“CẦN THUÊ
ÔNG BÀ NGOẠI”
(HUY PHƯƠNG)
Cô Agat Czemierys, sống ở Bialystok, Ba Lan vừa tung lên
lưới internet .. một
lời rao để tìm một ông hay bà ngoại
cho các con của mình như sau: “Chúng
tôi muốn nhận nuôi một ông hay bà,
người sẽ sống, tận hưởng các kỳ
nghỉ hè và đi mua sắm cùng chúng
tôi suốt đời. Không ràng buộc về
tiền bạc, mà chỉ có tình
thương.” Cô đã được
đáp ứng bởi hàng nghìn thư
của các ông bà già trên đất
Ba Lan hồi âm, sẵn sàng làm ứng
viên ông bà ngoại theo lời rao này.
Sau khi chế độ Cộng Sản Đông
Âu sụp đổ, các nước hậu Cộng
Sản đã đổ xô về các nước
Tây Phương để kiếm việc làm sinh
sống, để lại những ông bà cô
đơn hiu quạnh. Cái tội nghiệp của
người thiếu phụ Ba Lan Agata
Czemierys này là tấm lòng xót xa của
cô khi cô nói: “Tôi có một
trái tim lớn nhưng không thể nhận
nuôi tất cả các cụ già neo đơn
trên toàn nước Ba Lan”.
Thế giới càng văn minh, tuổi
thọ của quý cụ càng dài. Tuổi thọ càng dài sự
cách biệt với con cháu càng xa. Chúng
ta cũng biết đây những vị cao niên cô
đơn là những người không có con
cháu hay gia đình quây quần bên cạnh.
Trong thế kỷ này, người ta không còn
sum họp qua nhiều thế hệ dưới bóng
mát của một mái nhà đại gia tộc
như ngày xưa nữa. Con cái tự lập,
không gần gũi cha mẹ, vì
công ăn việc làm thường bỏ đi xa,
không thể đem cha mẹ già đi theo. Cha mẹ
già trở nên vô dụng, không đỡ
đần gì cho con cái trong cuộc sống
văn minh tất bật, ông bà nội, ngoại
trở thành lạc hậu, không theo dõi kịp
bài vở ở trường, không giỏi computer,
đôi khi không biết cả lái xe để
đưa cháu đi đá banh, họp bạn hay
học nhạc. Ở những nước chậm
tiến, người già không được
chính phủ trợ giúp sinh sống, đã trở
thành một gánh nặng cho con cái, và họ
cảm thấy cuộc sống dư thừa trong gia
đình.
Về phía những vị cao niên, họ cũng
rất cần gần gũi với con
cháu. Chính sự hồn nhiên của
tuổi thơ đã mang lại sự ấm áp
và là một liều thuốc để giảm
căng thẳng và xóa phiền muộn. Thử nghĩ chúng ta đang bực bội,
buồn phiền về một chuyện gì
đó, được một đứa cháu
sà vào lòng ông bà, bi bô những
câu ngây thơ, làm những cử chỉ
có thể làm mềm lòng người. Cầm
bàn tay mủm mỉm, hôn
lên mái tóc mịn màng như tơ
óng của đứa cháu rồi thì ông
bà làm sao có thể còn cau có, bực
dọc hay thốt ra những lời giận giỗi
được, và bao nhiêu nỗi buồn phiền
đều được trút nhẹ. Bạn có
để ý là các bà ngày xưa thời
trẻ thường kể chuyện con, bây giờ gặp
bạn bè vẫn thường muốn san sẻ niềm
vui với bạn về những lời nói, cử chỉ
của những đứa cháu của mình. Các ông bà trong tuổi về
già, đi đâu xa thì nhớ cháu chứ
không bao giờ nhớ đến con.
Ngạn ngữ Pháp có câu: “Chỗ ngồi êm ái nhất
của một đứa trẻ là trên
đùi của bà ngoại” (hay bà nội). Vì sao không là mẹ,
không là cha, hay cô dì chú bác. Nhiều
gia đình có ông bà thì những
đứa cháu lại gần gũi
với ông bà hơn. Những
lúc buồn phiền, giận hờn hay khóc
lóc thì bà ngoại là chỗ dựa tin cậy
nhất. Đến đây,
chúng ta lại đi vào chỗ phân biệt giữa
bà ngoại và nội.
