Mài Dao Mài
Kéo
(Tiểu Tử)
Nói đến “mài dao mài
kéo", ở Việt Nam hồi xưa, hồi
thời Pháp thuộc, người ta nghĩ ngay đến
giới “anh chị” - hạng xâm mình ...
trên rồng dưới rùa - sửa soạn
khí giới để làm "một trận
thư hùng" thanh toán nhau hay trả thù
nhau. Hồi thời đó, khi đã "nộ
khí xung thiên" thì họ đòi
"để thẹo” đối thủ hay ít lắm
cũng “xin tí huyết”. Cho nên dao/kéo
- ngoài lãnh vực bếp núc vá may -
còn được sử dụng một cách rất
... linh động phiêu hốt trong giới giang hồ.
Thời bây giờ, văn minh rồi, dao/kéo
đã được trả về vị trí nội
trợ. Cho nên, khi muốn "xin tí huyết"
của kẻ thù, các băng đảng ngày
nay chỉ dùng khí giới "hiện đại"
để mà ... bùm ! Có nhanh, có gọn,
nhưng thiếu nét "anh hùng mã thượng".
"Mài dao mài kéo" mà tôi
nói ở đây là cái nghề của một
ông bạn tôi mới quen, trong thời gian tôi bị
kẹt lại ở Việt Nam sau 1975.
... Tôi để ý tới anh ta trong lúc
tôi đang nhâm nhi ly cà phê ngon của
cái quán cóc nằm dưới mái
hiên một căn phố nhỏ. Quán này chỉ
có hai cái bàn thấp và bảy tám
cái ghế thấp, thấp thấp nhỏ nhỏ giống
như đồ chơi trẻ con. Cho tới cái ly
cà phê cũng nhỏ xíu, hớp chừng hai hớp
là cạn ! Có lẽ vì vậy mà thấy
ai tới đây cũng để thì giờ ngồi
nhâm nhi từng ngụm nhỏ cà phê chớ
không thấy ... uống !
Tôi thường xách cái ghế nhỏ
ra ngồi cạnh công-tơ nước cách
quán chừng hơn bốn thước. Ở
đó có cái thùng xi-măng che
công-tơ, thùng vuông vức nắp bằng, chỉ
cao hơn cái ghế chừng hai tấc và nằm
cạnh một bức tường dài. Tôi
thích ngồi ở đó vì được
cách biệt với cái xô bồ trong quán
và nhứt là có bức tường sau
lưng để dựa ! Mấy đứa nhỏ trong
quán viết nguệch ngoạc bằng than trên
tường "Chỗ này của ông Hai nón
nỉ" và vẽ một đầu người
đội nón, râu lún phún, nét vẽ
ngây ngô buồn cười kèm theo một mũi
tên chỉ về chữ "ông Hai" ! Tôi rất
thích thú với trò trẻ con ngộ nghĩnh
đó và nhứt là sự được
người trong quán dành riêng cho một chỗ
ngồi - một chỗ ngồi không nằm trong phạm
vi của quán !
Hôm đó, tôi nghe tiếng rao
“mài dao mài kéo" từ đằng xa.
Một lúc, thấy anh thợ mài dao ngừng xe
đạp trước quán. Anh đem xe lên dựng
trên vỉa hè, treo cái nón rơm lên
ghi-đong rồi bước vào trong. Xe đạp của
anh rất đặc biệt. Đầu tiên là
hai cái chống gắn ở đùm bánh sau:
khi đạp xuống hai bên, nó giữ xe đạp
đứng thẳng một cách vững chắc. Kế
đó là thùng đồ nghề phía sau
có hai hàng hộc tủ và một ngăn
để can nhựa đựng nước. Gắn
trên mặt thùng là hai bàn đá
mài tròn một lớn một nhỏ có ma-ni-ven,
một viên đá bùn và một cái
ê-tô. Trên vè bánh xe trước
có gắn đứng theo chiều dọc một tấm
bảng cỡ ba trang giấy học trò, nền
vàng với ba hàng chữ đỏ trên mỗi
mặt.
