Cội mai
(Ninh Hạ)
1.
Mai Trúc giật mình hốt hoảng
thức giấc bởi tiếng chuông cửa bị giật
liên tục, khẩn cấp. Saigon tháng cuối năm trời se lạnh. Ngày đến chậm. Sáu giờ
sáng mà hãy còn tối mịt. Tim đập mạnh. Hồi hộp
lo sợ, Trúc cuống lên, tỉnh ngủ.
Thôi rồi ! Tối hôm qua
mới lén mua chịu được thùng thuốc
tây, quà của chồng con bạn ở Mỹ gửi
về. Hôm nay định bương sớm
ra khu chợ trời bán chui, gom tiền đủ tối
mang trả. Kín đáo, cẩn thận,
trông trước ngó sau, thế mà hàng
xóm có tên khốn kiếp nào rình thấy
đi báo, nên công an tới
sớm xét nhà. Ðiệu này
thì nguy rồi. Thuốc bị tịch thu lấy đâu ra tiền mà chồng
cho chủ. Ăn nói làm sao hở trời
!
Trúc rùng mình. Sợ nhất
phải trân mình kiểm điểm trước tổ
dân phố. Nhục nhã, đắng
cay. Hàng xóm láng giềng thân quen, tối
lửa tắt đèn có nhau ngày cũ, chỉ
thời gian ngắn đã trở mặt, lên mặt.
Ðồ giáo gian ! Bỏ
dạy đi bán buôn phe phẩy. Trây
lười lao động. Ngồi
mát ăn bát vàng. Mấy câu này quen nghe nên cũng chai
lì. Nhưng hễ khi chúng xỉa
xói, đồ vợ sĩ quan ngụy phản động,
thì Trúc đau nhói. Không
những chỉ bị hàm hồ sỉ nhục
mà như bị đâm xoáy vào vết
thương đau đang gánh chịu.
Người đâm mũi giáo sắc
bén này không ai xa lạ mà chính
là con nhỏ nhà đối diện. Trước đây vợ chồng thường
khen, con nhỏ vừa đẹp mặt lại đẹp
nết. Gặp đâu cũng đon đả, lễ
phép thưa thầy thưa cô. Hôm ông
già nó chết, thấy gia đình đơn
chiếc, anh Nguyên chồng chị, lăng xăng
giúp đỡ, đem xe lớn xe nhỏ từ
đơn vị về lo ma chay tống táng như
người thân. Giờ thì mặt
câng câng, lạnh tanh như chưa hề quen biết.
Buổi sáng Nguyên xách khăn gói đi
“cải tạo”... một tháng (!), tối
cô ả qua nhà. Mặt vênh
vênh tự đắc, chẳng thèm chào hỏi,
đi thẳng từ trước ra sau, vòng qua
nhà bếp. Ðôi mắt lục lọi xoi
mói, xem “đối tượng” đã
đi trình diện chưa, hay còn lẩn trốn ở
nhà.
Mấy ngàn năm Phật Chúa rao
giảng từ bi bác ái, thì khó. Cộng
sản dạy căm thù thì chỉ một sớm
một chiều !
Tiếng chuông thúc bách.
Trúc không kịp buộc
tóc. Choàng
vội chiếc áo len mỏng, chiếc áo chồng
mua khi đi học ngoại quốc, nhè nhẹ mở
cửa để cho mấy đứa con khỏi thức
giấc. Qua miếng sân nhỏ quen thuộc,
đi nhanh về phía cổng, Trúc chưng hửng
thấy Thu Thảo, chị ruột của mình, mặt
mày hốt hoảng lo âu đang đứng
đó. Chị ở xa, tận mãi
trên Chợ Lớn.
Biến sắc, Trúc lập cập mở cửa,
hỏi dồn:
- Chị Thảo. Có... có chuyện gì
mà xuống sớm vậy ?
Lách qua cánh cửa cổng, chị
nghẹn ngào chưa nói được. Cầm tay em kéo
ngồi xuống mấy cái ghế con bên cái
bàn nhỏ kê cạnh cội mai giữa sân.
- Thôi nguy rồi em ơi, chồng em... thằng
Nguyên ngoài trại cải tạo đang đau nặng
... gần chết !
Trúc muốn xây xẩm nhưng ráng
bình tĩnh:
- Chị ... chị nói gì ?
Sao chị biết ? Em nhận được
thư anh ấy cách đây mới
mấy ngày. Anh cho biết vẫn mạnh
khỏe mà. Ai ... ai nói cho chị
?
Khóc thút thít, chị nói:
- Tối hôm qua đi chùa gặp chị
Thuyên. Chị ấy nhận được thư Nguyên tuần trước.
Nguyên nói bệnh cũ tái phát, xin gửi
gấp thuốc và thức ăn bồi
bổ.
Nghe đến đây Trúc òa lên khóc:
- Thôi đúng rồi ! Hèn gì mấy đêm nay em không ngủ
được. Linh tính không biết
chuyện gì. Bây giờ thì
thật rồi. Em lo lắm. Xa xôi quá,
làm sao đây ?
Trúc xuống giọng kể lể:
- Lúc còn sinh viên, thức đêm học
gạo quá đến nỗi ho ra máu, bỏ dở
y khoa. Nay lao động khổ cực, sức
kham không nổi, ăn uống đói khát thiếu
thốn, tinh thần bị hành hạ ... nên bệnh
cũ tái phát. Em biết tính anh
ấy. Gửi thư về sợ
em lo nên mới nhờ chị Thuyên. May
ra có chú Huy chạy kiếm thuốc. Thuốc
lao bây giờ đắt hơn
vàng. Làm sao đây ? Trời
ơi là trời !
