Đại Sứ Thiện
Chí
(Nguyễn Trần Diệu Hương)
Diệu Hương là tác giả
đã hai lần nhận giải viết về nước
Mỹ. Ngay từ năm đầu tiên, với
bài "Chương Kết Của Cuộc Đời",
cô được trao giải danh dự 2001. Sau 4
năm liên tục góp thêm bài viết mới,
cô nhận giải vinh danh tác phẩm Viết Về
Nước Mỹ 2005, với bài về một cựu
sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà và bài về
một quả phụ Mỹ thời chiến tranh Việt
Nam. Tác giả hiện cư trú
và làm việc tại vùng San Jose. Sau
đây là bài viết mới nhất của
cô.
*
"Sweet Tomatoes" không phải là những
trái cà chua ngọt mà là tên nhà
hàng quen thuộc của chúng tôi, một
nhà hàng loại "salad buffet, all you can eat",
mà có người dịch là "ăn bao bụng"
nghe vừa trần tục, vừa đi xa nghĩa gốc
của tiếng Mỹ ! Ở đó mọi người
đều trả một số tiền giống nhau cho bữa
ăn và tha hồ ăn cho đến
lúc bao tử không còn chỗ chứa.
Ở đó, những anh chàng bồi
bàn trong bộ đồng phục màu xanh như
màu của những bông cải broccoli đi quanh
các bàn ăn của thực khách, không phải
để lấy orders mà chỉ là để thu dọn những cái dĩa
dơ. Một người trong số họ, đội
thêm cái mũ màu trắng của chef cook, cũng
đi quanh các bàn ăn chỉ để mời
khách ăn món bánh ngọt rất phổ
thông của Mỹ "chocolate chip cookie" được
các em bé và ... rất nhiều người lớn
thích. Những cái bánh cookies của "Sweet
Tomatoes" có đủ tiêu chuẩn "bánh
mới ra lò, nóng hổi vừa thổi vừa
ăn" vì nhà hàng có cả một
bakery, chỗ sản xuất bánh ngọt làm
bánh liên tục, nên quầy bánh ngọt của
họ là nguyên nhân để "Sweet
Tomatoes" trội hẳn so với những nhà
hàng "Salad Buffet" khác.
Tôi mê "Sweet Tomatoes" vì đó
là nơi tha hồ ăn mà
không sợ bị mập ra, không sợ bị cả
trăm thứ bệnh trên đời mang đến từ
miếng ăn. Ở đó cũng là nơi
"all you can eat" duy nhất bạn có thể
ăn no càng cứng bụng mà không bị mệt
mỏi, không bị buồn ngủ, không bị nhức
đầu vì trong thức ăn có bột ngọt
(MSG), không bị ám ảnh bởi bệnh cao
máu, bệnh mỡ trong máu, bệnh tiểu
đường ... Ngay cả món kem tráng miệng
cũng được làm tại chỗ rất fresh với
sữa low fat hay skim milk được loại bỏ gần
hết chất béo nên chúng tôi tha hồ
ăn mà không bị e ngại số lượng
calories nạp vào quá lớn có thể
làm cho quần áo nhích lên một size trong
thời gian rất ngắn. Tiệm ăn không có
thực đơn mà chỉ có một quày
rau dài khoảng 30 feet (khoảng chín thước)
toàn rau tươi hay rau luộc đủ màu
trông rất bắt mắt và hấp dẫn, chỉ
tiếc là không có mùi thơm dễ chịu
của những loại rau Việt Nam như rau thơm,
tía tô, húng quế, diếp cá, ngò
gai ...
Hôm nào nhà hàng không đông
khách, có thể tự ý chọn chỗ ngồi,
chúng tôi đều chọn chỗ ngồi trong
góc để có thể quan sát toàn cảnh
tiệm ăn. Hơn thế nữa, phía
trên cái bàn trong góc này còn
có treo hình một con gà trống với
cái mào đỏ và một bụi trúc
trông rất giống hình trong quyển sách Tập
đọc hồi Tiểu học ở Việt Nam.
