SU'U TÂ`M 5

Home | VA(N | VA(N (tt) | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | VA(N 16 | VA(N 17 | TA.P GHI | TA.P GHI (tt) | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | VA(N VUI | VA(N VUI (tt) | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T (tt) | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | CHUYÊ.N LA. KHÓ TIN | CU'̉'I CHÚT CHO'I | SU'U TÂ`M .. tho*

VA(N 6

Ngươì Về Từ Đảo Guam

 

Người Về Từ Đảo Guam

(XUÂN ĐỖ)

 

*

Tác giả 66 tuổi, cư dân Riverside, hiện là Guest Teacher cho Colton Joint Unified School District (nam California). Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông kể về số phận nghiệt ngã của  một  cựu đaị úy phi công về từ đảo Guam và trở thành người bạn đồng tù với tác giả. Bài viết  đặc biệt  kể về tấm gương hy sinh của vợ anh, sự thành đạt của con gái anh, và sự  quảng đại hào hiệp của chính sách Mỹ dành cho gia đình người đã từng từ chối nước Mỹ.

 

*

 Anh H. quê ngươì Phan Thiết, tuổi chưa đầy ba mươi khi miền Nam vào tháng tư đen. Lớn lên như các thanh niên trong thời chiến, anh chọn nghiệp bay. Được huấn luyện và check out tại Mỹ, anh trở thành  phi công khu trục cho Sư đoàn 3 Không Quân, bản doanh đóng tại Biên Hòa. Vốn là con một, mẹ anh có phần lo, nhưng ý con đã quyết nên bà chỉ  biết nguyện cầu cho con được bình yên và cầu mong quê hương một ngày hết chiến tranh.

 

Chiến tranh mãi không dứt, mẹ bắt anh về quê lấy vợ.  Phần anh vốn sống nay chết mai,  chẳng muốn ai trở thành góa phụ . Nhưng vẫn có người muốn  anh làm "khổ", phần vì mối tình gắn bó từ thuở học trò,  phần vì hai gia đình cũng đã biết nhau.  Rồi vợ chồng có một cháu gái.  Vợ anh  ở với mẹ nuôi con, anh tiếp tục sống với đơn vị lo nghề bay bổng. Hai vợ chồng ít có dịp gặp nhau, nếu có chỉ qua những kỳ phép ngắn.

 

Đầu 75, tình hình đất nước biến chuyển quá nhanh.  Tây Nguyên di tản, Phan Rang thất thủ.  Biên gới phía nam, quê anh trở thành tuyến địa đầu. Anh vẫn bay, mà còn bay nhiều hơn, vì tính cách ác liệt của chiến trường, mấy lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc vì hỏa tiễn tầm nhiệt của đối phương.  Phi đoàn cấm trại liên tục, anh chẳng có dịp về thăm vợ thăm con. Chuyện di tản, bỏ nước ra đi cũng chẳng hề vướng mắc trong tâm tư ngươì phi công trẻ.

 

 Nhưng đêm 29, trong khung cảnh  hỗn loạn của Saigòn thất thủ, sợ cảnh tắm máu, anh cùng đồng đội cất cánh từ Tân Sơn Nhất trực chỉ căn cứ Không  quân của Mỹ  trên đất Thái. Từ đây anh được bốc thẳng qua đảo Guam. Ra đi trong sự vội vã, tức tưởi không một lời từ giã người thân.

 

... Tới Guam, biết là thoát chết khi nhìn lại thân phận mình.  Nhưng mẹ, vợ và con thì giờ đây nghìn trùng xa cách. Lòng anh ray rứt, lắm lúc muốn khùng. Biết không còn lựa chọn nào hơn, anh đành lo thủ tục vào đất Mỹ.  Anh vẫn còn giữ địa chỉ của một viên cố vấn cho phi đoàn tên John K.  John là ngươì có tình, và là đồng minh đáng tin cậy.  Anh ta cho H. cái địa chỉ chẳng phải để một ngày nào đó sử dụng trong hoàn cảnh éo le này, mà là một cử chỉ hiếu khách của người Mỹ muốn H. thăm gia đình John nếu có dịp nào đi chuyên tu tại Mỹ.

