Một thoáng quê
hương
(T. Vấn)
Quê hương vời vợi, mờ
đôi mắt...
[Ngọc Phi]
1.
Dịp lễ Giáng Sinh vừa qua, người bạn
của tôi làm công tác giảng dạy ở
một trường đại học bên Mỹ,
có dịp ghé qua vài thành phố lớn ở
miền Bắc Việt Nam như Hà Nội, Hải
Phòng trong một chương trình hợp tác
giáo dục. Nhận xét đầu tiên
là chị chỉ cảm nhận được không
khí Giáng sinh ở các cửa hàng mua sắm qua
cách thức trang trí bắt chước theo
Tây phương. Các siêu thị, các
ngân hàng, tiệm ăn sang trọng đều
có cây thông trang trí đầy mầu sắc
dựng ngay lối ra vào, bên cạnh đó thỉnh
thoảng lại xuất hiện công chúa Tuyết
hoặc ông già Noel với trang phục đầy
đủ từ mũ nón, giầy cho tới bộ
trang phục đỏ chói dầy cộm. Nhưng, theo
chị, cái không khí linh thiêng thường
thấy trong những dịp lễ hội như thế
này ở nước ngoài hoàn toàn vắng
bóng nơi đây. Dưới con mắt chị, một
người xa quê hương nhiều năm, những
kiểu bắt chước như vậy thường chỉ
gây cảm giác xa lạ , trong
khi lẽ ra nó phải gợi lên sự quen thuộc,
ấm cúng, vì dù sao đây cũng
là thành phố chị đã mở mắt
chào đời. Thậm chí chị cũng cảm
thấy nó không giống với hình ảnh Hà
Nội, Hải Phòng mà chị có dịp
được biết đến qua văn chương,
qua thơ nhạc do chính người Hà Nội, Hải
Phòng sáng tác.
Một chi tiết lý thú khác nữa
mà người bạn tôi kể lại với một
giọng bùi ngùi là vị khoa trưởng
trường đại học nơi chị có cơ
hội tiếp xúc, đã nhận xét rằng
giọng nói Hà Nội của chị còn chuẩn
hơn cả người Hà Nội chính tông,
dù chị đã rời nơi sinh nhau cắt rốn
từ dạo 1954, năm mà cả triệu người
miền Bắc di cư vào Nam tránh nạn cộng
sản, cộng thêm với hơn 25 năm sinh sống
ngoài đất nước. Sự khác biệt
khá ngạc nhiên ấy không chỉ ở giọng
nói, mà còn ở cung cách ăn nói,
giao tế, những cử chỉ biểu lộ trong khi mạn
đàm. Chẳng trách gì nhiều người
Hà Nội ngày xưa than thở rằng dân Hà Nội bây
giờ không còn mấy người giữ
được nét thanh lịch rất đặc
trưng của người Hà Nội, tuy mang màu sắc phương
Tây trong cách ăn mặc nhưng lại không
làm mất đi cái cốt cách mang bề
dày lịch sử một ngàn năm văn vật
phảng phất trong từng bước đi, dáng
đứng, nụ cười và những câu
đối thoại văn vẻ. Có lẽ,
như người bạn của tôi lạc lõng
trên những đường phố quê
hương một ngày cuối năm, chúng ta chỉ
còn nhớ về Hà Nội năm xưa bằng
câu thơ của Quang Dũng. Mắt trừng gởi
mộng qua biên giới. Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm.
(Tây Tiến).
Nhân câu chuyện của người bạn
kể về Hà Nội, một trong hai thành phố
lớn và có tốc độ phát triển
nhanh nhất ở Việt Nam, tôi lại nhớ đến
một câu chuyện khác về Hà Nội, do một
giáo sư xã hội học người Mỹ kể
lại, khi ông ghé thăm Hà Nội hồi giữa
năm ngoái.
Ông kể rằng, có hôm
ông đi trên đường phố Hà Nội,
gặp một nhóm nữ sinh trong đồng phục
đi học. Một
cô gái trong nhóm cất tiếng vui vẻ
chào ông bằng Anh ngữ “Hi, See you later !”. Có lẽ, cô gái muốn
thực tập tiếng Anh của mình khi nhận ra
khách bộ hành là người Mỹ. Vị
giáo sư xã hội học chợt cay đắng
nhận ra rằng, trước đây, người Mỹ
không hề được đón chào bằng
một cung cách thân thiện như thế ở Việt
nam, nhất là thành phố Hà Nội. Cuộc
chiến tranh ở xứ sở này đã lôi
kéo người Mỹ dính líu vào
nó trong khoảng thời gian gần 10 năm, với
58 ngàn lính Mỹ tử trận, để rồi
cuộc xung đột ấy đã kết thúc với
phần thua về phía người Mỹ.
