Người Về Từ
Đảo Guam
(XUÂN ĐỖ)
*
Tác giả 66 tuổi, cư dân Riverside, hiện
là Guest Teacher cho Colton Joint Unified School District (nam California).
Bài viết về nước Mỹ đầu
tiên của ông kể về số phận nghiệt
ngã của một cựu đaị úy phi
công về từ đảo Guam
và trở thành người bạn đồng
tù với tác giả. Bài viết đặc biệt kể về tấm
gương hy sinh của vợ anh, sự thành đạt
của con gái anh, và sự quảng đại hào hiệp
của chính sách Mỹ dành cho gia
đình người đã từng từ chối
nước Mỹ.
*
Anh H. quê
ngươì Phan Thiết, tuổi chưa đầy ba
mươi khi miền Nam
vào tháng tư đen. Lớn lên như
các thanh niên trong thời chiến, anh chọn nghiệp
bay. Được huấn luyện và check out tại
Mỹ, anh trở thành
phi công khu trục cho Sư đoàn 3 Không
Quân, bản doanh đóng tại Biên Hòa. Vốn
là con một, mẹ anh có phần lo, nhưng
ý con đã quyết nên bà chỉ biết nguyện cầu cho
con được bình yên và cầu mong
quê hương một ngày hết chiến tranh.
Chiến tranh mãi không dứt, mẹ bắt
anh về quê lấy vợ.
Phần anh vốn sống nay chết mai, chẳng muốn ai trở
thành góa phụ . Nhưng vẫn có người
muốn anh làm "khổ",
phần vì mối tình gắn bó từ thuở
học trò, phần
vì hai gia đình cũng đã biết
nhau. Rồi vợ chồng
có một cháu gái. Vợ anh ở với mẹ nuôi
con, anh tiếp tục sống với đơn vị lo
nghề bay bổng. Hai vợ chồng ít có dịp
gặp nhau, nếu có chỉ qua những kỳ
phép ngắn.
Đầu 75, tình hình đất nước
biến chuyển quá nhanh.
Tây Nguyên di tản, Phan Rang thất thủ. Biên gới phía nam,
quê anh trở thành tuyến địa đầu.
Anh vẫn bay, mà còn bay nhiều hơn, vì
tính cách ác liệt của chiến trường,
mấy lần thoát chết trong đường tơ
kẽ tóc vì hỏa tiễn tầm nhiệt của
đối phương.
Phi đoàn cấm trại liên tục, anh chẳng
có dịp về thăm vợ thăm con. Chuyện di
tản, bỏ nước ra đi cũng chẳng hề
vướng mắc trong tâm tư ngươì phi
công trẻ.
Nhưng đêm
29, trong khung cảnh hỗn
loạn của Saigòn thất thủ, sợ cảnh tắm
máu, anh cùng đồng đội cất
cánh từ Tân Sơn Nhất trực chỉ
căn cứ Không
quân của Mỹ
trên đất Thái. Từ đây anh
được bốc thẳng qua đảo Guam.
Ra đi trong sự vội vã, tức tưởi
không một lời từ giã người
thân.
... Tới Guam, biết là thoát chết khi
nhìn lại thân phận mình. Nhưng mẹ, vợ và
con thì giờ đây nghìn trùng xa
cách. Lòng anh ray rứt, lắm lúc muốn
khùng. Biết không còn lựa chọn nào
hơn, anh đành lo thủ tục vào đất
Mỹ. Anh vẫn còn
giữ địa chỉ của một viên cố vấn
cho phi đoàn tên John K.
John là ngươì có tình, và
là đồng minh đáng tin cậy. Anh ta cho H. cái địa
chỉ chẳng phải để một ngày nào
đó sử dụng trong hoàn cảnh éo le
này, mà là một cử chỉ hiếu
khách của người Mỹ muốn H. thăm gia
đình John nếu có dịp nào đi
chuyên tu tại Mỹ.
Nhận được tin tức của H. qua giới
chức Mỹ phụ trách di tản tại Guam, bằng
một thái độ sốt sắng, John bảo
lãnh ngay cho H. vào đất Mỹ. Về định cư tai một
thị trấn nhỏ thuộc bang Montana, một vùng
đất chăn nuôi và có xưởng sản
xuất thịt bò, John xin cho H. một chân
vác và xẻ thịt, lương khoảng 8
đô một giờ.