 

Nhận được tin tức của H. qua giới chức Mỹ phụ trách di tản tại Guam, bằng một thái độ sốt sắng, John bảo lãnh ngay cho H. vào đất Mỹ.  Về định cư tai một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana, một vùng đất chăn nuôi và có xưởng sản xuất thịt bò, John xin cho H. một chân vác và xẻ thịt, lương khoảng 8 đô một giờ.

 

Ngày đi làm, đêm về một mình thui thủi trong căn apartment gần xưởng.  Lòng  buồn rười rượi, hình ảnh mang nhiều trăn trở vẫn là mẹ, vợ, con. Thực sự những năm tháng chiến tranh, anh chẳng có nhiều thời gian để nghĩ đến vợ con, nếu có thì cũng chỉ là những khoảnh khắc ít ỏi.  Đôi lúc có nghĩ đến ông cậu tập kết ra miền Bắc, một hình ảnh đuợc mẹ nhắc nhiều lúc tuổi thơ. Có điều lạ là  từ nay, nỗi ám ảnh về chiến tranh và niềm đam mê bay bổng  một thời dường như đã khép lại .. 

 

Tình cờ đọc trên tuần báo TIME, thấy hình tướng Đảo (Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh) mặc thường phục đi trên đường Catinat, với lời chú giải như một con ngươì được tự do đi lại sau 75.  Bài viết của ký giả Mỹ thường trú tại Bangkok còn cho biết thêm về số phận các quân nhân, công nhân viên chế độ cũ là các Hạ sĩ quan học tập 7 ngày đã xong.  Các Sĩ quan cấp úy (10 ngày), Sĩ quan cấp tá (1 tháng) đang chuẩn bị trình diện học tập.  Học xong họ cũng được quay về sinh sống làm ăn.  Chính sách khoan hồng của Mặt Trận Giải Phóng là trước sau như một, chuyện tắm máu như Kampuchia là không hề có.

 

Viên ký giả Mỹ túng tin như vớ được của, đăng nguyên văn những gì mấy ông cộng sản cần nói. Nhưng sức thuyết phục của bài báo lại làm cho H. băn khoăn.  Tâm tư anh như ngọn gió muốn đổi chiều. Một câu hỏi tự phát trong tiềm thức "tại sao ta không về ?"  Thương cho mẹ già chưa một lần báo hiếu. Sống làm gì khi "vĩnh viễn" xa vợ xa con. Chưa nói đến quê hương, dòng sông, đụn cát .. ký ức tuôỉ thơ sống lại trong anh.  Sau nhiều đêm trăn trở, anh quyết định tìm cách trở về.

 

Nơi đất lạ xứ người, không còn ai thân thiết ngoài John.  Anh gọi ngay cho John và bộc bạch ý nguyện của mình.  Sau phút kinh ngạc, John khuyên anh suy nghĩ lại.  Mặt khác, các giới chức Mỹ đang bận lo cho người mơí "đến", hơi đâu lo cho kẻ đòi "về". Nhưng vì thương bạn, lại có sự đồng cảm về mối liên hệ gia đình sâu đậm theo truyền thống văn hóa Việt mà John có dịp giao lưu qua chuyến phục vụ tại Việt nam, John mầy mò thế nào rồi cũng kiếm được một cơ quan thiện nguyện chuyên lo vụ "trở về xứ cũ" (repatriation).

 

Trùng hợp vào thời điểm này, một số ngươì di tản hiện đang ở Guam vì hốt hoảng tháo chạy, nay hoàn hồn nhớ lại người thân kẹt lại, cũng cha, mẹ, vợ, con như H .. Họ tranh đấu đòi về.  Nước Mỹ vốn là xứ tự do, người Mỹ vốn có truyền thống nhân đạo, nên khuyên mãi chẳng được, họ đành sắp xếp cho một chuyến tàu để đưa các ngươì Việt muốn quay về. 

 

Con tàu "Việt Nam Thương Tín" dùng để chở người di tản tới Guam hồi cuối tháng 4, nay được đại tu chuẩn bị cho chuyến khứ hồi xuyên đại dương  đầu tháng 8.  Anh H. được cơ quan thiện nguyện cho "ráp" vào chuyến hải hành này.  Anh là ngươì duy nhất từ đất liền ra lại đảo và từ đảo lên tàu quay về cố hương. 

