KỂ TỘI ÔNG
TÝ
(Bảo Tâm)
***
Không hiểu tại sao một con vật nhỏ
xíu lí lắc như con Chuột lại được
cái vinh dự chễm chệ lên đứng ở
vị trí đầu bảng trong số 12 con giáp
theo âm lịch. Một sự lạ lùng khó hiểu
hơn nữa, nó còn vượt lên trên cả
những con vật to tướng như con Trâu hiền
lành (Sửu), con Cọp hung dữ (Dần), kể cả
con Rồng đẹp rực rỡ (Thìn) trong truyền
thuyết. Lịch sử nhân loại trải qua biết
bao thời đại hưng thịnh, kể cả nền
văn minh khoa học hiện đại ngày nay vẫn
chưa khám phá ra được nguồn gốc
của điều huyền bí này, để rồi
cứ sau mỗi chu kỳ 12 năm, phần đông
các sắc dân Châu Á lại vẫn
bình thản nhắc đến năm Tý -
đón Xuân con Chuột.
Vài dòng mở đầu trên
đây nói lên sự tò mò qua mớ
kiến thức tầm thường của một
"ông già đang còn mê cầm
bút". Gần đây, có lần hân hạnh
được tiếp kiến một đồng
hương thuộc thế hệ đàn anh qua đề
tài trên, tôi chỉ thấy ông cười
và nghe trả lời một câu thật khôi
hài, gọn lỏn: "Ông Trời cho con Chuột
được quyền cầm đầu 12 con giáp bởi
vì nó có trí khôn". Thế là
khỏi cần phải căn cứ vào đâu nữa,
tôi nghiệm ra hình như lão ông nầy
nói rất có lý, có lý lắm ! Vậy
nhân dịp đón Xuân con Chuột - Xuân Mậu
Tý 2008, trước hết tôi xin kể một
câu chuyện cổ tích thuộc loại truyền
khẩu dân gian, không rõ xuất xứ từ
đâu, vào thời điểm nào, chỉ biết
từ thuở thiếu thời có lần tôi
được Ông Ngoại của mình kể cho
nghe cũng vào dịp đón Xuân con Chuột.
Kính mời quý bạn thưởng thức.
***
Kể từ thuở
sơ khai hồng hoang, tất cả loài vật xuất
hiện trên trái đất đều có
cánh, biết nghe và hiểu được tiếng
người. Ngọc Hoàng Thượng Đế truyền
lệnh mở cuộc thi tuyển chọn 12 con vật
nào khôn ngoan nhất, lanh lợi nhất, bay
lên Thiên Đình gặp Ngài trước
nhất để được xếp hạng làm
chủ thời gian, đem lại nhu cầu sự sống
cho những "đứa con cưng của Ngài"
dưới trần thế, đó là loài
người. Hân hạnh biết là bao ! Thế
là muôn loài rần rật ghi danh, đăng
đàn ứng thí. Đến giờ khai hội,
các Thần tuân lệnh Ngọc Hoàng khai lễ:
- Thần Sấm cho nổ vang rền mười hai tiếng
sấm cùng lúc - Thần Phong thổi gió
thành bão xoáy tung bốn hướng - Thần
Thủy làm nước dâng lên thật nhanh thật
cao - Thần Ánh Sáng (mặt trời) nhắm mắt
để cho không gian tối sầm lại. Cuộc
thi kết thúc vào lúc giao thừa, đó
là thời khắc phân biệt giữa ngày
và đêm, giữa năm cũ và năm mới.
Lúc đó muôn loài đều mở to
đôi mắt nhìn thẳng vào chốn
Thiên Đình sáng rực, uy nghi lộng lẫy.
Tất cả đều kinh ngạc reo ồ lên khi thấy
một chú Chuột Nhắt nhỏ xíu đang
ngước mắt vẫy đuôi quỳ sát
dưới chân Ngọc Hoàng. Thứ tự xếp
hàng phía sau đó là con Trâu, con Cọp,
con Mèo, con Rồng, con Rắn, con Ngựa, con Dê,
con Khỉ, con Gà, con Chó, và cuối cùng
là con Heo. Tội nghiệp con Heo lệt bệt nhất
nhưng cũng ráng về tới đích.
Còn lại vô số những con vật khác, kể
cả những con to tướng mà bất tài
như cá Mập dưới biển, con Voi trên rừng
đến sau đều bị loại. Sau khi hoan hỉ
tuyên bố kết quả cuộc thi, Ngọc
Hoàng liền ban áo mão, cùng lúc tấn
phong danh hiệu cho từng con vật đoạt giải
theo thứ tự: "Chuột: TÝ - Trâu: SỬU -
Cọp: DẦN - Mèo: MẸO - Rồng: THÌN - Rắn:
TỴ - Ngựa: NGỌ - Dê: MÙI - Khỉ: THÂN
- Gà: DẬU - Chó: TUẤT - Heo: HỢI".