Chị Thuyên là chị dâu. Huy là em ruột chồng, bác sĩ
học tập về làm ở bệnh viện lao Hồng Bàng.
Trúc chống cầm trên gối,
thờ người suy nghĩ. Chị Thảo thấy em ngồi bất động,
thở dài đứng dậy, uể oải với
chiếc nón lá vừa đội lên đầu
vừa nói:
- Chị về cho kịp đi chợ nấu nướng
bày hàng. Ðêm qua nghĩ mà
lo, mà thương cho Nguyên, không chợp mắt
được. Nghe còi hụ hết giờ giới
nghiêm, chị nhảy chuyến xe lam
đầu tiên xuống cho em biết.
Tiễn chị một đoạn. Dưới ánh sáng vàng vọt
của các ngọn điện đường, chiếc
áo bà ba bạc màu, chiếc quần tây cũ
ngắn, chiếc nón lá rách mốc,
đôi dép nhật đã mòn mỏng, chị
tất tả vừa đi vừa chạy về phía
bến xe lam.
Trước đây đi đâu cũng quần
là áo lượt, chưng diện
đến nơi đến chốn. Nguyên thường
trêu chị đẹp như Thẩm Thúy Hằng
thời chưa sửa ... mũi ! Chị mắng. Ðồ con khỉ
! Cười khoái. Chồng dạy y khoa không đủ ăn, chị
bày hàng chè đậu đỏ bánh lọt
trước hiên nhà độ nhật.
“Xưa sao phong gấm lụa là, giờ sao tan
tác như hoa giữa đường !”.
Trúc xót xa nhìn theo chị.
Thất thểu Trúc quay về
nhà.
Liếc nhìn các con vẫn còn ngủ
say. Ði thẳng xuống bếp, luộc mớ
khoai mì cho con dằn bụng đi học. Chẳng
bù lúc trước, mỗi buổi sáng phải
làm mặt dữ, đập bàn dọa dẫm
chúng mới chịu uống sữa. Vừa
uống vừa nhăn mặt như uống thuốc bắc.
Giờ thì một giọt cũng
không có. Dành tiền mua
được hộp nào, chúng bảo mẹ
để dành gửi cho ba. Nhìn ánh mắt
của con, nhất là đứa út lên bảy,
chị biết chúng nó thèm lắm.
Trúc viết vội mảnh giấy dặn đứa
lớn lo cho em ăn và đưa em
đi học. Sửa soạn qua loa, vội vã dắt
chiếc xe đạp cũ dựng
dưới cội mai, mở cổng, đạp vội
đến nhà anh chị Thuyên. Trời vẫn
chưa sáng tỏ.
2.
Ðứng trước một biệt
thự to lớn tân thời, nhà của anh ruột
chồng, Trúc đập cửa. Bà vú già
trung thành người nam ra mở.
- Mợ Trúc. Mợ đi đâu mà sớm
vậy ?
- Ừ, có việc. Thầy cô dậy chưa
?
- Dạ dậy rồi, còn ở trên lầu.
Nghe tiếng người, trên ban
công chị Thuyên chồm người nhìn xuống.
- Gì đó Trúc.
- Em lên gặp chị.
- Ừ, vào đi. Chị xuống ngay.
Anh chị bị đánh tư sản, tịch thu gần hết, chỉ còn cái
xác nhà. Anh ở tù một
năm về tội văn nghệ sĩ phản động.
Chị và con ở nhà, mấy lần vượt
biên không lọt. Có đứa con đi du học
trước bảy lăm, hai đứa đi thoát
trong ngày sụp đổ. Nhờ tiền con cái
gửi về, sống tương đối dư dả
so với mọi người chung quanh. Mối
lo của anh chị là làm sao đi cho thoát,
khác với mối lo của Trúc là làm
sao cho mẹ con sống được qua ngàỵ
Mai Trúc vào phòng khách. Phòng khách rộng
mênh mông. Trúc ngậm
ngùi nhớ lại cảnh gia đình
đoàn tụ đông vui ngày giỗ ngày
tết trước đây.
Chị Thuyên trên lầu đi xuống,
trên tay cầm lá thư, phong
bì quen thuộc, chị đã biết Trúc
đến về việc gì. Ðứng vội dậy,
chụp lấy cánh tay chị,
Trúc hỏi:
- Anh Nguyên của em thế nào hở chị ?
Chị cười, đưa thư:
- Thư nó đây nè. Ðọc đi !
Mở vội lá thư, nửa
trang giấy gạch hàng, nét chữ mực
tím bay bướm thân quen. Nguyên xin chị gửi
thuốc chữa bệnh cũ và ít thức ăn tẩm bổ. Dặn kỹ,
chị đừng cho vợ mình biết. Rồi thì vợ cũng biết.
Sau nầy Trúc biết được,
chỉ thời gian ngắn sau đó anh chị vượt
biên. Không nói
ra thì sợ Nguyên ngoài trại có mệnh
hệ nào sẽ ân hận,
nói thì trái lời dặn của em. Thôi thì nói với chị Thảo
là lưỡng tiện. Ðến tai
em dâu mà khỏi sợ thằng em nó
trách.
Ðọc thư chồng và
nhìn nét chữ, Trúc thấy phần nào
an tâm. Chưa đến nỗi nguy kịch,
bi đát như chị Thảo quá lo.
Một ý thoáng rất nhanh, Trúc
nhìn chị:
- Em sẽ ra thăm anh
Nguyên em.