Ngày đi làm, đêm về một
mình thui thủi trong căn apartment gần xưởng. Lòng buồn rười rượi,
hình ảnh mang nhiều trăn trở vẫn là
mẹ, vợ, con. Thực sự những năm tháng
chiến tranh, anh chẳng có nhiều thời gian để
nghĩ đến vợ con, nếu có thì cũng
chỉ là những khoảnh khắc ít ỏi. Đôi lúc có nghĩ
đến ông cậu tập kết ra miền Bắc,
một hình ảnh đuợc mẹ nhắc nhiều
lúc tuổi thơ. Có điều lạ
là từ nay, nỗi
ám ảnh về chiến tranh và niềm đam
mê bay bổng một
thời dường như đã khép lại
..
Tình cờ đọc trên tuần báo
TIME, thấy hình tướng Đảo (Lê Minh Đảo,
Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh) mặc
thường phục đi trên đường Catinat,
với lời chú giải như một con
ngươì được tự do đi lại sau
75. Bài viết của
ký giả Mỹ thường trú tại Bangkok còn cho biết
thêm về số phận các quân nhân,
công nhân viên chế độ cũ là
các Hạ sĩ quan học tập 7 ngày
đã xong. Các Sĩ
quan cấp úy (10 ngày), Sĩ quan cấp tá (1
tháng) đang chuẩn bị trình diện học
tập. Học xong họ
cũng được quay về sinh sống làm
ăn. Chính sách
khoan hồng của Mặt Trận Giải Phóng
là trước sau như một, chuyện tắm
máu như Kampuchia là không hề có.
Viên ký giả Mỹ túng tin như vớ
được của, đăng nguyên văn những
gì mấy ông cộng sản cần nói.
Nhưng sức thuyết phục của bài báo lại
làm cho H. băn khoăn.
Tâm tư anh như ngọn gió muốn đổi
chiều. Một câu hỏi tự phát trong tiềm
thức "tại sao ta
không về ?" Thương cho mẹ già
chưa một lần báo hiếu. Sống làm
gì khi "vĩnh viễn" xa vợ xa con. Chưa
nói đến quê hương, dòng sông,
đụn cát .. ký ức tuôỉ thơ sống
lại trong anh. Sau nhiều
đêm trăn trở, anh quyết định tìm
cách trở về.
Nơi đất lạ xứ người, không
còn ai thân thiết ngoài John. Anh gọi ngay cho John và bộc
bạch ý nguyện của mình. Sau phút kinh ngạc, John
khuyên anh suy nghĩ lại.
Mặt khác, các giới chức Mỹ
đang bận lo cho người mơí "đến",
hơi đâu lo cho kẻ đòi "về".
Nhưng vì thương bạn, lại có sự
đồng cảm về mối liên hệ gia
đình sâu đậm theo truyền thống
văn hóa Việt mà John có dịp giao lưu
qua chuyến phục vụ tại Việt nam, John mầy
mò thế nào rồi cũng kiếm được
một cơ quan thiện nguyện chuyên lo vụ
"trở về xứ cũ" (repatriation).
Trùng hợp vào thời điểm
này, một số ngươì di tản hiện
đang ở Guam vì hốt hoảng
tháo chạy, nay hoàn hồn nhớ lại người
thân kẹt lại, cũng cha, mẹ, vợ, con như
H .. Họ tranh đấu đòi về. Nước Mỹ vốn
là xứ tự do, người Mỹ vốn có
truyền thống nhân đạo, nên khuyên
mãi chẳng được, họ đành sắp
xếp cho một chuyến tàu để đưa
các ngươì Việt muốn quay về.
Con tàu "Việt Nam Thương Tín"
dùng để chở người di tản tới Guam hồi cuối tháng 4, nay
được đại tu chuẩn bị cho chuyến khứ
hồi xuyên đại dương đầu tháng 8. Anh H. được cơ quan
thiện nguyện cho "ráp" vào chuyến hải
hành này. Anh
là ngươì duy nhất từ đất liền
ra lại đảo và từ đảo lên
tàu quay về cố hương.