 

Cũng cần nói thêm hành trang trở về từ quần áo, thuốc men, lương thực, thực phẩm đến việc chọn lựa thủy thủ đoàn, diễn tập qui trình an ninh xuyên đại dương v.v.. đã được các giới chức Mỹ trên đảo cùng các cơ quan thiện nguyện chuẩn bị khá chu đáo nhằm đảm bảo là các ngươì hồi hương được an toàn tối đa.

 

Lênh đênh gần một tháng xuyên Thái Bình Dương, tàu cặp bến Nha Trang vào một sáng trời quang mây tạnh. Tuy nhiên, không khí trên cảng có vẻ căng thẳng, không hồ hởi như mọi người mong đợi.  Các hành khách chuẩn bị rời tàu để làm thủ tục hải quan.  Phụ nữ, trẻ em xếp hàng một bên; đàn ông, thanh niên một bên; hành lý có người phụ trách.  Xong phần  thủ tục kéo dài nhiều giờ, anh H. và đoàn người thuộc diện quân nhân, viên chức chế độ cũ, kể cả viên hạm trưởng HQ trung tá lái tàu về, được các công an chức năng "tặng" vòng số 8, lên xe bít bùng trực chỉ hướng Đèo Cả. Sau này mới biết đó là một trại giam tù hình sự thuộc tỉnh Tuy Hòa.

 

Dù cách  dàn chào có phần cay đắng, nặng tính hình sự, nhưng anh vẫn không tủi cho thân anh, mà anh tiếc chiếc cà rá đã mua cho vợ bằng số tiền  dành dụm trong mấy tháng làm ở xưởng thịt.  Kỷ vật nhỏ bé này trở thành "tang vật" bị tịch thu ngay khi lên bờ.  Nay bước chân vào trại, anh coi mình là kẻ thua cuộc, nhưng vẫn chưa chịu bỏ cuộc. 

 

Con người tuy có dáng vẻ hào hoa, dễ mến  nhưng lại ẩn chứa một tính cách gan lì, nhẫn nại, không chịu khuất phục. Bề ngoài  thuần phục theo nội qui bảo gì làm nấy, nhưng bên trong đang thai nghén một ý đồ khá táo bạo ... trốn trại ! Vì có thể lực khỏe, trẻ, lại biết cách mưu sinh thoát hiểm (đã được dạy khi phải bung dù trong vùng địch), anh liều chọn con đường tắt về gặp vợ, gặp con bằng một ý thức tuy nông cạn, nhưng với ý chí không gì ngăn cản nổi.

 

Chẳng đoán thì cũng hiểu là ý đồ thất bại sau hai ngày hai đêm.  Bị giải về trại, biệt giam mấy tuần, lại còn bị gán cho cái tên "giặc lái ngoan cố". Ba tháng sau, để chặt đường trốn chạy, anh được chuyển ra Bắc về "sinh hoạt" vơí đám tù chúng tôi tại trại Nam Hà.  Điều  nực cười là  chúng tôi vì bị "kẹt" mới chịu cảnh chim vào lồng biết thuở nào ra, còn anh là chim đã bay đi, nay về tổ "mẹ", mẹ không cho bú mẹ còn .. bắt giam.  Nên từ đó nhóm bạn đồng tù mới đặt cho anh cái tên thân thương  "Người về từ đảo Guam", nhái theo cái tựa phim "Người về từ đỉnh nuí" rất ăn khách trước 75. Ấy vậy mà cũng có mấy ông Sĩ quan già gốc di cư lại gọi anh "thằng ngu nhất hành tinh". Gọi gì thì gọi, anh chỉ cười, vì vốn dĩ anh là người dễ tin vì đảng ta cũng hay nói giống các cụ nói "đánh kẻ chạy đi, chứ ai đánh kẻ chạy lại" !

 

Ra Bắc tuy có lý lịch đen vì trốn traị, nhưng nhờ  được ông cậu bảo lãnh, nên H. thuờng được giao các chân "tự giác" tương đối  dễ thở. Chả là sau chiến tranh, ông cậu về làm bí thư huyện ủy một huyện quê anh. Ít lâu sau vì lớn tuổi, sức khoẻ yếu, ông nghỉ hưu.  Rất tiếc quá trình chiến đấu và thâm niên trong Đảng không cứu được  thằng cháu khỏi cảnh tù tội vì đảng nghi cháu ông được CIA "gài" cho về Việt nam chờ thời hoạt động.