Ở cái bàn trong góc đó,
tôi đã gặp một "Đại sứ thiện
chí" có trái tim bao dung
và nhân ái. Lần đó, ở
bàn bên cạnh, có một gia đình gồm
hai vợ chồng và hai em nhỏ khoảng 6, 7 tuổi.
Người chồng có vẻ là người Mỹ
gốc Do Thái với cái mũi cao to, không lộ
rõ ra ngoài lòng thương con như người
vợ, dường như là một người Mỹ
gốc Bắc Âu với đôi mắt màu xanh
xám. Bà ta chăm chút cho hai đứa bé
rất cẩn thận, lâu lâu lại đút
cho đứa bé trai, hay thắt lại cái nơ
màu hồng trên đầu cho đứa bé
gái, chốc chốc lại hỏi hai em ăn có
vừa miệng không ? Có thích lấy thêm
món nào nữa không ?
Điều làm chúng tôi chú ý
đến họ đến quên cả ăn vì
đó có vẻ là một "international
family", hai em đó chắc chắn không phải
là con ruột của hai ông bà. Em
trai có nước da màu sậm của người
Phi Châu. Em gái rõ ràng là người
Á Châu, nhưng không hiểu là người
nước nào ? Từ
vị trí đang ngồi, chúng tôi không thấy
được cặp mắt của em gái. Hình dáng của "cửa sổ
tâm hồn" giúp chúng ta phân định
được đó là người nước
nào.
Trên cái khay thức ăn màu vàng
có năm ngăn nhỏ dành cho trẻ em, thức
ăn có đủ màu, trông khá vui mắt:
từ màu vàng của bắp, màu xanh của
những hạt đậu petit bois nho nhỏ, màu cam của
cà rốt luộc cắt thành khoanh tròn, màu
đỏ của củ dền thái thành sợi mỏng,
màu trắng của những thỏi cheese hình
vuông và của khoai tây luộc; nghĩa
là đủ thứ thức ăn đầy dinh
dưỡng của con nít ở Mỹ. Trước mặt
mỗi em còn có một hộp sữa và một
hộp nước cam nhỏ. Em trai ăn
uống rất ngon lành, trong khi em gái uống nhiều
hơn ăn.
Khi người cha đứng dậy đi lấy
thêm thức ăn, em trai đòi đi theo. Bà mẹ hỏi em gái:
-"Do you want something else, honey ?"
Thật bất ngờ với chúng tôi, em
gái buột miệng:
-"Má, cơm. I want some rice, mommy."
Ở bàn bên này, chúng tôi
cùng nhận ra cô bé là người Việt
Nam.
Tôi quay sang bàn bên cạnh làm quen với
bà mẹ tóc vàng, mắt xanh của em
và được "bà mẹ gà" cởi
mở kể lại duyên cớ tại sao mình
có "hai đứa con vịt".
-"Chúng tôi lấy nhau
đã hơn mười năm nhưng không có
con. Thay
vì dùng đến những phương pháp
nhân tạo, chúng tôi quyết định xin
con nuôi. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng muốn
xin một trẻ sơ sinh cùng màu da với
chúng tôi để lớn lên, cháu có
cảm giác mình là con ruột. Chúng
tôi chỉ đến điền đơn ở một
"Adoption Agency" ở địa phương. Tưởng
là đơn giản nhưng hồ sơ xin con
nuôi phức tạp hơn nhiều người tưởng,
có cả "Background check", "Credit check" chi
tiết hơn cả việc đi mua nhà và
đi xin việc, vừa để chắc chắn những
trẻ em ngây thơ vô tội được
vào một gia đình đàng hoàng, đứng
đắn; vừa để xem quyết tâm của những
người đi xin con nuôi. Cũng mất gần cả
tháng, sau khi hoàn thành nhiều đơn từ,
và đợi có kết quả của
"Background check", chúng tôi được
vào "waiting list" chờ xin con nuôi. Dù
đã được nhân viên ở Agency cho biết
muốn xin một em bé sơ sinh Caucasian, thời gian
chờ đợi ít nhất là ba năm, lâu
nhất là ... vô hạn định, chúng
tôi vẫn kiên trì chờ. Biết đâu
nếu chúng tôi may mắn, một người
nào đó ở trên đầu "waiting
list" mỏi mệt bỏ cuộc sau bao nhiêu năm
chờ đợi, hoặc đã sinh được
con, chúng tôi sẽ có một em bé sơ sinh cùng màu da, để khi lớn
lên cháu sẽ không có mặc cảm
mình là con nuôi.