Chị Thuyên
hét lớn. Khi nào chị cũng lớn giọng
la lối:
- Không được
... không được. Ði bỏ mấy đứa
nhỏ ở nhà cho ai. Rủi... rủi đi
đường có chuyện gì, ai nuôi con. Gửi
quà, gửi thuốc nhiều cho nó là
được rồi. Coi có ai đi thăm nuôi,
gửi theo cho nhanh, chịu cho người ta ít tiền
lộ phí.
Chị lập lại
lệnh truyền:
- Không đi,
không đi, nghe chưa !
Anh Thuyên từ
trên cầu thang bước xuống, miệng ngậm ống
vố phì phà:
- Nó đi thăm
nuôi chồng thì để cho nó đi, sao lại
cản ?
Chắc anh nóng ruột
theo đứa em khốn khổ tù đày ở
ngoài trại hơn mọi điều khác.
- Ông này
còn xúi thêm vào. Nó có việc
gì ông đem mấy cháu về mà
nuôi.
Chị nói
mát. Trúc nói chậm rãi, chắc nịch:
- Em quyết định
đi thăm. Người ta đi được mình
đi được.
Trúc trấn an chị:
- Mấy cháu ở
nhà thì đã có con người bạn
thân của em trông nom dùm. Chị khỏi bận
lòng.
Trúc cố
nén không khóc trước mặt anh, nhất
là chị, nhưng không được. Thổn thức,
nghẹn lời:
- Em không ra thăm,
rủi anh ấy có bề gì chắc em cũng
không sống nổi để nuôi con. Sống ... sống
làm sao được !
- Thôi, thôi.
Ðược. Muốn đi thì lo giấy tờ
mà đi. Không dễ đâu. Chỉ có
công nhân viên nhà nước có giấy
phép mới mua được giấy tàu. Lại
còn xin phép công an phường vắng mặt
... Ðủ mọi thứ chuyện rắc rối.
Chưa nói đến tiền bạc tốn kém.
Chị Thuyên quay lại
ra lệnh cho chồng cộc lốc:
- Lên ôm
gói quà gửi cho thằng Nguyên đem xuống
đây !
Ðưa gói
quà cho Trúc chị nói:
- Ðây ! Thuốc
lao đầy đủ. Thêm ít thức ăn. Chị
chạy mua được cả dầu bơ, sữa
đặc. Em đi cho anh chị gửi.
Như đã chuẩn
bị sẵn, lần túi áo lấy một xấp
tiền, chị ngập ngừng:
- Chị còn
ít tiền, cầm lấy đi đường.
Trúc lắc đầu:
- Quà thì em
xin, tiền thì em không lấy đâu. Em xoay sở
được.
Trúc nói liều,
thật sự chưa biết bấu víu vào
đâu. Anh cười ha hả, đùa thân mật:
- Con này dân chợ
trời bán đủ mọi thứ ... xin. Ămpi ...
xin, pêni... xin... nhưng chưa bao giờ chịu xin ai
cả !
Ðiều này
thì thật. Trúc chưa hề mở miệng xin
ai. Có ngày tiền chợ không có, mẹ
con cắn răng nuốt khoai mì, bo bo với muối
mè. Không mở miệng than thở với anh với
chị. Ðể cho em dâu không có cớ từ
chối, anh vừa cười vừa nói:
- Cô này lạ
nhỉ, anh chị cho thằng Nguyên chứ có cho
em đâu mà từ với chối.
Anh xuống giọng
đầy thương yêu, thông cảm, năn nỉ:
- Cầm ... cầm lấy
đi em. Không lấy anh chị giận đó.
Lắc đầu
cương quyết, Trúc đứng dậy chào
anh chị ra về. Ðây là lần sau cùng gặp
chị Thuyên.
3.
Năm năm trời
trôi chậm.
Ðếm mong từng
ngày, nhưng đếm sao hết những gian
truân.
Khi nào thì chồng
mình về ? Bảy năm, mười năm... hay
thiên thu vĩnh biệt !
Thuở
đăng đồ mai chưa dạn gió
hỏi
ngày về chỉ độ đào bông
Nay
đào đã quyến gió đông
phù dung lại
nở bên sông bơ sờ !
Trên đường
về, vừa đạp xe vừa nhẩm đọc lại
mấy câu chinh phụ ngâm, những vần thơ
chị đã giảng, đã làm say mê học
trò trước đây, lời thơ đó
giờ đây thực sự làm cho mình nhức
nhối ứa lệ. Người xưa dường
như đã hiểu, đã biết và viết
trước sẵn cho những người như chị
hôm nay.
Ngày miền nam sụp
đổ tức tưởi, Trúc đang dạy tại
một trường nữ nổi tiếng ở Saigon. Chị
dạy Việt văn. Học trò say mê, thích
thú mong đến giờ dạy của cô Mai
Trúc. Qua chị, thơ văn người xưa
như sống lại với tâm tình của
người đọc hôm nay. Chị đã
là nhịp cầu truyền đạt những
tình cảm suy tư của người muôn
năm cũ cho thế hệ học trò.
Chồng đi cải
tạo, chị tiếp tục miễn cưỡng đến
trường. Những buổi học tập chính trị
hằn học, nặng nề; những bài giảng
văn thơ sặc mùi máu tanh và căm
thù. Chị phải dạy, phải ca tụng bọn
người đang hành hạ đồng bào,
hành hạ chồng mình và đang đay nghiến,
xỉa xói mình hằng ngày, hàng giờ.