 

Ông không trách đảng vì ông hiểu qui luật sống còn của ngươì cộng sản là "bắt lầm còn hơn bỏ sót", thậm chí cảnh giác với cả chính đồng chí của mình. Nhưng ông đồng cảm với tâm trạng cháu ông, nó về lại quê hương động cơ thúc đẩy cũng chỉ vì nhớ vợ nhớ con.  Ngay như ông, dù thoát ly đi theo lý tưởng, nhưng sau 2 năm ra Bắc, mắc kẹt không được về Nam, nỗi nhớ mong đã gậm nhấm tim ông suốt .. 20 năm.  Có điều khổ tâm vì không gỡ được chuyện thằng cháu, nên bà chị yêu quí có phần trách móc, lạnh nhạt với ông (dù chính ông đã làm giấy bảo lãnh cho cháu, mà tác hại của mối quan hệ này có làm "hoen ố" lý lịch trong sáng của cả đời ông).

 

Chuyện 12 năm sau ...

 

Thời thế đã  xoay vần, chính sách có đổi thay, chúng tôi và cháu ông cũng có ngày về. Xuống ga Phan Thiết, anh về gặp lại vợ con. Kiểm lại ngươì thân: mẹ còn nhưng cậu mất, vợ còn chung thủy, con đã lớn khôn. Cảnh nhà  xác  xơ, hiu quạnh vì lâu ngày không có bóng dáng đàn ông. Ở  nhà với vợ qua đêm, ngay sáng hôm sau, được phép của công an xã, anh đạp xe về thăm mẹ cách đó 15 cây số. Mấy chục năm mới đạp lại chiếc xe cũ, thong dong trên đường quê quen thuộc, được hít thở không khí đồng nội, anh cảm thấy nhẹ nhõm và thấy quí cái giá của hạnh phúc. Nhưng họa vô đơn chí, số phận nghiệt ngã dường như vẫn rình rập bước chân anh.

 

Ngay chiều hôm đó, chị X., vợ anh được cấp báo lên gấp bệnh viện huyện.  Tới nơi, được mấy ngươì kể lại  chiếc xe đạp của anh H. bị gãy ghi đông làm anh té sấp xuống chỗ hố nông cạnh Đồng Ông Tộ (chỗ lở sụp này hay xảy ra tai nạn, nhưng giao thông xã chưa kịp vá). Máu ra nhiều ở chân, xem ra không nguy hiểm, nhưng có điều anh bất tỉnh.  Sau này khi đưa lên tỉnh, mới vỡ lẽ là anh bị gãy cổ. Các y tá dưới thôn khi cấp cứu chỉ lo băng bó vết thương ở chân, không hề để ý chỗ chấn thương nặng là trung tâm thần kinh sau gáy.

 

Anh H. được chuyển về bệnh viện Chợ Rẫy (Saigòn) trong tình trạng bị liệt tứ thân. Dù có sự tận tình của bác sĩ, y tá, nhưng việc phục hồi chức năng của trung tâm cột sống hầu như vô phương.  Bệnh viện khuyên chị H. đưa anh trở lại quê. Ít lâu sau chuyện gì tới nó phải tới, anh trở về lòng đất mẹ.

 

Bẵng đi cả mươì năm ..

 

Một hôm tôi nhận được cú điện thoại từ Bắc Cali. Đầu giây bên kia là một giọng nữ ngươì miền nam Trung bộ.

"Cho em xin gặp anh T."

"Tôi đây, xin lỗi ai đầu dây ?"

"Em là Kim X., vợ của anh H. đây. Anh có nhận ra em không ? (cô không dè qua điện thoại làm sao nhận được). Cô nói tiếp:

"Em vẫn biết ơn anh chị thương tụi em nhiều lúc anh H. nằm ở Chợ Rẫy.  Sang đây mãi không liên lạc được, nay anh G. mới cho số của anh." (G. bạn thân của H., cùng trại với tôi)

 

Qua câu chuyện được biết anh H. mặc dầu không chết trong traị, nhưng vì tù đã trên 12 năm, các giới chức Mỹ ở Bangkok vẫn xét cho mẹ con cô được định cư tại Mỹ theo diện nhân đạo H.O.. Có điều lạ là qua cuộc phỏng vấn họ không hề đả động gì đến chuyện anh bỏ Mỹ về lại Việt nam hồi 75. Điều này đánh tan mối quan ngại của mẹ con cô trước khi đi phỏng vấn vì tin đồn Mỹ không nhận lại những người đã theo tàu Việt Nam Thương Tín về từ đảo Guam.