Nghe qua nội dung chuyện cổ tích trên,
có thể có người muốn tìm hiểu
về cái trí khôn của loài Chuột ở
chỗ nào ? Đó là nó nhanh nhẹn
bám vào chóp sừng con Trâu, vì
thân hình nó nhẹ nhàng bé bỏng
quá khiến con Trâu không hay biết gì cả.
Chờ cho đến khi "ân nhân" của
mình may mắn về tới đích trước,
Chuột ta liền lẹ làng nhảy xuống ngồi
trước mặt Trâu, ôm chân Ngọc
Hoàng.
Chuyện kể nghe ra rất hoang đường,
đầy tính huyền thoại, nhưng cũng rất
có lý để bình giải, để luận
chứng. Nhân loại đang sống trong thời đại
của thế kỷ 21, thực tế cũng không thiếu
gì những con người thông minh, thừa
trí khôn, giàu mưu lược. Thay vì họ
dùng trí, dùng mưu đó để
đem lại quyền lợi và sự giàu mạnh
cho dân cho nước, thì ngược lại
có những người chỉ nhằm đem lại
vinh thân phì gia cho bản thân và gia
đình họ mà thôi. Ôi, buồn thay !
Bây giờ, kính mời quý bạn
hãy cùng tôi lội ngược thời gian
đúng 60 năm về trước, rồi dừng lại
ở cái mốc đầu tiên là năm Mậu
Tý 1948. Tại đây chúng ta có quyền
tha hồ mà tìm hiểu "cái túi
khôn" của loài Chuột nó lớn đến
cỡ nào ? Trong mỗi câu chuyện nói về
"Ông Tý hay Ngài Tý" dưới
đây là những sự kiện mắt thấy
tai nghe trên quê hương tôi, xảy ra
cùng thời với những biến cố chiến
tranh lẫn thiên tai dồn dập từ Bắc tới
Nam, khiến dân tộc ta phải triền miên
gánh chịu quá nhiều tang thương, bất
hạnh.
***
Bà con người Việt mình, dù ở
trong nước hay ngoài nước, lớn lên
và trưởng thành trong thời kỳ chiến
tranh Việt-Pháp từ năm 1945 đến 1954, chắc
hẳn không bao giờ quên đại tai họa
đến từ loài Chuột, một giống vật
bình thường sống chui nhủi gần với
người, thế mà bỗng dưng vùng
lên tung hoành khủng khiếp đúng vào
năm Mậu Tý 1948 (năm con Chuột), một sự
trùng hợp như có bàn tay sắp đặt
nhiệm mầu nào đó rất khó hiểu.
Hồi đó sự đi lại, di chuyển vì
sinh kế dù trong một giới hạn rất gần
đi nữa cũng vô cùng khó khăn, bởi
khắp nơi đều bị đồn bót giặc
Pháp vây quanh. Không biết ngoài Bắc ra
sao, trong Nam thế nào, chứ ngay tại miền Trung
- chỉ nói riêng quê hương Quảng Nam của
tôi, thì ôi thôi - ê chề khốn khổ
vì nạn Chuột. Làm ăn ngóc đầu
không nổi vì Chuột, đói lẫn
rách vì Chuột, bệnh hoạn chết chóc
vì Chuột. Không biết Chuột rừng, Chuột
đồng, Chuột cống, Chuột nhắt ở
đâu năm đó tràn về nhiều vô
số kể. Ra đồng gặp Chuột, về
nhà gặp Chuột, ăn cũng thấy Chuột, ngủ
cũng bị Chuột quấy phá. Thời
đó, dân làng tôi rất ít người
sống đến tuổi 60, cụ nào hữu
phúc bước qua lớp tuổi 55 kể như
được xếp vào hạng lão làng,
đại thọ. Được hỏi về nạn Chuột
năm đó, các cụ đều lắc đầu
ngao ngán, cho biết cả đời chưa hề thấy
một hiện tượng lạ lùng như thế.
- Mùa màng mất trắng, nạn
đói đe dọa trầm trọng.-
Ruộng đất
quê tôi được xếp vào hạng mầu
mỡ, tốt nhất miền Trung. Có đến
hơn ba phần tư thuộc loại Công Điền
(tức ruộng nước). Mỗi năm nhà
nông làm chuyên canh hai mùa lúa chính
(tháng 3 và tháng 10), có nơi làm
thêm mùa phụ tháng 8 dành cho ruộng rộc
(tức ruộng thấp). Số còn lại là loại
Ba Châu (tức đất đồi, gò cao)
dùng làm thổ ký, trồng bông vải, bắp,
đậu, khoai, sắn, các loài rau quả. Cũng
có nơi gieo trồng loại lúa trắng, bởi
giống lúa nầy không cần nhiều nước.