Lương tiền, tiêu chuẩn lương thực
không đủ để nuôi mẹ con chị mỗi
ngày một bữa.
Trúc cố chịu
đựng, cố nhẫn nhục qua ngày. Bực nhất
là mấy con mẹ giáo viên đảng
viên ở ngoài vào. Bọn học trò
nó cũng khinh ra mặt. Kiến thức thì nhỏ
như đầu đinh, ăn nói như vẹt, những
câu những chữ giống nhau y chang. Những
bài chúng đã học thuộc nằm
lòng từ thuở thiếu nhi đỏ đít,
quàng chiếc khăn quàng đỏ máu.
Tự so sánh chắc
chúng nó cũng thấy nhục. Ðể trấn
áp cái mặc cảm tự ti, vào phòng
giáo viên chúng thường vênh mặt
nói khơi khơi. “ Vấn đề là ... hồng,
chứ không phải... chuyên ! Khả lăng (!)
thì khối ra đấy, quan trọng là có
đủ tư cách đứng bục giảng ...
cơ !”. Ý chúng muốn nói đến
tư cách lập trường chính trị, giai cấp.
“Ðồ rởm !”. Chị mắng thầm.
Cho đến một
ngày...
Sau giờ tan trường.
Ði dọc hành lang ra về, qua một bầy tụi
nó đang đứng tụ tập huênh hoang về
kết quả bình bầu giáo viên tiên tiến.
Chẳng thèm nhìn, chị ngẩng cao đầu
đi thẳng. Thoáng nghe giọng con mụ giáo
viên chủ nhiệm. “Vợ ngụy mà cứ
tưởng như ngon lắm !”. Cơn giận
chưa hề có bỗng tràn tới. Không kềm
được, Trúc quay phắt lại, xông thẳng
đến túm lấy ngực mụ ta, hét lớn.
“Mày nói gì hở con khốn nạn. Tao
là vợ ngụy đây. Ngụy quen ăn gan mật
người. Giờ bà xé xác mày, đồ
khốn !”.
Ðám giáo
viên chẳng thể ngờ một giáo sư
người nam hiền lành lịch sự lại phản
ứng hung dữ, ăn nói thô lỗ đến
thế. Trúc cũng ngạc nhiên cho cả
chính mình. Té ra lời lẽ của chị cũng
đã sặc mùi điêu ngoa, đểu
cáng của bọn cán bộ Bắc kỳ bảy
lăm.
Trúc bị lôi
ra hội đồng kỷ luật, kiểm điểm,
đấu tố, đuổi việc.
Thời gian đầu
Trúc lo lắm. Không biết làm gì để
nuôi con. Ðồ đạc trong nhà, của
chìm của nổi ... bán dần bán hồi sạch
bách. Honda, tủ lạnh, đồng hồ bàn ghế,
chén bát ... rồi đến áo lạnh
áo dài... từ từ ra khỏi nhà. Ðến
lúc chẳng còn chi để bán, ngoại trừ
ngôi nhà hương hỏa và mảnh sân
vuông đẹp cây cảnh thân yêu quen thuộc
ấp đầy kỷ niệm bao đời.
Trúc lo sốt
vó. Ði hết chùa này miếu nọ,
nhà thờ thánh đường... cầu Quan
Âm, cầu mẹ Maria. Ðến nằm sấp,
ràn rụa nước mắt trước tượng
ông thánh Martin da đen ở nhà thờ Ba
Chuông, nhiều người đồn rất linh
thiêng, thường rũ lòng ban phước cứu
kẻ khốn khó nghèo hèn. Hữu sự
bái thập phương !
4.
Một buổi
sáng như mọi buổi sáng.
Quanh quẩn ở
nhà, vô ra nóng ruột, trăm mối ngổn
ngang, không chịu được. Trúc lấy xe
đạp vô định, lọc cọc đi qua khu
Tân Ðịnh, ngang qua chỗ tụ họp buôn
bán chui thuốc tây nhốn nháo.
- Trúc, Trúc !
Nghe tiếng ai gọi
tên mình, Trúc dừng xe dáo dác
nhìn quanh.
Từ trong đám
đông lô nhô, một khuôn mặt cười
tươi mừng rỡ xô đẩy chen lấn, chạy
vội ra:
- Trúc, mày nhận
ra tau không ? Hậu Ðất đây nì !
Trúc mừng
quýnh la lên:
- Ðồ con khỉ.
Lâu quá không gặp. Mặt đẹt mày
làm sao tao quên được !
Hai đứa cùng
học chung trường, chung lớp đến mấy
năm. Lên đệ nhị, thi rớt tú tài
một, Hậu theo chồng... bỏ cuộc chơi ! Vợ
chồng Hậu đều là người Huế. Hiển,
chồng Hậu, thuộc dòng mệ hoàng
phái, sĩ quan đồn trú tận trên
Kontum. Hậu tính tình đơn giản, chân
chất, xuề xoà dễ thương. Mấy đứa
bạn thân khen. “Mi là người Huế ...
không ăn mắm ruốc ”.
Trước bảy
lăm, đi bát phố Bô Na với Nguyên gặp
hai vợ chồng, tay xách nách mang, bầu
đoàn thê tử về ... thăm thủ
đô. Từ đó bặt tin cho đến
hôm nay mới gặp lại.
Hậu liến thoắng:
- Ông xã mi cải
tạo ở Vĩnh Phú ngoài Bắc phải
không ?
Trúc nhại tiếng
Huế:
- Răng mi biết
được, tài rứa ?