Lúc đó, quán đã đông
người. Chắc không còn bàn trống
nên thấy anh ta một tay cầm ly cà phê một
tay xách cái ghế nhỏ, bước ra khỏi
quán ngó quanh tìm chỗ. Tôi vẫy tay gọi:
- Ngồi đây nè.
Hắn mỉm cười gật gật đầu
rồi bước lại đặt ly cà phê
lên thùng công-tơ:
- Cám ơn ! Cám ơn !
Trước khi ngồi xuống, anh ta liếc nhanh
hàng chữ trên tường rồi nhìn
cái nón nỉ tôi đang đội, cười
tủm tỉm.
Sau khi làm một ngụm cà phê, anh ta
rút bao thuốc hướng về phía tôi tỏ
ý mời. Tôi lắc đầu. Hắn đốt
thuốc hút. Xong để bao thuốc và cái
hộp quẹt lên thùng công-tơ, ngã
người dựa vào tường, duỗi thẳng
hai chân, thở khói một cách sảng
khoái. Và như vậy, trong im lặng, hắn
và tôi nhâm nhi cà phê ...
Một lúc sau, thằng nhỏ trong quán mang
ra một bình trà:
- Nãy giờ con quên đem trà ra. Đừng
phiền nghe ông Hai !
Tôi khoát tay lắc đầu trả lờị
Bấy giờ, anh ta mới mở miệng hỏi:
- Chắc anh đến đây thường ?
- Ngày nào cỡ giờ này là
có tôi ngồi đây. Mặt trời nằm
phía sau lưng, nên chỗ này còn
mát. Chừng đứng bóng trở đi là
không ngồi được.
- Nhà anh gần đây không ?
- Cũng gần. Đi bộ chừng năm
phút.
- Hổm rày trời không mưa, cũng
không nóng lắm. Thấy dễ chịu há ?
- Ờ .. Mùa
này như vậy cũng hiếm.
Ngừng một
chút rồi tôi lại hỏi ... đẩy
đưa:
- Mài dao mài
kéo ... Anh kiếm ăn được không ?
- Tàm tạm. Nhờ
bây giờ ai cũng xài đồ cũ hết
nên có đồ mài hoài.
- Thấy anh có nhiều
đồ nghề quá há !
- Phải như vậy
chớ ! Thời bây giờ, cái gì cũng
đòi ... cao cấp hết. Mình cũng phải
phô trương cho thiên hạ tin. Mà đồ
của tôi thì bảo đảm là ... cao cấp
thứ thiệt !
- Ờ ... Mà sao
chi nhiều dữ vậy ?
Anh ta vừa nói,
hai tay vừa ra dấu:
- Nè nghen. Bàn
mài lớn để "tề" mấy con dao
quá sét. Bàn mài nhỏ, mịn hơn
để “đi” hai mép của lưỡi
dao. Mình quây ma-ni-ven, bàn mài chạy o o, tốc
độ gấp năm gấp sáu lần hơn. Dao
để tới đâu là nó
“ăn” tới đó, lẹ lắm ! Còn
viên đá bùn là để làm
láng và để chỉnh lại mấy chỗ
chưa đều. Còn cái ê-tô là
để kẹp mấy con dao mà mình muốn sửa
lại cho nó ngay, nó thẳng. Như vậy mới
là ... cao cấp, anh thấy không ?
Tôi gật đầu
thán phục. Rót trà vào ly, tôi mời:
- Uống miếng
trà đi, anh.
Hắn cầm ly ực
một cái rồi lấy mu bàn tay quẹt miệng.
Xong, hắn đứng lên cất gói thuốc
và hộp quẹt vào túi:
- Thôi. Chào
nghen ...
Anh ta đội
nón, dẫn xe xuống đường, vừa đạp
chậm chậm vừa rao kéo dài: "Mài dao
mài kéo ...".
Hôm sau, anh ta lại
ghé quán, cũng vào giờ như hôm qua.
Tôi đã ngồi ở công-tơ nước
với ly cà phê, và thật ra cũng có
ý đợi. Lần này anh ta dựng xe cạnh
đó, vừa dựng vừa nói:
- Anh cho phép
tôi ngồi ở đây, mình nói chuyện
chơi.