Mùa lúa tháng 3 năm đó (Mậu
Tý, 1948), hầu như không nơi nào thu hoạch
được vì nạn Chuột tác oai tác
quái chưa từng thấy. Khi người nông
dân bắt đầu xuống đồng kể từ
những ngày cuối tháng 10 năm trước,
biết bao công sức tiền bạc bỏ ra cho những
công đoạn cày bừa làm đất, bắt
mạ, cấy lúa, làm cỏ, bón phân
v.v...Ăn Tết xong, chờ cho đến đầu
tháng hai năm sau, khi cây lúa bắt đầu
ngậm đòng đòng (sắp trổ bông),
có nơi bông lúa còn đang ngậm sữa
vươn mình khoe sắc dưới ánh mặt
trời - thì chỉ trong một đêm thôi -
sáng ra nhìn cả cánh đồng lúa non,
vô số những thửa ruộng một màu xanh
rì xinh xắn chỉ còn trơ vơ gốc rạ.
Riêng những thửa ruộng lúa nào gần
nhà người ở thì may mắn được
Chuột chừa lại một ít dọc ven bờ
nhưng cũng không còn nguyên vẹn nữa.
Lúa non đâu phải là nguồn thực phẩm
cho Chuột ăn, chúng chỉ cắn và phá.
Bởi mùa màng đang lâm nguy cơ bị mất
trắng, bà con ôm nhau khóc, để rồi
sau cùng chỉ biết thở dài, than trời
trách đất. Các loại bắp, đậu
và những cây lương thực phụ ngắn
ngày cũng cùng chung số phận. Đâu
có phải chỉ một đêm, mà mãi
cho đến gần hết tháng 2 âm lịch,
toàn bộ những cánh đồng lớn, nhỏ
trên quê hương tôi đều bị giặc
Chuột cắn nát tan tành. Từ đó, viễn
ảnh về nạn đói đe dọa trầm trọng,
bao trùm khắp nơi. Nhà nhà tích lũy
lương thực chỉ đủ ăn đến
tháng 3 âm lịch, đâu có ngờ đến
ngày mùa tất cả đều tay trắng.
Câu tục ngữ "Tạm nhịn đói nằm co, chờ
được no ngày mùa" năm đó trở thành
vô nghĩa, mùa màng mất sạch vì nạn
Chuột, cơm đâu có mà ăn cho no.
Thế rồi việc gì đến cũng
đến. Kể từ tháng tư âm lịch
năm đó, nạn đói quê tôi bắt
đầu bị ám ảnh nặng nề. Từ
các loài rau cỏ có thể ăn được,
cho đến các loài cây củ hoang dại
đều được con người tận tình
chiếu cố. Vô số gia cầm gia súc, thậm
chí đến con chó là bạn thân thiết
gần gũi nhất của con người, có khi cũng
trở thành món thực phẩm cứu nguy những
cơn đói lả do nạn Chuột gây ra.
- Tôn vinh Chuột lên chức
Ông, có nơi gọi là Ngài.-
Người dân quê tôi thời
đó vốn nhiều đời sùng bái
các hình thức dâng lễ vật cúng tế
theo phong tục. Không biết làm sao trừ nổi
nạn Chuột phá hoại mùa màng, họ
bèn bàn bạc cùng nhau mua hương
đèn, sắm lễ vật rồi mang ra tận
ngoài ruộng cúng Chuột, có nơi còn
lập trai đàn cầu xin "Ông Tý hay
Ngài Tý" đừng cắn phá lúa của
họ nữa. Không biết các Ông, các
Ngài Tý có hiển linh chứng kiến nỗi
lòng van xin cầu khẩn tha thiết của họ
không, chỉ biết tốc độ cắn phá
lúa của Chuột càng ngày càng tăng
chứ không hề giảm chút nào. Tôn
vinh Chuột, cúng vái Chuột chỉ là
bước đường cùng, để rồi tất
cả đành tuyệt vọng chứ biết
làm sao bây giờ.
Nực cười nhất là câu chuyện
nói về ông Chú họ của tôi.
Ông vốn là dân nhậu đế thuộc hạng
thượng thừa trong làng ai cũng biết. Gia
đình ông cũng nằm trong nhóm người
tiên phong đi làm công việc "hối lộ
Chuột" nói trên. Hôm nọ trong lúc
say xỉn trên đường từ làng nhậu
về, tình cờ thấy cảnh vợ con đang
khúm núm quỳ lạy cúng Chuột bên
đám ruộng lúa đang bị Chuột cắn
phá gần hết trước nhà. Xung khí bốc
đồng nổi lên, ông tụt quần
"móc chim ra" tè tưới vung vít bừa
bãi ướt cả hoa quả hương
đèn, xong rồi ông đập bàn múa
gậy, văng tục chửi thề inh ỏi, vợ con
ông sợ quá chạy tứ tán. Ông lớn
tiếng thách thức Chuột đêm nay đố
con nào dám tới ruộng lúa của ông.