- Ông xã tau cũng
ngoài nớ. Ông viết thư về nói
cùng ở một đội lao động với anh
Nguyên. Tau tìm mi, hỏi nhiều người,
chưa biết mi ở mô. Ðang mong thì vác
cái mặt mốc tới. Ðúng là ...
ý trời !
- Hậu làm
gì ở đây ?
- Mình bán chui
thuốc tây.
- Sống được
không ?
- Sống vững,
nhưng .. đau .. tim.
Hậu chưa nói
hết câu, đám đông bỗng tháo chạy
tán loạn. Trúc lớ quớ, hoảng hồn. Hậu
nhảy vội lên yên sau xe, ra lệnh:
- Dọt lẹ !
Hồn phi phách
tán, Trúc gò lưng đạp. Hậu mập
nặng quá, Trúc è lưng, xe cũng chỉ
lăn bánh từ từ.
Hậu vỗ liên
tục vào lưng Trúc:
- Lẹ... lẹ... lẹ
lên kẻo tụi chó vàng theo kịp.
Ðằng xa
thoáng lố nhố mấy thằng công an áo
vàng. Khi đi đã xa và an toàn, Hậu
bảo ngừng. Vừa thở vừa ho, Hậu cười
như nắc nẻ, như đã từng dợt quen
nhiều, nhiều lần.
- Tụi nó
dàn chào mi đó. Có mấy "mợ"
bị bắt dẫn đi rồi.
Thở muốn hụt
hơi, Trúc lo lắng hỏi:
- Có sao không ?
- Mất tiền. Bọn
nó chỉ làm tiền. Kiếm tiền chợ cho
mụ nội ông bà ông vải nhà
nó. Trên đường dẫn về đồn,
chuồi cho nó kha khá, nó cho đi. Nếu
ít, tụi nó dẫn về phường giam một
ngày, viết giấy về phường mình
để ... giáo dục, đóng tiền phạt
... rồi tha.
Thấy bộ điệu
của Hậu, Trúc vui lây. Lúc còn đi học
Hậu ít nói, hiền như bụt, chậm
như rùa. Bạn bè cho nó biệt danh “Hậu
Ðất”. Hình ảnh đó còn đọng
lại trong ký ức của Trúc. Giờ gặp lại
Hậu khác hẳn. Cuộc sống bương chải
đương đầu vật lộn kiếm ăn,
đã biến đổi Hậu như con cắc
kè đổi màu da để sống còn.
5.
Hậu kéo bạn
vào quán nước bên đường.
Những quán hàng
mọc dài trên hàng hiên lề đường,
sống lây lất nhờ vào người buôn
kẻ bán chợ trời. Chủ quán, một thiếu
phụ trẻ, đon đả chào Hậu như
là khách hàng quen mặt. Trúc ngần ngừ
không muốn vào. Trong túi không có bao
nhiêu tiền, vào hàng vào quán
đâm ra thiếu tự tin.
- Thôi để cho
mày buôn bán. Ghi địa chỉ, mai kia
mình đến chơi.
Như đọc
được ý bạn, Hậu níu tay Trúc:
- Dẹp, dẹp. Gặp
mi tau mừng lắm. Mi vẫn là đứa bạn
tao thương nhất trong suốt quãng đời học
trò. Vào uống nước, tâm sự
chút đã.
Hậu chép lưỡi:
- Bán buôn
gì nữa. Ðộng ổ rồi. Chốc nữa
theo mi về cho biết nhà. Chiều ra bán tiếp.
Hậu cười:
- Hôm nay tau ...
dư sở hụi rồi.
Hậu săn sóc:
- Tau bao mi ăn
sáng. Hủ tíu đây ăn được lắm.
Tau bây giờ cơm hàng cháo chợ. Chiều
bán xong, đi chợ, tối mới về lo cơm nước
cho tụi nhỏ.
Trúc chưa kịp
phản ứng, Hậu gọi với vào trong:
- Người đẹp
Bình Dương, cho mình hai tô như thường
lệ, hai ly chè ba màu.
Hai đứa nhắc
lại đủ thứ chuyện xưa. Hậu nói:
- Tau không quên
được, mi chia cho tau từng củ khoai miếng
bánh. Nhớ mãi mấy ly chè đậu xanh
mi bao tau ăn giờ ra chơi dưới nhà mụ
cai trường. Mi nhớ không ? Bữa con Lan ghẻ,
sau này lấy ông tướng Lưu, xé tập
tau, mi nhảy vô bênh, nó xé luôn
áo mầy.
Hậu cười sảng
khoái:
- Giờ nó cũng
bán ở đây, thỉnh thoảng nhắc mầy.
Ðang rầu trong bụng,
Trúc cũng vui theo. Ðột ngột Hậu hỏi:
- Trúc nói thật
với mình, giờ đang làm gì để
nuôi con đó ? Lo lấy thân. Ðừng ngớp
ngớp trông mấy ông về, Năm năm rồi
! mười năm, hai mươi năm nữa... biết
đâu mà chờ !
Ðang lí la
lí lắc, Hậu bỗng nghẹn ngào. Nước
mắt lăn dài xuống má:
- Tội mấy anh.
Không biết còn sống mà về với vợ
với con hay không ? Quên không được
thì cố lơ đi để lo làm ăn. Khi
có điều kiện hai đứa mình cùng
ra thăm. Ðường xa có nhau vững bụng
hơn.