Rồi không đợi
tôi trả lời, anh đi thẳng vào quán.
Một lúc trở ra với ly cà phê, cái
ghế và điếu thuốc trên môi phì
phà ... Anh ngồi xuống, giống tư thế
hôm qua. Sau ngụm cà phê, anh hỏi
- Anh không hút
thuốc à ?
- Tôi bỏ
hút lâu rồi.
- Vậy là anh số
một ! Tôi bỏ hoài không được. Hồi
xưa tôi còn hút bạo hơn nữa chớ
không phải như bây giờ đâu !
Tôi đưa mắt
đọc thầm ba hàng chữ đỏ trên bảng
nền vàng gắn trên bánh trước của
xe đạp: "Mài kéo mài dao - Mài sao
cho bén - Đừng kén tay mài". Thấy
hay hay, tôi rung đùi đọc lại, đọc
thành tiếng. Rồi vỗ tay lên mặt
thùng công-tơ, khen:
- Hay ! Hay quá ! Sâu
sắc quá ! Anh viết đó hả ?
- Dạ. Thì ... viết
bậy vậy mà.
- Đâu bậy ? Bộ
anh tưởng ai cũng viết bậy nỗi như vậy
sao ? Phải có trình độ chớ ...
Anh ta làm thinh, nhấp
cà phê, hút thuốc một lúc mới
nói:
- Thời buổi
này, "có trình độ” không
để làm ... khỉ gì hết. Bọn
"không trình độ” nó ngồi đầy
trên đầu trên cổ thiên hạ, thì
người "có trình độ" chỉ
còn có ... "đi chỗ khác chơi"
thôi !
Bây giờ thì
tôi đã đoán ra anh ta thuộc về
"phe" nào rồi. Tôi hạ giọng:
- Nè ! Sao tôi thấy
tấm bảng của anh giống lá cờ của
mình quá. Phải không ?
Anh ta nhìn tôi,
mắt sáng rực. Anh đưa tay bắt tay tôi,
giọng sung sướng:
- Anh tinh ý lắm.
Bao nhiêu năm nay chưa ai thấy được
điều đó hết !
Vậy rồi giữa
anh ta và tôi bỗng thấy như thật gần.
Anh hỏi tôi:
- Hồi đó anh
làm gì ?
- Làm "Chef de
réseau" của một hãng ngoại quốc
(tôi nói chen tiếng Pháp).
- Còn bây giờ
?
- Ở không, vợ
con ở ngoại quốc gởi tiền về nuôi.
- Ủa ? Sao vậy ?
- Hồi di tản,
tôi bị rớt lại. Còn anh ? Hồi trước
làm gì ?
- Làm báo.
Làm hai ba tờ. Chuyên về phiếm, xã luận,
truyện ngắn.
- Sao bây giờ
đi ... mài dao vậy ?
- Chớ anh biểu
bây giờ tôi viết cái gì ? Suốt
đời sống trong nghề viết, tự do vung
vít quen rồi, đã thành một lập
trường, một đường lối. Biểu
tôi bẻ cong ngòi bút để ... “bợ”
chế độ, tôi làm không được
! Vả lại, làm báo theo kiểu
"phô-tô-cọp-pi" như họ, thiệt
tình, không phải là nghề của tôi.
Cho nên tôi đã "rửa tay gác
bút".
Nói xong câu
đó anh ta cười khà khà có vẻ
thích thú với hình ảnh "rửa tay
gác kiếm" của mấy võ lâm cao thủ
trong truyện chưởng Hồng kông ! Ngừng một
chút, hít vài hơi thuốc, uống ngụm
cà phê cuối cùng rồi tiếp:
- Bây giờ đi
mài dao ... cũng thú ! Mình cứ tưởng
tượng là mình mài "gươm
thiêng" để đợi thời cơ phục hận
!