Chuyện nhậu say túy lúy rồi lại tỉnh
táo như thường của ông Chú tôi
gần như cơm bữa, gia đình chẳng ai bận
quan tâm đến. Dường như có chút
ân hận việc mình đã làm khi chiều,
cho nên suốt đêm hôm đó ông cứ
cầm gậy ra đi lang thang quanh đám ruộng
như người điên. Sáng ra có người
phát hiện ông nằm thoi thóp vắt vẻo
ngang bờ ruộng, miệng ói ra sặc sụa
mùi rượu lẫn máu, ai ai cũng bảo
ông bị trúng gió. Rất may nhờ người
cứu kịp, nếu trễ chút nữa gia
đình không tránh khỏi lụy tang vì
Chuột.
- Chuột cũng biết chơi
trò tinh nghịch, giỡn mặt với người.-
Xóm nhỏ đầu
làng tôi có anh Ba Sinh, tình nguyện đi
lính Vệ Quốc Đoàn cho Việt Minh năm
17 tuổi, chưa được tròn năm
đã bị giải ngũ vì thương tật
(hư một mắt trái). Người đời
thường nói: "Có tật có
tài", mà đúng như vậy. Từ
ngày vết thương lành hẳn, anh nổi tiếng
có biệt tài săn chim Cu Đất. Giống
chim nầy ở quê tôi nhiều lắm, nó
là đồng hồ báo thức như gà. Mỗi
sáng sớm mà nghe Cu Đất gù gù
trước sân hay trên nóc nhà là
như có sự thúc giục không ai tài
nào ngủ được. Phương tiện để
săn Cu Đất của anh là những cục đất
sét cứng phơi khô được anh gọt
tròn vo như trái lựu. Mỗi khi ra đồng
làm việc, nếu có ai đó tình cờ
thấy anh đang đứng vào tư thế sẵn
sàng ném đất, thì con chim Cu Đất
đang chạy trước mặt rất mà khó
thoát khỏi cú ném ngoạn mục tài tử
của anh, dù nó đang chạy thật nhanh, hay
nó vừa cất cánh bay lên khỏi mặt
đất. Thịt chim Cu Đất ăn rất ngon,
còn bổ dưỡng nữa. Mỗi khi nhà ai
có đám Giỗ, muốn có món Cu Đất
rô-ti đãi khách thì chỉ cần "hợp
đồng" với anh trước một ngày hai
ba chục con cũng có.
Nạn giặc Chuột
năm đó cũng là dịp để anh Ba Sinh
trổ tài sát Chuột thật đáng nể.
Đi đâu ban ngày anh cũng mang lè kè
trên vai một giỏ đất cục, có khi nhờ
thằng nhỏ hàng xóm mang giùm theo sau. Anh lội
khắp bụi bờ, góc vườn, bờ ruộng,
con Chuột nào vô phúc lọt vào tầm
ngắm "độc nhãn" của anh thì kể
như tới số. Con số Chuột bị giết
dưới tay anh nhiều lắm, không nhớ hết.
Hình như chúng cũng quen mặt và biết
cả nhà ở của anh nữa, cho nên ban
đêm nằm ngủ anh hay bị Chuột quấy phá, khi thì cắn
vào gót chân anh, khi thì chạy ngang đầu
anh kêu chí chóe như muốn khiêu
khích giỡn mặt với anh, khiến anh bực
mình lắm. Có lúc anh cũng muốn
rình rình chồm dậy tóm cổ vài con
Chuột cho bõ ghét, thế là nó biến
mất như biết trước mưu toan của anh. Quấy
phá kẻ thù chưa đã, dòng họ
Chuột chuyển sang cắn xé quần áo của
anh. Có một đêm nọ, còn mấy bộ
quần áo ngấm mồ hôi của anh đêm
qua chưa kịp giặt móc trên vách phên
đều bị lũ Chuột cắn nát tơi tả
hết, không bộ nào còn mặc được
nữa. Hàng xóm nghe chuyện lạ tới
thăm ai cũng ngửa mặt lên mà cười.
Một chuyến về thăm quê hương năm
2000, cảnh cũ vườn xưa hoàn toàn xa lạ.