Cũng cần nói thêm hành trang trở về
từ quần áo, thuốc men, lương thực, thực
phẩm đến việc chọn lựa thủy thủ
đoàn, diễn tập qui trình an ninh xuyên
đại dương v.v.. đã được
các giới chức Mỹ trên đảo cùng
các cơ quan thiện nguyện chuẩn bị
khá chu đáo nhằm đảm bảo là
các ngươì hồi hương được
an toàn tối đa.
Lênh đênh gần một tháng xuyên
Thái Bình Dương, tàu cặp bến Nha
Trang vào một sáng trời quang mây tạnh.
Tuy nhiên, không khí trên cảng có vẻ
căng thẳng, không hồ hởi như mọi
người mong đợi.
Các hành khách chuẩn bị rời
tàu để làm thủ tục hải quan. Phụ nữ, trẻ em xếp
hàng một bên; đàn ông, thanh niên một
bên; hành lý có người phụ
trách. Xong phần thủ tục kéo
dài nhiều giờ, anh H. và đoàn người
thuộc diện quân nhân, viên chức chế
độ cũ, kể cả viên hạm trưởng
HQ trung tá lái tàu về, được
các công an chức năng "tặng"
vòng số 8, lên xe bít bùng trực chỉ
hướng Đèo Cả. Sau này mới biết
đó là một trại giam tù hình sự
thuộc tỉnh Tuy Hòa.
Dù cách
dàn chào có phần cay đắng, nặng
tính hình sự, nhưng anh vẫn không tủi
cho thân anh, mà anh tiếc chiếc cà rá
đã mua cho vợ bằng số tiền dành dụm trong mấy
tháng làm ở xưởng thịt. Kỷ vật nhỏ bé
này trở thành "tang vật" bị tịch
thu ngay khi lên bờ.
Nay bước chân vào trại, anh coi
mình là kẻ thua cuộc, nhưng vẫn chưa
chịu bỏ cuộc.
Con người tuy có dáng vẻ hào hoa,
dễ mến nhưng lại
ẩn chứa một tính cách gan lì, nhẫn
nại, không chịu khuất phục. Bề
ngoài thuần phục
theo nội qui bảo gì làm nấy, nhưng
bên trong đang thai nghén một ý đồ
khá táo bạo ... trốn trại ! Vì có
thể lực khỏe, trẻ, lại biết cách
mưu sinh thoát hiểm (đã được dạy
khi phải bung dù trong vùng địch), anh liều
chọn con đường tắt về gặp vợ, gặp
con bằng một ý thức tuy nông cạn,
nhưng với ý chí không gì ngăn cản
nổi.
Chẳng đoán thì cũng hiểu là
ý đồ thất bại sau hai ngày hai
đêm. Bị giải
về trại, biệt giam mấy tuần, lại còn
bị gán cho cái tên "giặc lái ngoan
cố". Ba tháng sau, để chặt đường
trốn chạy, anh được chuyển ra Bắc về
"sinh hoạt" vơí đám tù
chúng tôi tại trại Nam Hà. Điều nực cười là chúng tôi vì bị
"kẹt" mới chịu cảnh chim vào lồng
biết thuở nào ra, còn anh là chim
đã bay đi, nay về tổ "mẹ", mẹ
không cho bú mẹ còn .. bắt giam. Nên từ đó
nhóm bạn đồng tù mới đặt cho
anh cái tên thân thương "Người về từ
đảo Guam", nhái theo
cái tựa phim "Người về từ đỉnh
nuí" rất ăn khách trước 75. Ấy vậy
mà cũng có mấy ông Sĩ quan già gốc
di cư lại gọi anh "thằng ngu nhất hành
tinh". Gọi gì thì gọi, anh chỉ cười,
vì vốn dĩ anh là người dễ tin
vì đảng ta cũng hay nói giống các cụ
nói "đánh kẻ
chạy đi, chứ ai đánh kẻ chạy lại"
!
Ra Bắc tuy có lý lịch đen vì trốn
traị, nhưng nhờ
được ông cậu bảo lãnh,
nên H. thuờng được giao các chân
"tự giác" tương đối dễ thở. Chả là
sau chiến tranh, ông cậu về làm bí
thư huyện ủy một huyện quê anh. Ít
lâu sau vì lớn tuổi, sức khoẻ yếu,
ông nghỉ hưu. Rất
tiếc quá trình chiến đấu và
thâm niên trong Đảng không cứu được thằng cháu khỏi cảnh
tù tội vì đảng nghi cháu ông
được CIA "gài" cho về Việt nam chờ
thời hoạt động.
