên để sau
này kỷ niệm vui”. Tôi đã trả lời
cho ông câu hỏi: “Ba hạt minh châu của
tôi có bị trụng nước sôi hay
không mà không hé mầm ?” Tôi biết
đó là câu hỏi của lòng người
từng trải ! Tôi chỉ còn biết cầu
nguyện cho gia đạo ông bình an !
Rồi bỗng dưng tôi được mời
đến nhà họ uống ly rượu ba
mươi năm “nắng vàng bị nhốt trong
mây”. Hai đứa con lớn tự về tổ
chức tiệc mừng Anniversary cho cha mẹ, chuẩn bị
cho cô em út đi Đại học trong năm học
tới. Một không khí gia đình bừng tỉnh
sau tháng năm dài âm u. Bà giải
thích cho tôi hiểu câu thơ mà ông
đã giết chết tim bà. Ông để
trong lòng đã mấy mươi năm hình
bóng người chị họ của bà. Người
ta học hơn ông hai lớp, lại học hành
đàng hoàng nên ngày người ta
giã biệt sân trường trung học để
đi Đại học, ông thất-tình-câm
nghiêm trọng mà viết ra: “có lần
tôi với hơi quá tay”, tức là
yêu người lớn hơn mình chứ chẳng
phải tự ái đỉa đeo chân hạc
gì ráo. Chàng lớp 10 nhìn theo bóng liền
chị khuất dạng sân trường mà
mình thì đã té trong đôi mắt ấy
nên tay cầm hoa phượng tới hôm nay - sống
một đời ngáp ngáp.
Còn bà, cũng năm lớp 10 lại đi
xin hoa phượng của chàng 12, đâu biết
người ta hái hoa phượng rồi ngồi
dưới gốc cây là tưởng nhớ hai
cái ao thu lạnh lẽo nước trong veo đã
dông mất biệt, hai cái hồ thu mà
chàng thi sĩ đã té ngập hồn trong
đó. Bà tội nghiệp người hái
hoa mà không có ai để tặng nên
bà xin-làm phước. Bà đâu biết
chung huyết thống nên bà cũng có hai
cái ao thu lạnh lẽo nước trong veo như liền
chị. Vậy là hắn té thêm lần nữa,
lần này chết chìm luôn trong đôi mắt.
Ba mươi năm dài lặn hụp miễn
phí trong bể oan cừu mà tay cứ khư
khư cầm cành hoa phượng cũ. Bà
không ghen, thậm chí thương cảm ông ở
tính thủy chung nhưng giận ông đã
làm cho bà chị họ chẳng dám bén mảng
đến nhà bà từ khi biết ra mối
tình câm của ông em rể họ.
Tôi hỏi ông: “Sao ông lì
quá vậy ?” ông trả lời thật hết
ruột gan thì phải: "Ông không ngờ
có người giống người đến vậy
! Thoạt đầu, ông mượn hình nhớ
bóng. Rồi thân thằng chỏng chết trôi
trong bể oan cừu thì cho gì lấy nấy !
Bóng trong hình, hình trong bóng, bóng
hình trù quến đến thánh cũng
không phân biệt được, đến
ngày thành hôn mới biết hình là
em đôi con dì với bóng, té ra tình
chị duyên em. Ông nói đến đây
thì tôi cắt lời: “Bia 33 với bia
Sàigòn chung hãng sản xuất. Ông
được uống bia Việt Nam là phước lắm
rồi còn phân biệt gì nữa đây
?” ông trả lời có lẽ vừa lòng
bà và các con sau cuộc hành trình
đăng đẳng: “Tôi xin lỗi về
câu hỏi mà tôi đã hỏi anh. Thật
không ngờ mình cứ tưởng mình đại
trượng phu nhưng rốt ráo thì tiểu
nhân hơn mình nghĩ về mình nhiều lắm
! … Lòng dạ hẹp hòi nên nghĩ ai cũng
gian manh, nhà tôi ra tay chăm bón cho ba hạt
minh châu của tôi hoàn toàn bằng
lòng thương mà tôi đâu biết !
Bà ấy muốn chứng minh với tôi hoa
có nở thì cũng không phải là hoa của
ngày tháng cũ. Tôi ngộ ra rồi anh ạ
! Ba hạt minh châu không nở ra hoa trông thấy
được nhưng hoa lòng đã nở. Con
cái tìm về là một hạt đã nở,
từ nay không nghi kỵ người phối ngẫu
là hạt thứ hai đã nở. Hạt thứ
ba là nụ cười trong héo ngoài
tươi của nhà tôi đã trong
tươi ngoài héo do thời gian và ích
kỷ của tôi. Tôi cám ơn vợ con, gia
đình và bạn bè”. Ông xúc
động.
Tôi ra về, hít gió tháng 5 vào
hạ. Bông cỏ bay ngập trời chiều làm
men bia trong tôi cũng ngất ngây với màu
hoa phượng nhớ. Quá khứ trong mỗi
chàng thư sinh thể nào không có
màu hoa phượng đi kèm với một
hình bóng mờ nhạt nhưng quyền uy tối
thượng, bắt nhớ là nhớ, bắt
thương là thương mà thường
là bắt hồn thư sinh khi tháng 5 về.
Dù thơ lai láng trong tôi nhưng không
dám viết ra từ khi ông cụ Tầm Xuân ở
quê tôi (Dallas) đã hạ chiếu: “thời
bây giờ có quá nhiều người
làm thơ nhưng lại quá ít nhà
thơ.” Tôi đành viết lại mớ
văn xuôi cho màu phượng vĩ trong trái
tim khô của thế hệ sinh ra trên quê
hương điêu linh nhưng sống lình
bình như … trôi sông trên khắp quả
địa cầu. Tháng 5 vào hạ với phượng
hồng dĩ vãng đã xa.
PHAN
(Bai Chuyen)