Tôi nhờ người đưa tới nhà
thăm anh Ba Sinh nhưng chẳng ai biết. Ai cũng bảo
xóm nầy chỉ có ông "Ba Chột"
(có nghĩa là ông Ba một mắt), ông
già đó đang ở trong cái chòi tranh
kia kìa. Tôi đến nơi, à thì ra
đích thực đây là anh Ba Sinh rồi. Bạn
bè xa nhau mấy chục năm gặp lại, mừng
rơi nước mắt. Tội nghiệp, cả đời
anh luôn nghèo khó, cô độc. Cái huy
chương thương binh bám đầy bụi bặm
vẫn còn móc trên bàn thờ, như vẫn
luôn thờ ơ với người chủ nó. Nhắc
tới thành tích diệt Chuột của anh trong
quá khứ, anh vỗ vai khen ngược tôi
là nhớ dai, còn anh thì đã xem như
mớ tro tàn đâu còn ý nghĩa gì
để mà nhắc tới nữa.
- Thi đua diệt Chuột cứu
đói, làm một lợi hai.-
Không rõ
sáng kiến "diệt Chuột cứu
đói" từ đâu loan truyền rất
nhanh. Thế là vô số các loại bẫy
Chuột như bẫy lồng, bẫy đập, bẫy
lò xo, bẫy ống tre v.v... được bung
bày ra cài khắp đồng, kể cả trong
nhà lẫn ngoài vườn tược, những
nơi có dấu chân Chuột chạy qua. Thuốc
diệt Chuột tự chế theo kinh nghiệm cổ truyền
cũng góp phần đáng kể. Tuy nhiên, biện
pháp trên chỉ có hiệu lực ở giai
đoạn vài tuần đầu, rồi đâu
cũng vào đấy. Có người lén
rình nhìn Chuột tránh bẫy, phá bẫy
thật ngoạn mục, đúng là nó
có trí khôn gần giống người. Cuối
cùng, con người chỉ còn cách tìm
đến tận các hang ổ của Chuột
mà lùng sục tìm bắt và giết. Cuộc
chiến giữa Chuột với người trên quê
hương tôi ngày càng trở nên khốc
liệt bằng những "chiến dịch diệt Chuột"
được liên tục phát động mạnh
mẽ, trong hàng ngũ thanh-thiếu-niên là lực
lượng nòng cốt nhất. Thành tích diệt
Chuột được tính bằng số
đuôi Chuột phơi khô, mới nghe tưởng
như đùa nhưng đó là sự thật.
Cũng bắt đầu từ đó, món thịt
Chuột trở thành nguồn thực phẩm cứu
đói chính của con ngưưi. Dưới
bàn tay các bà nội trợ thôn dã,
thịt Chuột được chế biến thành
những món ăn rất ngon, nhiều dinh dưỡng
nữa. Nào là thịt Chuột xào lăn với
gừng sả ớt, thịt Chuột kho với chuối
chát hoặc khóm mít non, thịt Chuột
xào dứa, thịt Chuột rô-ti v.v.. Dần dần
về sau, những món ăn cứu đói nầy
trở thành mồi nhậu khoái khẩu cho
các đám đệ tử lưu linh trong
làng. Với những thành quả diệt Chuột
"Làm Một Lợi Hai" nói trên, cuối
cùng dẫn tới hậu quả tác hại
không nhỏ là vô số các bờ ruộng
có hang Chuột đều bị con người tự
đào nát bới tung lên. Họ đâu
có nghĩ tới cái nỗi khổ buộc con
người - trong đó có chính họ phải
hao công tổn sức đắp lại như cũ
để giữ nước, nếu không thì
mưa xuống nước đâu còn để
cày cấy trong những vụ mùa kế tiếp.
- Chuột tấn công Mèo, chuyện
lạ chưa hề thấy.-
Thiên chức Trời ban cho giống Mèo
là bắt Chuột, thế nhưng không hiểu tại
sao năm đó con Mèo nào cũng sợ Chuột,
cứ hễ thấy Chuột thì Mèo liền lẩn
tránh. Có khi lẩn tránh không kịp, số
đông Chuột ở đâu cùng lúc
tràn tới tấn công Mèo, coi thường sự
có mặt của người lúc đó.
Tưởng như chỉ có một vài gia
đình gặp cảnh lạ lùng quái gở
nầy, nhưng hỏi ra thì nhà nào cũng
nói như thế. Dường như giống Mèo
cũng bị ám ảnh bởi nạn Chuột, cho
nên Mèo không dám bắt Chuột nữa. Vừa
giận vừa ghét vì nuôi Mèo không
còn cần thiết, nhiều gia đình nhẫn
tâm ăn cả thịt Mèo. Có người
còn thẳng tay đánh đuổi Mèo ra khỏi
nhà, lâu dần trở thành Mèo hoang để
rồi đêm đêm đói quá, lén
về nhà bắt gà bắt vịt của gia chủ.