Để chuẩn bị cho một thành
viên mới của gia đình, cái phòng trống
trong nhà, chúng tôi đã chuyển
thành "baby room" khi vừa hoàn tất thủ
tục xin con nuôị Nhưng ngày qua ngày,
tháng nối tiếp tháng, và cả năm lần
lượt trôi qua, bụi phủ đầy "baby
room", thậm chí một vài món đồ
chơi treo ở chổ có ánh nắng mùa
hè chiếu vào đã bắt đầu bạc
màu.
Ngày tháng dần trôi, hy vọng
của chúng tôi càng lúc càng nhạt
nhòa. Hình
như thời buổi này, người ta không
còn sinh đẻ nhiều như thời "baby
boomer" của ba mẹ chúng tôi. Dạo
đó, những người lính mới được
về từ World War II, con nít liên tiếp
chào đời, các vị bác sĩ OBGYN
làm việc không lúc nào ngơi tay, đi đến đâu cũng thấy
babies.
Vả chăng, hiếm khi có người
chịu cho đứa con mình đã mang nặng
đẻ đau ròng rã hơn chín tháng
trời, và mang cả một phần DNA của
mình.
Sang đến năm thứ sáu,
chúng tôi không còn kiên nhẫn nữa,
khi biết cái "waiting list" ngày càng
dài thậm thượt, vì chỉ có nối
vào ở khúc cuối, mà khúc đầu
vẫn còn nguyên.
Thế là chúng tôi có ý định
xin con nuôi ở ngoại quốc. "Searching"
trên internet cả tháng, chúng tôi vẫn
chưa quyết định mình sẽ xin con nuôi từ
nước nào vì mỗi nước có một
luật lệ, thủ tục rườm rà riêng.
Thoạt đầu, phạm vi của
"international adoption" của chúng tôi mở ra
đến Phi châu. Thủ tục đơn giản
và dễ dàng hơn ở Mỹ nhiều, thời
gian chờ đợi thường không quá ba
tháng.
Vừa hoàn tất thủ tục xin con nuôi
từ Phi Châu, một hôm, trong chương
trình TV buổi tối, tôi thấy tài tử
Angelina Jolie xin được một em bé Việt Nam mặt
mũi kháu khỉnh, thông minh, chúng tôi
đổi chuyến vacation từ Nhật qua Việt Nam,
đến thăm các viện mồ côi, may ra
tìm được một bé con nuôi. Không
đặt nhiều hy vọng, chúng tôi chỉ
đi thăm các viện mồ côi ở quanh
Sàigòn và tìm được cô
bé này."
Bà cười thú nhận rất thành
thật:
- "Vì khác màu da,
đương nhiên lớn lên các em biết
mình là con nuôi.
Nên chúng tôi chọn các em ở độ
tuổi từ 5 đến 7 tuổi, ở tuổi
đó, các em có thể nói ra điều
mình muốn, đỡ vất vả cho chúng
tôi nhiều."
Theo lời bà, mặc dù chưa biết
đọc, biết viết rành rẽ, nhưng cả
Tom đến từ Ethiopia lẫn Lynn đến từ Việt
Nam đều nói rành rẽ ngôn ngữ mẹ
đẻ của mình, và lâu lâu vẫn lộn
ngôn ngữ gốc vào tiếng Mỹ. Như em
Lynn lâu lâu vẫn gọi bà là
"má" thay vì "mommy". Hơn
thế nữa, các em mới về với cha mẹ
nuôi ở Mỹ vài tháng nên thói quen
tập quán ở quê hương gốc vẫn
chưa phai nhạt nhiều.