Ông không trách đảng vì ông
hiểu qui luật sống còn của
ngươì cộng sản là "bắt lầm còn hơn bỏ
sót", thậm
chí cảnh giác với cả chính đồng
chí của mình. Nhưng ông đồng cảm
với tâm trạng cháu ông, nó về lại
quê hương động cơ thúc đẩy cũng
chỉ vì nhớ vợ nhớ con. Ngay như ông, dù
thoát ly đi theo lý tưởng, nhưng sau 2
năm ra Bắc, mắc kẹt không được về
Nam, nỗi nhớ mong đã gậm nhấm tim ông
suốt .. 20 năm.
Có điều khổ tâm vì không gỡ
được chuyện thằng cháu, nên bà
chị yêu quí có phần trách móc, lạnh
nhạt với ông (dù chính ông đã
làm giấy bảo lãnh cho cháu, mà
tác hại của mối quan hệ này có
làm "hoen ố" lý lịch trong sáng của
cả đời ông).
Chuyện 12 năm sau ...
Thời thế đã xoay vần, chính sách
có đổi thay, chúng tôi và cháu
ông cũng có ngày về. Xuống ga Phan Thiết,
anh về gặp lại vợ con. Kiểm lại
ngươì thân: mẹ còn nhưng cậu mất,
vợ còn chung thủy, con đã lớn khôn.
Cảnh nhà
xác xơ, hiu quạnh
vì lâu ngày không có bóng dáng
đàn ông. Ở
nhà với vợ qua đêm, ngay sáng
hôm sau, được phép của công an
xã, anh đạp xe về thăm mẹ cách
đó 15 cây số. Mấy chục năm mới
đạp lại chiếc xe cũ, thong dong trên
đường quê quen thuộc, được
hít thở không khí đồng nội, anh cảm
thấy nhẹ nhõm và thấy quí cái
giá của hạnh phúc. Nhưng họa vô
đơn chí, số phận nghiệt ngã dường
như vẫn rình rập bước chân anh.
Ngay chiều hôm đó, chị X., vợ anh
được cấp báo lên gấp bệnh viện
huyện. Tới nơi,
được mấy ngươì kể lại chiếc xe đạp của
anh H. bị gãy ghi đông làm anh té sấp
xuống chỗ hố nông cạnh Đồng Ông
Tộ (chỗ lở sụp này hay xảy ra tai nạn,
nhưng giao thông xã chưa kịp vá).
Máu ra nhiều ở chân, xem ra không nguy hiểm,
nhưng có điều anh bất tỉnh. Sau này khi đưa
lên tỉnh, mới vỡ lẽ là anh bị
gãy cổ. Các y tá dưới thôn khi cấp
cứu chỉ lo băng bó vết thương ở
chân, không hề để ý chỗ chấn
thương nặng là trung tâm thần kinh sau
gáy.
Anh H. được chuyển về bệnh viện
Chợ Rẫy (Saigòn) trong tình trạng bị liệt
tứ thân. Dù có sự tận tình của
bác sĩ, y tá, nhưng việc phục hồi chức
năng của trung tâm cột sống hầu như
vô phương. Bệnh
viện khuyên chị H. đưa anh trở lại
quê. Ít lâu sau chuyện gì tới nó
phải tới, anh trở về lòng đất mẹ.
Bẵng đi cả mươì
năm ..
Một hôm tôi nhận được cú
điện thoại từ Bắc Cali. Đầu giây
bên kia là một giọng nữ ngươì
miền nam Trung bộ.
"Cho em xin gặp anh
T."
"Tôi
đây, xin lỗi ai đầu dây ?"
"Em là Kim X., vợ
của anh H. đây. Anh có nhận ra em không ?
(cô không dè qua điện thoại làm sao
nhận được). Cô nói tiếp:
"Em vẫn biết
ơn anh chị thương tụi em nhiều lúc anh
H. nằm ở Chợ Rẫy.
Sang đây mãi không liên lạc
được, nay anh G. mới cho số của anh."
(G. bạn thân của H., cùng trại với
tôi)
Qua câu chuyện
được biết anh H. mặc dầu không chết
trong traị, nhưng vì tù đã trên 12
năm, các giới chức Mỹ ở Bangkok vẫn
xét cho mẹ con cô được định
cư tại Mỹ theo diện nhân đạo H.O..