Tình nghĩa giữa người với Mèo trong
những gia đình đó một thời
không còn là truyền thống yêu
thương nữa.
Về sau có người đặt vè
châm biếm cái tình của con người sao
mà quá tệ bạc đối với con Mèo
từng được họ ví như đứa con
cưng trong gia đình. Tất cả cũng từ nạn
Chuột mà ra nên nỗi.
- Chuột trả thù, Chuột
đốt nhà người.-
Xét cho kỹ thì loài Chuột không
những khôn mà còn đa mưu nữa,
hình như nó cũng hiểu được tiếng
nói của người. Tôi còn nhớ có
một lần cái nhà tranh vách tre của
ông hàng xóm suýt bị cháy rụi
vì nạn Chuột trả thù. Theo lời ông
kể thì lúc xế trưa hôm đó, con
cháu trong gia đình ông bắt về
được hai giỏ Chuột sống thật nặng.
Muốn có thịt Chuột ăn cho nhanh, họ giết
Chuột bằng cách dùng nước thật
sôi tưới lên hai giỏ Chuột cho đến
khi không còn nghe tiếng chút chít của
Chuột nữa. Sau đó mọi người xúm
lại kẻ chặt đầu cắt đuôi,
người lột da móc ruột. Khi rổ thịt
Chuột được rửa sạch đem vào bếp,
bà vợ của ông tình cờ thấy hai con
Chuột lớn da lông một màu xám sậm
đang núp trên xà nhà nhìn xuống.
Bà chỉ tay vào rổ thịt Chuột rồi lớn
tiếng trêu: "Hai đứa bây có muốn
chết chung với nhau thì cứ chạy xuống
đây". Nói xong bà vội vã nổi lửa
làm món Chuột kho nghệ thơm nức mũi,
lúc đó trời đang nhá nhem tối. Trong
khi cả gia đình đang ăn ngoài sân,
bà sực nhớ bếp lửa chưa vùi tắt.
Vội quay lưng đi vào bếp, bỗng bà hốt
hoảng la to: "Cháy cháy, lửa cháy".
Mọi người buông đũa theo bà chạy
nhanh vào bếp. Bà đâu có ngờ thấy
rõ đúng hai con Chuột đang núp trên
xà nhà khi nãy, một con đang ngước
đầu nhìn lửa đang cháy trên
vách bếp, còn con kia thì bò thụt lui
thật nhanh cũng về phía vách bếp, miệng
nó đang ngậm đuôi que củi tre mà
phía đầu que kia lửa đang cháy đỏ.
Rất may gần đó có chum nước mưa
đêm qua còn đầy, nên nhờ
đó mà họ dập tắt được ngọn
lửa đang cháy trên vách bếp thật
nhanh. May mà phát hiện kịp thời, chứ nếu
chậm chút nữa lửa sẽ cháy lan vào
nhà trong thì vô phương cứu chữa. Hai
con Chuột tội phạm kia lì lợm gan dạ thật,
hắn vẫn tỉnh bơ chạy ra núp bên bụi
chuối nhìn vào, như có vẻ nuối tiếc
cái hành động trả thù người
không thành của hắn. Mãi cho đến khi
có người thấy rượt theo, nó mới
chạy trốn ra sau vườn mất dạng.
Tin đồn về Chuột trả thù, Chuột
đốt nhà người loan đi rất nhanh, khiến
cho mọi người e dè lo sợ không ít. Họ
khuyên nhau nên cẩn thận lửa củi khi nấu
ăn, dập tắt hết lửa khi ra khỏi nhà,
nên chứa nước đầy chum đầy vại
quanh bếp để đề phòng nạn Chuột
trả thù tác quái.
- Giặc Pháp bắn súng cối
vào làng cũng vì Chuột.-
Càng tìm đủ mọi giải pháp
trừ Chuột bao nhiêu, chúng càng sinh sôi
nẩy nở bấy nhiêu, giống nào theo
đàn nấy. Cuối cùng dân làng
tôi cùng bàn bạc với nhau đi đuổi
Chuột hằng đêm. Thà chịu khó chịu
khổ còn hơn để mùa màng mất sạch,
sẽ bị chết đói.