Như một mỉa mai của lịch
sử, ba thập niên trước, người Mỹ
đã thua trong cuộc xung đột quân sự,
nhưng ngày nay họ đã thắng trong cuộc
xung đội văn hóa. Vị giáo sư nhìn thấy những sản
phẩm mang đặc thù Mỹ như phim ảnh,
âm nhạc, phong cách ăn mặc đang thống
lĩnh thị trường Việt nam, trong khi đó
những gì liên quan đến Trung quốc hay Nga,
vốn gần gũi Việt Nam hơn các quốc gia
tư bản, kể cả về địa lý lẫn
ý thức hệ, đã không có dấu ấn
nào đáng kể, nhất là về lãnh
vực nghệ thuật và ngôn ngữ. Người
Việt nam hiện nay mơ đến việc đi du lịch
những thành phố Los Angeles, New York của Mỹ, chứ không phải
Beijing của Trung quốc hay Moscow của Nga.
Việc Việt Nam được chấp
thuận cho gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO) đã giúp đẩy mạnh
hơn tốc độ phát triển của xứ sở
này. Các nhóm
đầu tư nước ngoài đang háo hức
thăm dò thị trường về nhiều
lãnh vực, tiếp tay cải tạo hình ảnh
một quốc gia kiệt quệ vì chiến tranh nay
đang khoe khoang sẽ trở thành một trong những
quốc gia ổn định và phát triển nhanh
nhất châu Á. Dưới con mắt vị
giáo sư người Mỹ, tuy dấu vết của
sự nghèo khổ vẫn còn dễ dàng
nhìn thấy ở cả nông thôn lẫn
thành thị, nhưng cuộc sống người
dân đã cải tiến vượt bậc.
Ông nhìn thấy, nhiều năm trước, chiếc
xe đạp là phương tiện
giao thông phổ biến nhất trên những
đường phố, nay chúng đã được
thay thế bằng những chiếc xe gắn máy phun
khói mù mịt khắp nơi. Xe hơi chưa xuất
hiện nhiều, nhưng theo ông, rồi
đây sẽ có rất nhiều xe hơi, kéo
theo nạn ô nhiễm môi trường, một
cái giá không thể tránh khỏi cho sự
phát triển.
Vị giáo sư người Mỹ còn kể
lại một chi tiết khác khá "lý
thú" khi ông ghé Đà Nẵng, nơi
mà tháng 3 năm 1965, những đơn vị
lính Mỹ đầu tiên đã đổ bộ
trên mảnh đất Việt Nam, và cũng do
có nhiều đơn vị Mỹ trấn
đóng ở đây, mà Đà Nẵng
nhanh chóng trở thành thành phố "hiện
đại" thứ hai sau Sài Gòn. Khi ông
đang đi dạo trên đường phố
Đà Nẵng một buổi chiều, có cô
gái gái trẻ tinh nghịch đến vỗ
vào cánh tay để trần của
ông, rồi bỏ chạy với tiếng cười
vang thích thú. Ông nghĩ rằng, có lẽ
40 năm trước, mẹ của cô gái tinh nghịch
ấy cũng đã làm quen với một anh
lính Thủy quân lục chiến Mỹ bằng một
cung cách tương tự.
Câu chuyện cuộc thăm viếng
Việt Nam
của vị giáo sư xã hội học người
Mỹ được ông kết thúc bằng một
sự kiện mà ông, sau đó, đã tỏ
ra hối tiếc. Trong khi
ông đang uể oải vì nóng và bụi
bậm giữa khu phố đông người ngay trung
tâm Sài Gòn, một
cô gái nhìn thấy cây viết chì
màu vàng trên túi áo của ông,
đã ngỏ ý xin ông cây viết ấy
"để dùng vào việc học". Bất ngờ bởi sự đường đột
của cô gái, và nhất là vẫn
chưa tin lắm vào sự thân thiện của
người Việt Nam
với người Mỹ, vị giáo sư từ chối
và vội vã bỏ đi. Ngay tức
khắc, ông hối tiếc cho phản ứng của
mình, nhưng cô gái đã biến mất
giữa đám đông người qua lại.