 

Sang tới Mỹ, được các bạn tù thân thiết giúp đỡ, đùm bọc nên chị và cháu gái như có chỗ dựa tinh thần.  Hết trợ cấp, chị cũng bươn chải làm đủ nghề: may khoán, trông con nít, làm thợ assembly .. vừa lo cho con để nó tập trung vào việc học.  Cháu gái đã khôn trước tuổi, biết thương mẹ, hiểu hoàn cảnh của cha, quyết chí làm vui lòng mẹ.  Cháu đã xong bằng B.S. về môn Hóa và được nhận vào khoa Dược của Đại học Nebraska. Còn một năm nữa sẽ ra trường và quay lại với mẹ ở Cali.

 

Nghe lời cô kể cứ như là chuyện thần tiên, nhưng ở Mỹ những gương thành đạt vì có chí không phải là hiếm. Cuối cuộc điện đàm, thấy cô vui, tự nhiên như một người anh, tôi bỗng hỏi cô về chuyện riêng tư.

"Sao, chuyện riêng tư của cô X. có gì thay đổi không ? Tôi muốn nói thế nào chẳng có người làm phiền ?"

Cô cười qua điện thoaị, giọng cười rất hồn nhiên của một góa phụ như biết mình còn nhan sắc nhưng thỏa lòng không muốn đi bước nữa. Cô trả lời tôi:

"Em "già" rồi anh ơi ! Em làm phiền người ta thì có.  Thưa thiệt với anh, thấy anh H. thương em quá, nên tim em không để ai chen vô được nữa. Anh nhớ anh K. Không ? cả anh B. nữa. (hai người này bạn của H., một còn độc thân lúc ra trại, một vợ bỏ khi cô vợ vượt biên qua Mỹ trước). Nói cho ngay, mải lo cho cháu, em không còn thì giờ để nghĩ đến ai .. (lại cười) .. Hay anh chị làm mai cho em đi !"

 

Tôi biết câu nói vuốt chỉ là câu nói vui.  Tôi nhắc lại hồi đó H. đâu muốn làm khổ ai, tại cô tình nguyện chịu "khổ" thì bây giờ ráng chịu. (lại có tiếng cười đầu giây bên kia)

 

Kết thúc câu chuyện điện thoạiị, vợ chồng tôi cảm thấy mừng vì ở chị H. như đã có sự thay đổi lạ kỳ.  Nhớ lại hồi H. nằm ở nhà thương Chợ Rẫy, tụi tôi có dịp vô thăm thường xuyên và có một ấn tượng khá sâu sắc về người vợ trẻ của anh.  Khác với những người vợ, người yêu của các phi công thường đậm nét sắc sảo, pha chút tinh nghịch, lãng mạn của các cô gái thành phố; người thiếu phụ này có khuôn mặt dù không trang điểm, lại trải qua những năm tháng đợi chờ, nhưng vẫn  đẹp thùy mị, vừa mang tính chân chất của một cô gái miền cát trắng, lại vừa kín đáo trong ánh mắt ẩn buồn , âm thầm chấp nhận những ngang trái đổ xuống đời mình.

 

Nhưng quả Trời không để ai phải chịu đựng quá sức. Thời gian như một liều thuốc chữa lành các vết thương lòng và bôi xóa đi các nghịch cảnh của cuộc sống.  Tôi như hình dung được gương mặt hồi sinh của chị, ngươì đàn bà sinh ra để làm vợ, luôn sống có thủy, có chung, biết trân quý các mối quan hệ và giúp đỡ của bạn bè và đặc biệt biết ơn về lòng nhân đạo, tính bao dung của người Mỹ, trong đó anh John có thể coi như biểu tượng. 

 

 

XUÂN ĐỖ

(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)

 

website counter