Một đêm trăng rằm tỏa ánh
sáng vằng vặc, làng trên xóm dưới
đều vang vang tiếng la hét hù dọa đuổi
Chuột, xen lẫn tiếng trống, tiêng phèng
la, kể cả tiếng khua xoong gõ nồi inh ỏi dọa
Chuột, ai có sáng kiến gì gây nên
tiếng động mạnh đuổi Chuột cũng
bung bày ra hết. Bọn lính Pháp ở đồn
Trường Giảng (đang trấn giữ liên tỉnh
lộ 20) dù đã được lý trưởng
sở tại báo cho biết là đêm
đó dân làng sẽ tổ chức đuổi
Chuột phá lúa, thế mà chúng vẫn
không tin. Đến khi nghe tiếng động lạ
càng lúc càng dồn dập, bọn chúng
cứ tưởng là Việt Minh Cộng Sản về
bắt dân đi tập trận công đồn. Thoạt
đầu chúng bắn từng loạt đạn lửa
đe dọa, tiếp theo là hỏa châu sáng rực,
có người khôi hài bảo bọn
lính Pháp cũng thông cảm giúp cho
ánh sáng để yểm trợ tinh thần
đuổi Chuột cứu lúa của dân
mình. Đâu có ngờ sau đó không
lâu, hàng loạt trái đạn súng cối
81 ly xè xè rơi xuống nổ ầm ầm khắp
nơi, thế là dân làng chịu hứng
thêm cảnh máu đổ thịt rơi, kêu
trời không thấu.
- Ngậm ngùi bỏ quê
hương ra vì nạn Chuột.-
Đã đến lúc biết không
còn sáng kiến hay giải pháp nào khả
dĩ cứu vãn mùa màng khỏi bị mất
trắng vì nạn Chuột được nữa. Bấy
giờ không ai bảo ai, dân làng tôi ai
còn sức, đôi chân còn lê lết
được đều cùng nhau lần lượt
trốn về thành phố Đà Nẵng, Hội
An, hoặc gần nhất là thị trấn Vĩnh
Điện để kiếm ăn sống qua ngày.
Tuy nhiên, cuộc di cư vạn bất đắc
dĩ nầy cũng đâu có dễ dàng
suông sẻ, mạng lưới đồn bót giặc
Pháp ngày càng nhiều, đều là những
hiểm họa khó lường trước được.
Tội nghiệp, dân làng tôi cũng có
người bỏ xác dọc đường trong sự
ra đi đó. Cuối cùng thì đa số
trong họ cũng may mắn đạt được
ước nguyện của mình. Riêng tại
thành phố Đà Nẵng, chỉ mới trong
tháng đầu đã tiếp nhận đến
hơn 5 ngàn người từ các quận Điện
Bàn, Đại Lộc, Tam Kỳ, Duy Xuyên v.v...
Trong hoàn cảnh chiến tranh, vấn đề nầy
quả là một khó khăn lớn cho chính
quyền Quốc Gia lúc đó. Lo cho dân
các vùng nông thôn bị mất mùa
đói khổ kéo về vì nạn Chuột tạm
có được chén cơm manh áo sống
qua ngày đã khó, lo cho họ có nơi tạm
trú, có việc làm ổn định lâu
dài lại càng khó hơn, bởi vì
có đến hơn 90% dân "tị nạn Chuột"
muốn ở lại Đà Nẵng luôn, không
muốn trở về quê nữa.
- Nguồn gốc xảy ra nạn Chuột
dần dần được khám phá.-
Dân chuyên sống bằng nghề đi
tìm "Trầm Hương" dường như
có gia đình thuộc hệ cha truyền con nối.
Có nhiều câu chuyện nói về những
con người "Ngậm Ngải Tìm Trầm" ở
quê hương tôi mới nghe tưởng là
chuyện hoang đường nhưng đó là sự
thật. Có dịp tôi sẽ hầu chuyện
cùng bạn đọc sau.
Dịp Tết Đoan Ngọ năm đó (Mậu
Tý 1948), có mấy người đi tìm Trầm
Hương từ thượng nguồn dọc biên giới
Hạ Lào trở về thăm nhà nghe tin nạn
Chuột phá hoại mùa màng ở quê
mình gây nên nạn đói trầm trọng
khiến họ vô cùng bàng hoàng xót
xa. Bỗng nhớ lại những năm trước cũng
với nghề đi tìm Trầm Hương, ngày
nào vào rừng họ cũng gặp hàng
đàn Chuột, hoặc tình cờ ngủ
trên hang Chuột, có khi lại vô tình
đi lạc vào động Chuột đông đến
cả ngàn con, thế mà năm nay ở những
nơi "khỉ ho cò gáy" đó
không hề thấy bóng dáng một con Chuột
nào. Bấy giờ mọi người mới hiểu
ra, họ có đủ lý lẽ để
khám phá ra nạn Chuột năm đó đều
có nguồn gốc từ Hạ Lào. Có
người còn mạnh dạn lên tiếng:
"Dòng họ Chuột "hành quân" từ
thượng nguồn về đồng bằng cho ta thấy
chúng đều có tổ chức, cương kỷ
hẳn hoi. Bằng chứng là thỉnh thoảng
có người phát hiện xác Chuột chết
vì chúng cắn giết lẫn nhau ngoài ruộng
lúa, có khi vài con, cũng có khi đến
hàng chục con, biết đâu những con Chuột
xấu số kia đã bị đồng bọn
"thanh trừng vì bất tuân thượng lệnh".