Trúc cúi đầu
để Hậu khỏi thấy mình cũng đang
khóc. Bỗng Hậu hét lớn:
- Thôi, thôi tau bậy
quá, làm mầy buồn lây. Này ! Hỏi lại
mầy đang làm gì để sống. Chắc hết
dạy rồi phải không ? Giờ này mà
ăn mặc như rứa, rồi còn phất phơ
giữa đường, thì đúng là
cô giáo ... mất dạy !
Ðấm vào vai Hậu
cười lớn, Trúc thật tình:
- Thất nghiệp
đang rầu thối ruột đây.
Kể cho Hậu nghe
trường hợp bị đuổi việc. Hậu sỉ
vả:
- Tiên sư tụi
khốn nạn !
Trúc thấy
nó chửi thề ngọt xớt thì thông cảm.
Nhớ lại mình cũng đã hàng tôm
hàng cá với con mụ giáo viên chủ
nhiệm. Ức quá mà !
Hậu kéo ghế
xích lại gần hơn. Ðể một chân
lên ghế tựa tay. Buồn bã kể:
- Nói thật với
mi tau chán tụi nó lắm rồi. Anh em trong
nhà cũng đã chán, nói chi người
ngoài ! Tau nói mi nghe. Gia đình bên chồng
tau có sáu con trai. Bốn ông là sĩ quan cấp
lớn, cấp nhỏ đủ cả. Hai ông anh lớn
theo Việt cộng tập kết ra Bắc.
Ngày ông Thiệu
ra lệnh rút quân tháo chạy từ Pleiku về.
Nghe phong phanh tin đồn sẽ chia đất xuống tận
Phan Thiết, mạ nhất định về Huế. Cả
nhà xúm lại nài nỉ can ngăn, không
lay chuyển được ý mạ. Mạ nói.
“Mạ đã già trên bảy mươi,
còn sống được cũng không bao lăm.
Mạ sống với mấy con, mấy cháu rứa cũng
đủ. Chỉ mong gặp lại hai đứa bên
kia để thỏa lòng mạ khắc khoải đợi
chờ. Gặp lại mấy anh tụi con rồi mạ
chết cũng mãn nguyện”.
Giữ mạ lại
chỉ làm cho mạ héo hắt, anh em cháu chắc
đành bấm bụng gạt nước mắt tiễn
mạ đi.
Thời gian sau
ngày Huế thất thủ, hai con trai lớn trở về
tìm mạ. Mạ mừng, lận lưng lấy mấy
lượng vàng chắt chiu cất dấu chia đều
cho hai đứa, đền bù những ngày xa
vòng tay mạ.
Hai đứa nhìn
lên bàn thờ Phật, chăm chú thèm thuồng
đôi độc bình lớn da rạn hình
đắp nổi đời Thanh, những cội trầm
đen láng vì ám khói hương thờ
tự lâu đời. Trầm trồ nâng những
chén hạt dưa mỏng nhẹ, những tô những
chén những đĩa cổ, đồ xưa viền
bạc .. nơi tủ chè. Những thứ mạ giữ
gìn để dành, chỉ mang ra dùng ngày
kỵ ôn kỵ mệ, ngày chạp ngày tết.
Hai đứa bàn ra tán vào.
Mạ biết ý
con. Mạ buồn, buồn lắm. Mạ thấy tụi
nó khác xa mấy thằng con trong nầy. Mạ
không nói. Cho hết. Mấy ông chia nhau làm
chiến lợi phẩm trên bước đường
Nam tiến !!! Sống chết biết ngày nào
đây. Thôi, mạ buông hết.
Sau ngày mất
nước, mạ lụm cụm bám xe đò
vào Saigon. Ôm lấy cháu, lấy con dâu
mà khóc. Gặp lại hai đứa thì bốn
đứa đi cải tạo chẳng biết ngày về.
Mạ biết, mạ sẽ không còn có dịp
gặp lại các con. Cái mất nhiều hơn,
đau ruột hơn cái được. Lòng mạ
lại héo hắt. Mạ quày quả trở ra Huế
để giữ lấy ngôi từ đường
hương hỏa. Mạ sợ không có mình
tụi quỷ sứ nó tịch thu, về dưới
ăn nói làm răng với chồng, với
ôn với mệ, với tổ tiên ông bà.
Mạ yếu lắm.
Thương con tù
đày, thương dâu thương cháu
cơ cực kham khổ, làm mạ chết mòn. Của
cải còn mô nữa, đã tuôn cho tụi
nó hết rồi. Mạ ray rứt. Nơi vườn
quê, mạ sống thui thủi. Mạ bệnh liệt
giường, may còn có đứa cháu
dâu họ xa tận tụy chăm lo.
Ngày mạ mất,
một bầy con trai, đứa thì cải tạo
ngoài Bắc, đứa trong Nam. Mấy thằng con cộng
sản, những đứa con mạ ngày đêm
mong nhớ đợi chờ, phương tiện tiền
bạc trong tay, nại đủ lý do, thật ra tụi
nó sợ tốn kém, chẳng đứa mô về
canh xác và đưa đám mạ.
Góa bụa sớm,
một đời cho con, vì con ... mạ nhắm mắt
trong khổ đau, trong cô đơn lạnh lẽo !
Khi còn sống mạ hay nó. Mạ tuổi
"canh", canh cô mồ quả, nên sống một
mình mà chết cũng một mình. Mạ
ơi, mạ nói đúng !
Hậu vừa kể vừa
sụt sùi khóc. Trúc khóc. Và chắc
cả triệu triệu gia đình Miền Nam cũng
đang khóc. Sau này khi Hậu ra thăm chồng về
kể lại:
- Cả nhà dấu
không cho mấy anh trong trại cải tạo biết mạ
mất sợ thêm buồn. Hôm ra thăm. Tau hỏi.