Chúng tôi quan sát và một lần nữa
nhận rõ thức ăn đầu
đời ảnh hưởng đến thói quen của
người ta như thế nào. Mặc dù ở
giữa nhà hàng có cả chục món
soup, hơn mười loại bánh mì, ba món
mì sợi spaghetti là những món chính cho
buổi ăn tối, Tom chỉ
thích ăn bắp. Lynn chỉ
thích ăn cơm, mặc dù đó không
phải là loại cơm được nấu theo kiểu Việt Nam.
Chúng tôi xin phép bố mẹ
nuôi của Lynn
để được "phỏng vấn" em bằng
tiếng Việt, và sẽ dịch ra tiếng Mỹ
cho hai ông bà cùng nghe. Có lẽ cũng muốn biết
thêm về background của cô con gái nuôi, họ
vui vẻ bằng lòng cho chúng tôi tìm hiểu
thêm về em.
Tôi đến quày bánh, chọn Angel
Cake, một cái bánh được làm bằng
lòng trắng trứng, rất giống với
bánh bông lan Việt Nam, và một củ khoai lang
màu đỏ cam đầy mật còn nóng
để "hối lộ" cho Lynn trước khi hỏi chuyện
em.
Ăn
xong cái bánh, một phần củ khoai và nghe
chúng tôi hỏi bằng tiếng Việt, cô
bé Việt Nam
6 tuổi ngây thơ kể cho chúng tôi về
chuyện mình "được qua Mỹ với
Mommy và Daddy" bằng ngôn ngữ tuổi thơ
rất chân thật và hồn nhiên với
đôi mắt lãng đãng nỗi buồn:
-"Con không biết
ba má đẻ ra con là ai. Ở viện mồ
côi, con chỉ có các dì phước
và má Bảy nấu cơm cho tụi con ăn. Con
sắp được đi học ở các trường
dì phước, hay của các sư cô,
thì Daddy và Mommy của con đến xin đưa
con về Mỹ. Con không muốn đi vì ở viện
mồ côi con có nhiều bạn cũng nói tiếng
Việt như con, con cũng giúp cho các soeur
đút cơm và tắm cho các em nhỏ
hơn. Các soeur biểu con đi vì qua Mỹ con sẽ
có nhiều đồ ăn, nhiều đồ
chơi, có cả búp bê biết nói nữa.
Con không dám cãi các soeur nên con đi
theo Daddy và Mommy. Hồi con đi, mấy đứa bạn
con trong viện mồ côi khóc nhiều, con cũng
khóc theo ... "
Khi chúng tôi hỏi về cuộc sống hiện
tại ở Mỹ, đôi mắt màu đen của
Lynn đổi
từ xa xăm sang rạng rỡ:
-"Daddy và Mommy mua cho con nhiều đồ
chơi, dạy con nói tiếng Mỹ, bây giờ
con hiểu gần hết mọi điều Mom và Dad
nói với con. Con được ăn
ice cream mỗi ngày rất ngon, và có đến
ba đôi giày màu hồng."
Chúng tôi quay lại dịch cho bố mẹ
nuôi của em, với lời kết luận:
-"Lynn
vẫn còn nhớ viện mồ côi của em,
nhưng hạnh phúc khi sống với ông bà. Chúc mừng ông bà
đã có một cô con nuôi ngoan ngoãn,
dễ thương. Chỉ độ một
năm nữa thôi, ông bà có thể hỏi
thẳng em và sẽ được nghe em kể bằng
tiếng Mỹ về nơi ở đầu đời của
em."
Khi cái "gia đình quốc tế" ở
bàn bên cạnh chào chúng tôi ra về
thì Lynn
chạy đến hỏi tôi một câu hỏi
mà tôi không thể có câu trả lời
chính xác cho em:
-"Cô ơi, khi nào con được về
thăm các bạn, các soeur và má Bảy
hả cô ?"