Quê hương mình có phải là
vùng bị "Thủ lãnh Chuột" ra lệnh
tạm chiếm đóng để cho quân số
Chuột dừng chân nghỉ ngơi chờ lệnh mới"
?
Tiếp theo là một sự kiện trùng hợp
rất hi hữu xảy ra sau đó chừng một
tháng. Đó là bất ngờ được
tin từ giới xe đò Đà Nẵng - Quảng
Ngãi cho biết chỉ kể trong một đêm
thôi, những đoạn quốc lộ 1A thuộc
địa phận Mộ Đức, Sa Huỳnh, ra tới
Chu Lai, Sông Vệ, Thanh Quít, Cẩm Lệ v.v...
đều có vô số, có nơi dày
đặc xác Chuột lớn nhỏ bị xe
đò dân sự lẫn xe nhà binh cán chết.
Mùi xú uế hôi thối từ xác Chuột
chết khiến những ai có nhà ở gần phải
tạm dọn đi nơi khác. Hầu hết dấu
tích Chuột để lại đều chứng tỏ
là chúng răm rắp nối đuôi nhau
trên đường di tản về hướng
chánh đông, để rồi sau đó dần
dần mất tích dưới những cơn
sóng lớn bạc đầu dồn dập dọc bờ
biển Thái Bình. Người người lại
bàn tán xôn xao: "Biết đâu,
đó cũng là điềm Trời".
Về lâu về dài sau nầy, hình
như dòng giống Chuột còn lại trên
quê tôi là "giống Chuột địa
phương", thuộc loài gặm nhấm
bình thường, con người không còn phải
đối đầu lo sợ loài Chuột từ Hạ
Lào kéo nhau về tác oai tác quái nữa.
***
Vụ lúa
mùa phụ tháng tám năm đó
được trúng mùa chưa từng có, tiếp
theo là vụ lúa tháng mười cũng
trúng mùa tương tự. Cả hai vụ
mùa đều mang lại ý nghĩa đẹp
chưa từng thấy đến từ sức chịu
đựng vô cùng gian khổ của con người.
Gần nửa năm đói cơm thèm cháo,
bệnh tật chết chóc triền miên, thế
mà đêm ngày họ vẫn lăn xả
vào công việc đồng áng. Có những
người nguyện đem lưng ra cày bừa thay
trâu, đêm ngày quần quật dầm mưa
dãi nắng. Mỗi hạt lúa thâu hoạch từ
bàn tay người nông dân lúc bấy giờ
được miệng đời ví bằng một
bát mồ hôi của chính họ và gia
đình họ.
"Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
"Nhớ người mưa nắng dạn
dày gió sương.
"Rủ nhau về với ruộng
nương,
"Tình quê, tình lúa vấn
vương tơ lòng.
Bốn câu ca dao đồng quê mộc mạc
giàu tình đậm nghĩa nói trên
không biết tác giả là ai, thế mà vẫn
có tác động xa gần không ít. Từ
đó, có những người một thời
lìa bỏ quê hương ra đi thật xa
vì nạn Chuột cũng lần lượt khăn
gói quay gót trở về. Họ chấp nhận
trở về sống với đời nông dân cố
hữu, cần cù chất phác của họ. Họ
trở về dù phải sống trong hoàn cảnh
hứng chịu bom rơi đạn lạc, chiến tranh
bao trùm ngày càng khốc liệt. Tâm
tình của họ, quê hương là tất cả.
Mãi cho đến ngày đất nước
có được thanh bình nhưng bị chia
đôi bởi dòng sông Bến Hải kể từ
20 tháng 7 năm 1954, những ám ảnh kinh
hoàng về nạn Chuột năm xưa dường
như lúc bấy giờ chẳng còn nghe ai nhắc
tới nữa. Thời gian như áng mây qua cửa
sổ, mới đó mà đến nay đã
tròn chu kỳ 60 năm - Mậu Tý 1948 - Mậu
Tý 2008.
Hôm nay, lần đầu tiên tôi xin thay mặt
quý bạn đồng hương, đồng cảnh
và cùng đồng thế hệ được
ngồi viết lại câu chuyện nầy. Tôi viết
với một tâm hồn bình thản, bằng mớ
ký ức xa xăm một thời tuổi trẻ từ
từ sống lại trong lớp da nhăn nheo cằn cỗi,
lẫn trên mái đầu gần bạc trắng.
BẢO TÂM
(Hoàng Tố Lan chuyển)