Ông tin rằng mình đã bỏ lỡ một
cơ hội bằng vàng để giúp thúc
đẩy nhanh hơn tiến trình thân thiện
hóa quan hệ giữa hai quốc gia Việt Mỹ.
Cô gái ấy có thể sẽ đem khoe với
bạn bè, hàng xóm, thân nhân của
mình rằng "một người Mỹ rất dễ
thương" đã tặng cô cây bút
chì nhỏ nhoi ấy.
2.
Cuộc sống của người
dân trong nước đã thay đổi
đáng kể trong thời gian 10 năm trở lại
đây. Điều
đó không có gì ngạc nhiên. Hơn 30 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt,
sự thay đổi ấy phải kể là chậm
chạp. Lẽ ra, không phải đợi
đến đầu thế kỷ 21, người ta mới
ghi nhận được những thay đổi quan trọng
trong mức sống của người dân trong nước.
Đó là chưa kể một trong những
nguyên nhân chính giúp cho sự thay đổi
tốt đẹp ấy là số ngoại tệ
hơn 4 tỷ Mỹ kim hàng năm người Việt
hải ngoại gởi về giúp đỡ thân
nhân. Những năm 1990s, nguồn ngoại tệ ấy
đóng vai trò sống còn trong việc vực
dậy một nền kinh tế suy thoái, xơ cứng,
kiệt quệ trầm trọng vì giáo điều
và chính sách triệt tiêu giai cấp vừa
ngu xuẩn vừa không tưởng của nhà cầm
quyền cộng sản. Chỉ đến
khi ấy, họ mới mở mắt để thấy rằng
phải đổi mới hay là mất quyền
lãnh đạo. Bỏ qua một bên những
hà khắc về chính trị vẫn còn ngự
trị trong sinh họat đất nước, những cởi
mở về kinh tế, về các lãnh vực sinh
họat văn hóa xã hội đã thực sự
góp phần tạo nên hình ảnh mà vị
giáo sư xã hội học người Mỹ
đã tai nghe mắt thấy nơi mảnh đất
hơn 30 năm trước là nơi 58 ngàn chiến
binh Mỹ bỏ mình. Đọc câu chuyện
ông kể lại về cuộc viếng thăm đất
nước Việt Nam của mình, tôi không khỏi
có ý nghĩ ông giáo sư định
dùng câu chuyện để xác định lại
kẻ thắng người thua trong mối quan hệ giữa
người Mỹ và người Việt, hay
đúng hơn, trong quan hệ chính thức giữa
nước Mỹ và nước Việt Nam (cộng sản).
Ông so sánh ảnh hưởng của văn
hóa Mỹ trên cung cách sinh sống của
người Việt trong nước hiện nay với ảnh
hưởng của hai đồng minh quan trọng nhất
của Việt Nam (cộng sản) trước đây
trong cuộc chiến tranh quốc cộng, để
nói về ưu thế của ngôn ngữ Mỹ
(tiếng Anh), ưu thế của quần áo, đồ
đạc tiêu dùng, của sản phẩm văn
hóa như phim ảnh, âm nhạc v..v.. Và cũng
giống như lối suy nghĩ của các chính
phủ Mỹ, vị giáo sư đại học nghĩ
đến việc "cho" một món quà vật
chất (như cây viết chì) để chinh phục
cảm tình của người dân các quốc
gia nghèo hơn mình. Hơn 50 năm trước, từ
những ngày theo cha mẹ bước
chân xuống chiếc tàu há mồm di cư
vào Nam,
tôi đã thấy và vẫn còn nhớ
hình ảnh những món đồ Mỹ viện
trợ có in hình hai bàn tay đan chặt
vào nhau theo nghĩa hữu nghị. Tôi không nhớ
là mình có chạy theo một người Mỹ
nào đó để nói "OK salem" rồi
chìa tay nhận thỏi kẹo Mỹ hay không, cũng
như tôi không chắc có cô gái Việt
nào làm quen với lính Mỹ hơn 40 năm
trước ở Đà Nẵng bằng cách
đưa tay rờ vào người anh ta hay không,
nhưng tôi vẫn có thể tin chắc một
điều là anh lính Mỹ viễn chinh ngày
nào, hay ông giáo sư đại học người
Mỹ (phản chiến hay không phản chiến)
bây giờ và nhiều các chính phủ Hoa
Kỳ nối tiếp nhau từ Dân chủ cho tới Cộng
Hòa đều có cùng một lối suy nghĩ
khi cúi xuống nhìn các quốc gia đang
phát triển.