Tôi ngồi xuống để ánh mắt
mình ngang tầm với mắt em, nhìn thẳng
vào đôi mắt ngây thơ bằng cái
nhìn cảm thông, và trả lời bằng tiếng
Mỹ để bố mẹ nuôi em có thể nghe
được:
-"Nếu Lynn ngoan, kính trọng và nghe lời
Daddy, Mommy, chịu khó học hành cho giỏi,
thì ở Việt Nam má Bảy, các bạn,
và các soeur cũng vui như được gặp
Lynn vậy. Khi nào Lynn
viết tiếng Mỹ giỏi thì nhờ Daddy và
Mommy gởi thư về thăm các
soeur và các bạn. Lynn càng
ngoan, càng học giỏi thì càng mau được
về thăm viện mồ côi. Cô
chắc chắn nếu Lynn ngoan
và giỏi thì sau này Lynn
sẽ được về thăm lại Việt Nam."
Bạn tôi hỏi lại em bằng tiếng Việt:
-"Con có hiểu hết mọi điều vừa
nghe không ?"
Cô bé Việt Nam trả lời bằng
cả hai ngôn ngữ:
-"Yes, I do. Dạ hiểu."
Quay sang bố mẹ nuôi của em, tôi
nói mà như nói với chính mình:
-"Tổ chức UNICEF của Liên Hiệp Quốc
vẫn phong tặng danh hiệu danh dự "Đại sứ
thiện chí" cho những người nổi tiếng
với các hoạt động thiện nguyện
có tính cách quốc tế, đặc biệt
là nuôi con nuôi ở ngoại quốc. Nhưng với tôi, ông bà thực sự
là một trong những "Đại sứ thiện
chí" rất thầm lặng, đáng quý
nhất."
Chúng tôi nhìn theo cái dáng
bé nhỏ của em khuất sau cửa ra của
"Sweet Tomatoes" mà nghĩ đến khuôn mặt
bầu bĩnh của Pax Thiên, con nuôi của cặp
tài tử nổi tiếng đương thời ở
Mỹ. Cầu mong cho hàng ngàn em bé mồ
côi khác được những gia đình
người Mỹ có tấm lòng nhận làm
con nuôi, để các em có được một
cuộc đời mới, bình an, tốt đẹp
hơn, được lớn lên no đủ dưới
bầu trời tự do.
Cũng như chúng tôi, bây giờ
và trong những ngày tháng tới ở
tương lai, những ngày tháng lưu lạc
quê người dài hơn thời gian sống
trên quê hương chôn nhau, cắt rốn của
mình, nhưng thói quen, tập quán đầu
đời vẫn còn nguyên. Mỗi ngày
chúng tôi vẫn ăn bông cải xanh broccoli
mà nhớ đến bông cải trắng cauliflower
nho nhỏ của Đàlạt năm xưa, ăn miếng
cheese cake màu trắng ngà mà lòng vẫn
tưởng nhớ đến món bánh gan mát
lạnh màu nâu vàng làm bằng trứng vịt
mẹ vẫn cho ăn thời xưa trước năm
1975; Lynn sẽ sống cả cuộc đời còn lại
với bố mẹ nuôi người Mỹ nhưng
tôi tin chắc từ tận cùng ký ức, em
vẫn không quên những củ khoai lang nhỏ
bé mộc mạc, thô sơ, không to quá khổ
và đầy ắp mật ngọt như "sweet
potatoes" ở Mỹ, mỗi lần ăn những dĩa
cơm nấu bằng gạo Mỹ có trộn đầy
butter và các loại herb, Lynn sẽ nhớ đến
những chén cơm trắng nấu bằng lúa miền
Tây ở viện mồ côi thuở đầu
đời.
Mùi thơm nhẹ nhàng, ngan ngát của
tía tô, rau thơm, húng quế, diếp
cá, ngò gai ... vị ngọt đằm thắm của
xôi nếp một, vị ngọt đậm
đà của đường mía lau một
cách nào đó vẫn hiện diện trong một
góc bình yên nhất ở tâm hồn của
Lynn, của tôi, của cả triệu người Việt
Nam phải sống đời lưu lạc
...
Dedicated to bac
Dinh va chi Dung with special thanks
NGUYỄN TRẦN DIỆU
HƯƠNG
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)