Trong cuộc đời thì người
ta thường nói đến bà ngoại mà
ít ai nhắc đến bà nội, vì người
đời phần lớn ai cũng yêu bà ngoại
hơn. Chúng ta
ít khi thấy một bài thơ, một áng
văn hay một bài hát nào ca tụng bà
nội mà chỉ toàn là nói đến
bà ngoại, quê ngoại. Phần
quý bà cũng thường dành tình
thương của mình hầu hết cho những
đứa cháu ngoại, có lẽ vì bà
thương con gái dứt ruột ra hơn là
thương dâu ở đâu đem về.
Đứa cháu thích và gần gũi với
bà ngoại hơn là vì lúc nào mẹ
cũng nhắc đến bà, trang trải tấm
lòng yêu thương bà, chứ không mấy
khi thấy mẹ nhắc đến bà nội, vì : “thương chồng mà
khóc mụ gia (nhạc mẫu), nghĩ tôi với
mụ có bà con chi !” Phần lớn
ông bà thích sống với con gái hơn
là con trai, vui buồn trong gia đình phần lớn
do ở người đàn bà, con gái
đương nhiên phải đậm đà ruột
thịt thân ái hơn nàng dâu. Vả
chăng đàn ông thường không chấp
chuyện nhỏ, sống với rể hẳn phải dễ
chịu hơn là sống trong một gia đình
có sự quán xuyến của một bà dâu !
Ngày xưa khi người con gái lấy chồng
sinh con, thông thường để cho người con
gái về nhà mẹ, vì cảnh làm
dâu không sao êm ấm sung sướng bằng ở
bên mẹ. Bà ngoại thường khổ vì
con, nay lại khuya sớm khổ vì cháu, những
đứa cháu mang họ nội nhưng vất vả
về phía ngoại, đúng là “cháu bên nội, tội
bên ngoại”. Nhiều
bà ngoại nuôi con rồi lại nuôi
cháu, khi con gái dở dang tình duyên, chấp
nhận nuôi cháu cho con đi làm lại cuộc
đời. Hai tiếng “quê ngoại”
dịu dàng, thân yêu biết bao nhiêu.
Nhưng dù ngoại hay nội, điều hạnh
phúc của những đứa trẻ trong tuổi ấu
thơ là có được ông bà.
Ngày nay ở hải ngoại, khi thấy một đứa
trẻ lên ba ngoan ngoãn, nói sành sõi tiếng
Việt, có khi thuộc lòng cả ca dao, biết
hát những bài hát phổ thông, người
ta có thể nghĩ ngay đó là những
đứa trẻ may mắn có được một
bà ngoại hay bà nội cùng sống chung
dưới một mái gia đình. Ở Mỹ, suốt
ngày cha mẹ phải đi làm tất bật, con
cái sau giờ học phải gởi ở lại
trường hoặc phải nhờ người
đưa rước, chăm sóc cho tới lúc
cha mẹ về. Đối với những gia
đình có làm thương mãi, mở
quán xá hay dịch vụ, thì chiều tối
mỗi ngày hay thứ bảy chủ nhật, cha hay mẹ
đều ít có thời gian chăm sóc con
cái, một bà nội hay bà ngoại trong
trường hợp này là một món
quà quý giá trời cho. Việc săn sóc
của nhà giữ trẻ, dù tiện nghi đến
đâu, chuyên viên có thể có đầy
đủ licence đến mấy cũng không đủ
tấm lòng yêu thương che chở của
người bà ngoại hay bà nội trong tổ ấm
gia đình.
Mà không phải cho đến thời nay, trẻ
con mới cần đến bà khi cha mẹ suốt
ngày vất vả theo công việc
sinh nhai. Những người hôm nay đang bước
vào tuổi già, còn nhớ chăng những
câu học thuộc lòng thời sơ học
và những câu ru mà
chúng ta đã thuộc nằm lòng:
“Trưa mùa hè, trời nắng
chang chang, gió im phăng phắc.Trong nhà ngoài
ngõ vắng vẻ tĩnh mịch. Ở một chái
bên, bà ôm cháu vào lòng. Hai
bà cháu nằm trên cái võng,
đưa đi đưa lại, tiếng kêu kẽo
cà kẽo kẹt theo một điệu.
Bà cất tiếng hát, bà ru:
- Cái ngủ mày ngủ cho
lâu,
Mẹ mày đi cấy ruộng
sâu chưa về ...
Cháu nghe êm tai, ra chừng
thiu thiu ngủ, mà bà cũng ra dáng lim dim hai
con mắt:
- Cái ngủ mầy ngủ cho say
Mẹ mày vất vả
chân tay tối ngày.”
HUY PHƯƠNG
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)