Anh biết chi không ? Hiển trả lời. Mạ mất.
Răng anh biết ? Thời gian mạ mất, anh thấy bồn
chồn nóng ruột, hồi hộp như đau tim.
Anh nghĩ đến mạ, nhưng cố đánh trống
lảng sợ xui. Em hỏi, trực giác cho anh biết
điều anh lo là đúng.
Ngồi hai bên một
cái bàn dài rộng cách xa nhau, chỉ
níu được nhau bằng đầu ngón tay.
Hai vợ chồng không dám khóc lớn, sợ
thằng cán bộ quản giáo ngồi chằm
hăm đầu bàn cắt ngắn bốn
mươi phút gặp nhau sau bảy ngày
đường gian truân lội suối băng
đèo từ nam ra tận vùng ám chướng
Việt Bắc.
Hai đứa ngồi
yên cho nỗi buồn lắng xuống. Hậu thong thả
đề nghị:
- Bắt đầu ngày
mai ra đây với tau. Ngu như tau còn kiếm
ăn được, thông minh đẹp gái
như mày... dư xăng.
- Tao biết gì
đâu mà buôn với bán !
- Từ từ tau
nói cho nghe. Tin tau đi. Nói được là
được. Này nghe ! Những người có
thuốc đưa cho mình cái lít hàng
để mình cho giá. Họ đi dọ giá
người này người nọ. Ai cho giá cao
xê xích chút đỉnh là họ kêu về
nhà bán. Hễ mua được là có
ăn. Có hàng, mình bán chui tại chỗ
cho mối tỉnh, mối Miên, cho y tá chích dạo,
cho bác sĩ phòng mạch. Có vốn thì
hùn, không có mình cho Trúc mượn ba
chỉ vàng, mình bỏ ba nữa là sáu.
Vốn như vậy cũng tàm tạm.
- Mượn rồi lấy
gì mà trả.
- Ðừng lo.
Cháo húp quanh, nợ trả dần. Ðược
chưa ?
Sự vồn vã,
ân cần, mối thân tình đơn giản của
Hậu làm Trúc xúc động. Ðúng
là, lúc lâm nguy có quý nhơn phò
trợ. Thầy coi tử vi nói, Trúc có cung tả
phù hữu bật.
- Một mình
đã mệt, gánh thêm tao ... tội cho mầy.
- Ðã là bạn
thân, lại cùng cảnh ngộ, đừng
khách sáo tau ... đục cho bây giờ, rồi
lại than ... sao hôm nay xui !
Hậu cười vui,
nắm tay mím môi làm bộ đấm
vào mặt bạn.
- Lúc này
không giúp nhau, đợi lúc nào.
Ðể cho Trúc bớt
thắc mắc áy náy, Hậu giải thích:
- Có mày cũng
tiện cho tau. Nương nhau mà sống. Hai đứa
thay phiên, ai mua gì thì đạp xe về
nơi gởi hàng lấy thuốc giao cho người
ta. Lúc này là lúc lên ruột căng thần
kinh. Nhìn trước nhìn sau. Ðứa canh chừng
công an và mấy thằng chỉ đìểm
theo đóm ăn tàn, đứa giao thuốc. Nếu
bọn chó nó chộp được, chứng cớ
rành rành, mất tiền mất thuốc và
... về đồn.
6.
Kể từ hôm
đó Trúc nhập vào giới buôn chui thuốc
tây.
Ở đây tập
hợp đủ. Vợ tướng, vợ tá, vợ
úy; cô giáo, thầy giáo; văn sĩ thi sĩ
... một xã hội nhỏ của trí thức miền
nam lỡ thời, điêu đứng. Toát mồ
hôi lạnh, căng thẳng nhưng cũng kiếm
được đồng ra đồng vào. Buổi
chợ về đã có thêm thịt thêm gạo
thêm quà cho con, thêm thực phẩm mua dồn gửi
nuôi chồng.
Tình bạn giữa
Hậu và Trúc vẫn đơn sơ, mộc mạc,
thật tình. Ðối với Trúc, Hậu
không chỉ là bạn mà còn là
người ơn không thể nào quên
được.
Và cũng kể từ
hôm đó, tên công an khu vực
đánh mùi thường xuyên ghé
nhà. Mỗi lần hắn tới, Trúc làm ra
vẻ vồn vã chưa hề có trước
đây. Thúc hối con chạy nhanh mua cà
phê và bao thuốc lá ba con số năm. Khi hắn
mở miệng than nhậu nhức đầu, có mụt
ghẻ cương mủ đau ngủ không được
... Trúc tự động đưa cho cậu mấy
chai trụ sinh còn nguyên băng để cậu
đi bán lấy tiền nhậu tiếp.
Thôi thì,
tránh voi chẳng xấu mặt nào. Ðúng
hơn, thương cha chớ chọc đứa ăn
mày. Cha mẹ không còn, thương chồng
thương con nhẫn nhục qua ngày đoạn
tháng.
7.
Một hôm đang
đứng bán thì tình cờ gặp lại
Biên.
Biên là một
trong mấy người theo đuổi và là ứng
viên ba má chấm cho Trúc. Biên mừng lắm.
Cho biết, bác sĩ quân y chỉ học tập
hai năm. Về được cho làm tại bệnh
viện Sùng Chính cũ, nay đổi là Trần
Hưng Ðạo. Có phòng mạch tư trên
Chợ lớn, sống vững.