Có điều lạ là qua cuộc phỏng vấn
họ không hề đả động gì đến
chuyện anh bỏ Mỹ về lại Việt nam hồi
75. Điều này đánh tan mối quan ngại của
mẹ con cô trước khi đi phỏng vấn
vì tin đồn Mỹ không nhận lại những
người đã theo tàu Việt Nam Thương
Tín về từ đảo Guam.
Sang tới Mỹ,
được các bạn tù thân thiết
giúp đỡ, đùm bọc nên chị
và cháu gái như có chỗ dựa tinh thần. Hết trợ cấp, chị
cũng bươn chải làm đủ nghề: may
khoán, trông con nít, làm thợ assembly .. vừa
lo cho con để nó tập trung vào việc học. Cháu gái đã
khôn trước tuổi, biết thương mẹ,
hiểu hoàn cảnh của cha, quyết chí
làm vui lòng mẹ.
Cháu đã xong bằng B.S. về môn
Hóa và được nhận vào khoa Dược
của Đại học Nebraska. Còn một năm nữa
sẽ ra trường và quay lại với mẹ ở
Cali.
Nghe lời cô kể
cứ như là chuyện thần tiên, nhưng ở
Mỹ những gương thành đạt vì
có chí không phải là hiếm. Cuối cuộc
điện đàm, thấy cô vui, tự nhiên
như một người anh, tôi bỗng hỏi
cô về chuyện riêng tư.
"Sao, chuyện
riêng tư của cô X. có gì thay đổi
không ? Tôi muốn nói thế nào chẳng
có người làm phiền ?"
Cô cười qua
điện thoaị, giọng cười rất hồn
nhiên của một góa phụ như biết
mình còn nhan sắc nhưng thỏa lòng
không muốn đi bước nữa. Cô trả lời
tôi:
"Em
"già" rồi anh ơi ! Em làm phiền
người ta thì có.
Thưa thiệt với anh, thấy anh H. thương
em quá, nên tim em không để ai chen vô
được nữa. Anh nhớ anh K. Không ? cả anh
B. nữa. (hai người này bạn của H., một
còn độc thân lúc ra trại, một vợ
bỏ khi cô vợ vượt biên qua Mỹ trước).
Nói cho ngay, mải lo cho cháu, em không còn
thì giờ để nghĩ đến ai .. (lại
cười) .. Hay anh chị làm mai cho em đi !"
Tôi biết câu
nói vuốt chỉ là câu nói vui. Tôi nhắc lại hồi
đó H. đâu muốn làm khổ ai, tại
cô tình nguyện chịu "khổ" thì
bây giờ ráng chịu. (lại có tiếng
cười đầu giây bên kia)
Kết thúc
câu chuyện điện thoạiị, vợ chồng
tôi cảm thấy mừng vì ở chị H.
như đã có sự thay đổi lạ kỳ. Nhớ lại hồi H. nằm
ở nhà thương Chợ Rẫy, tụi tôi
có dịp vô thăm thường xuyên và
có một ấn tượng khá sâu sắc về
người vợ trẻ của anh. Khác với những
người vợ, người yêu của các phi
công thường đậm nét sắc sảo, pha
chút tinh nghịch, lãng mạn của các
cô gái thành phố; người thiếu phụ
này có khuôn mặt dù không trang điểm,
lại trải qua những năm tháng đợi chờ,
nhưng vẫn đẹp
thùy mị, vừa mang tính chân chất của
một cô gái miền cát trắng, lại vừa
kín đáo trong ánh mắt ẩn buồn ,
âm thầm chấp nhận những ngang trái đổ
xuống đời mình.
Nhưng quả Trời
không để ai phải chịu đựng quá sức.
Thời gian như một liều thuốc chữa
lành các vết thương lòng và
bôi xóa đi các nghịch cảnh của cuộc
sống. Tôi như
hình dung được gương mặt hồi sinh
của chị, ngươì đàn bà sinh ra
để làm vợ, luôn sống có thủy,
có chung, biết trân quý các mối quan hệ
và giúp đỡ của bạn bè và
đặc biệt biết ơn về lòng nhân
đạo, tính bao dung của người Mỹ, trong
đó anh John có thể coi như biểu tượng.
XUÂN ĐỖ
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)