Lần này, anh ta
cười lên ha hả, sảng khoái. Rồi lại
tiếp:
- Coi vậy chớ
lâu lâu tôi thèm viết vô cùng. Nhứt
là bây giờ, nó lố lăng bỉ ổi,
nó chụp giựt bao che gấp mấy chục lần
hồi trước ... làm mình "ngứa nghề"
muốn chết ! Cách đây mấy năm,
vào dịp Tết, tôi nhận được
thơ của một thằng bạn đã đi chui
kể lại cuộc hành trình và đời
sống trên đảo tỵ nạn Pulau Bidong ở
Mã Lai ... làm tôi nổi hứng. Tôi
lén viết một "lá sớ Táo
Quân" cho mùa xuân năm đó, để
nhớ hồi xưa mỗi Tết tôi đều
có viết sớ để “móc lò
móc chảo" chuyện Nhà Nước chuyện
thiên hạ. Sáng mai tôi sao cho anh một bản,
đọc cười chơi. Thôi ! Bây giờ
đi “kiếm cơm” cái đã !
Anh ta đứng
lên bắt tay tôi rồi dẫn xe xuống
đường đạp đi.
Hôm sau, anh ta đến.
Vừa ngồi xuống, anh trao ngay cho tôi “lá
sớ”. Tôi định mở ra xem thì anh
đưa tay ngăn. Vừa đảo mắt nhìn
quanh, anh vừa thấp giọng:
- Đừng ! Đừng
coi ở đây ! Cất đi. Về nhà hãy
đọc. Đọc rồi nhớ đốt nó
đi, kẻo mang họa rồi nói tại tôi.
Uống hớp lớn
cà phê, đốt điếu thuốc, xong anh
cười cười:
- Đốt cho lá sớ
... lên trời, cho Ngọc Hoàng đọc với
chớ !
Tôi phì cười:
- Anh "tiếu" thật
! Không chừa ai hết !
- Đó là ...
nghề của tôi hồi xưa mà. Thấy
trái tai gai mắt, thấy "đi trật đường
rầy” là tôi múa bút đâm ngay.
Tự do ngôn luận là như vậy đó.
Chớ không phải như bây giờ. Nhìn một
lũ hề độc quyền sân khấu, giễu dở
lại giễu dai, giễu rồi tự vỗ tay khen lấy,
còn bắt ... nhân dân khán giả vỗ
tay theo ... vv... mà chẳng thấy một "nhân
dân" nào dám ... thò tay viết trên
báo một lời phê bình chỉ trích !
Cho nên tôi thấy "ngứa mắt ngứa
tay" lắm.
Uống hết ly cà
phê, anh ta đứng lên gật đầu
chào:
- Bữa nay tôi phải
mài lố dao của nhà hàng T.T., không
cò cưa ở đây lâu với anh được.
Tôi đi nghen !
Bước được
mấy bước, anh dừng chân một chút,
đầu hơi cúi xuống dường như để
suy nghĩ rồi mới quay lại nhìn tôi,
nét mặt thật nghiêm trang, đưa ngón
tay trỏ lên gõ gõ vào đầu :
- Mỗi ngày tôi
mài dao là mỗi ngày tôi mài cái
chí khí cho nó luôn luôn sắc bén,
khỏi bị cùn lụt. Anh biết không ?
Nói xong, anh để
bàn tay mặt xéo xéo một bên trán
gặc nhẹ một cái trông giống như
chào theo kiểu nhà binh, rồi phóng lên
đạp xe đi, giọng rao kéo dài:
"Mài dao mài kéo"...
Hôm sau, tôi đến
quán hơi sớm, định vừa gặp anh
là nói ngay rằng tôi khoái lá sớ
của ảnh lắm, móc họng chế độ rất
đau mà vẫn giữ được nét
trào phúng nhẹ nhàng.Và cũng để
nói cho ảnh yên tâm rằng tôi
đã đốt lá sớ như ảnh
đã dặn. Nhưng rồi, anh ta không đến,
mặc dù tôi đã cố tình ngồi
đợi tới trưa ….
Những ngày sau, rồi
những ngày sau nữa, tôi không gặp lại
anh ta. Tôi vẫn đều đặn ngồi uống
cà phê chỗ công-tơ, ngồi một
mình. Cà phê quán này làm như
không còn ngon như trước ...
TIỂU TỬ
(Bai Chuyen)