3.
Cùng một khung cảnh trên
đường phố, nhưng mỗi người sẽ
nhìn bằng cặp mắt khác nhau, và tất
nhiên, sẽ có những cảm nhận khác
nhau. Người
bạn của tôi, cũng làm công việc giảng
dậy ở đại học như ông ông
giáo sư xã hội học người Mỹ, cũng
cùng xuất thân từ một mái trường
(đại học) Mỹ, nhưng họ đã
nhìn sự việc bằng những con mắt
khác nhau. Cái khác nhau ấy
hình như đến từ quá khứ của
chính họ và cả cả quá khứ của
đất nước họ.
Người bạn của tôi rời
Hà Nội vì nạn cộng sản, rồi cũng
vì nạn cộng sản chị lại phải bỏ
quê hương một lần nữa để định
cư ở ngoài đất nước. Chị có dịp trở
về lại nơi chôn nhau cắt rốn, là
để tìm lại những hình ảnh cũ.
Nay những hình ảnh cũ không còn nữa,
nhưng thay vào đó lại là sự mô
phỏng rập khuôn những gì đã
quá quen thuộc với chị ở ngoài đất
nước, nó không mang tầm vóc mà lẽ ra nó phải đạt
tới từ lâu rồi, chứ không phải
mãi lẹt đẹt ở giai đoạn bắt
chước, mô phỏng kệch cỡm như thế
này. Người ta có thể mô
phỏng, bắt chước hình dáng bên
ngoài, nhưng người ta không thể "bắt"
được cái hồn bên trong. Vì thế, người bạn của tôi
không cảm được cái không khí
linh thiêng của lễ hội giáng sinh những
ngày đặt chân trở về quê
hương. Điều mỉa mai nữa là
chính chị, người xa quê hương lâu
ngày, lại là người còn giữ
được cái tinh túy của âm hưởng
giọng nói Hà Nội, trong khi có thể
có những người Hà Nội chính
tông đã đánh mất.
Vị giáo sư người Mỹ,
ghé thăm Việt Nam
như một người khách cỡi ngựa xem hoa,
nhưng mang mặc cảm của cuộc chiến tranh
hơn 30 năm trước. Qua những gì ông tai nghe
mắt thấy, mặc cảm của ông với tư
cách một người Mỹ bị xóa bỏ. Những đổi thay trong mọi lãnh vực
quan trọng nhất của đời sống nơi đất
nước này khiến ông vui lòng. Chúng mang đặc thù Mỹ trong mọi
đường đi nước bước. Người dân Việt Nam lại nhìn về
người Mỹ như những anh khổng lồ
giàu có, hào phóng, dễ thương.
Ít nhất là ông giáo sư
người Mỹ tin như vậy khi nhận lời
chào thân thiện của cô gái trẻ với
câu nói tiếng Anh bập bẹ. Sự tin
tưởng dễ dãi đến độ ông nghĩ
rằng, chỉ với cây viết chì nhỏ mọn
làm quà là ông sẽ có thể chinh phục
được mọi người.
Dù sao, đất nước cũng đã
đổi thay, không còn ảm đạm như 30
năm trước, 20 năm hay 10 năm trước nữa.
Cùng với sự phụ trợ đắc
lực của các phương tiện khoa học kỹ
thuật hiện đại, thế giới ngày
càng tiến gần đến giai đoạn
toàn cầu hóa. Những giao lưu văn
hóa, chính trị, xã hội, kinh tế xảy
ra với tốc độ rất nhanh, khiến cho nhiều
nền văn hóa đã không tự chuẩn bị
kịp để đối phó với những thay
đổi quan trọng, có khả năng làm lung
lay đến tận nền tảng những nền
văn hóa ấy, dù chúng đã
được bồi đắp và gìn giữ từ
nhiều ngàn năm. Trong dòng biến chuyển
đầy ngoạn mục ấy, nước Việt Nam
không thể không bị lôi cuốn theo, dù chế
độ chính trị vẫn là độc
tài toàn trị. Trong ý nghĩa đó,
tôi nhìn về đất nước với hy vọng
về những đổi thay mang tính tích cực,
dù chỉ là sự mô phỏng, dù mang
đầy đặc thù Mỹ trên mọi
khía cạnh của cuộc sống, nhưng như thế
vẫn còn hơn là cứ trì trệ, lẹt
đẹt mãi.
T.Vấn
Tháng 1-2008
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)