Từ đó,
Trúc và Hậu có thêm mối bỏ thuốc
đều đặn. Qua Biên một số bác sĩ
bạn bè cũ của chồng trước
đây cũng tìm tới. Hai đứa nhờ
đó mua bán nhàn hạ và kiếm tiền
dễ hơn. Khỏi phải đứng đường
đứng sá phơi nắng phơi mưa nhiều.
Ðỡ nhất là thoát được cái
cảnh bị công an rượt chạy dài
dài.
Hậu khoái lắm,
bô bô cái miệng sún răng:
- Mi thấy không
Trúc. Tau bắt giò mi là đúng
chóc. Mệ là đệ tử chân truyền
của thầy Huỳnh Liên chuyên nghề coi tướng
!
Thâm tâm
Trúc cũng thấy vui và yên lòng như
đã đền cho Hậu phần nào ơn nghĩa.
Biên thường tới
lui thăm hỏi, chăm sóc mấy cháu chí
tình. Vợ Biên đem đứa con gái độc
nhất đi vượt biên sau ngày Biên
vào trại. Thời gian đầu có thư về,
sau thưa dần rồi biệt hẳn.
Gia đình
Trúc từ ngày có Biên cũng vui vẻ ấm
cúng.
Trúc an tâm mỗi
khi con đau yếu, trái gió trở trời.
Trúc ý tứ giữ cho mối thân tình giữa
hai người có một khoảng cách nào
đó. Biên cũng tự trọng và tế nhị,
chừng mực. Nhưng càng gặp nhau, càng lui tới,
Trúc linh cảm như tình yêu một chiều
vô vọng trong Biên ngày xưa, nay như dần
dần bùng cháy trở lại. Cử chỉ
thái độ thì không có gì bộc
lộ, quá trớn. Nhưng, qua ánh mắt
nhìn, Trúc đôi lần bắt gặp sự
đắm đuối đau khổ.
Trúc cũng bắt
đầu thấy mình lo nghĩ vẩn vơ.
Nhiều lần muốn
cắt đứt quan hệ, nhưng tự bào chữa.
Người
ta sao thì kệ người ta. Tùy mình.
Mình không gì thì thôi. Thế nhưng,
từ sâu thẳm cũng thoáng về một niềm
vui mơ hồ, không rõ rệt mà Trúc cố
che đậy với mình. Trúc nghĩ. Cắt
đứt thì vô lý. Anh ấy chưa làm
điều gì có lỗi, chưa có lời
nào cợt nhả, bóng gió xa gần. Anh ấy
rất tôn trọng mình mà !. Mặt khác,
cũng như Hậu, Biên là người mình
mang ơn. Trúc cố níu vào sự bào chữa
này để khỏi thấy có lỗi với chồng.
Hàng xóm xoi
bói, mấy bà cô nhọn mồm bên chồng
... thấy bóng dáng đàn ông lui tới
bắt đầu tiếng ra tiếng vào. Ðem
nói với Hậu. Hậu la toang toác:
- Thật vàng
không sợ chi lửa. Kệ bà tụi nó. Mi
có chi tau trị tội trước, chưa đợi
đến ... "tòa án nhăn răng !".
Ðứa con gái lớn
thấy mẹ độ rày vui và chưng diện
hơn. Thấy con nhìn mình chải tóc soi
gương, Trúc hiểu. Ôm con vào lòng.
“Mẹ buôn bán giao thiệp phải
tươm tất một chút. Thế thôi con
!” Nói với con và như thầm nhủ với
chính mình.
Mấy tuần trước,
con Út sốt mê man mấy ngày. Uống bao
nhiêu trụ sinh, đắp bao nhiêu nước
đá cũng không giảm. Biên biết
được vội vã đến ngay. Khám cho
cháu xong, đứng bật dậy, tự tay bồng
lấy Út, thúc hối Trúc kêu xích
lô chở ngay đến phòng cấp cứu bệnh
viện.
Nhờ quen biết,
Biên lo mọi thủ tục rất nhanh chóng. Từ
phòng khám ra, bác sĩ lắc đầu
nhè nhẹ nói thì thầm riêng với
Biên. Bước vào bên trong, thấy con mềm
nhũn nằm thiếp trên giường. Trúc lo sợ,
tuyệt vọng, oà lên khóc. Ðứng đối
diện, hai tay để trên vai Trúc, nét mặt
thương yêu lo lắng, Biên tìm lời an ủi:
- Út bệnh nặng
nhưng may ra còn kịp. Chỉ chậm một buổi
nữa là vô phương. Anh nghĩ là gan cháu
nhiễm siêu vi.
Như một động
lực vô hình xô đẩy, Trúc úp mặt
vào vai Biên khóc nức nở. Chỉ khi thấy
hơi nóng của hai cánh tay Biên vòng
ôm chặt lấy thân mình, Trúc choàng
tỉnh, lùi xa e thẹn. Biên cũng bối rối,
đôi mắt đắm đuối dại khờ.
Ðêm đó
ngồi thức canh bên giường con, Trúc thấy
như đã có lỗi với Nguyên.
Ngoài chồng, từ khi biết yêu cho đến
giờ, Trúc chưa hề để ai ôm
mình. Gục đầu thổn thức trong
đêm vắng lạnh lẽo, lần đầu
tiên chị chẳng còn tin ở mình. Trong
cô đơn, khổ đau, tuyệt vọng ... chị
cũng chỉ là một mảnh hồn yếu đuối.
8.
Mấy hôm sau hết
sốt, Út qua cơn hiểm nghèo, về nhà.
Một buổi
sáng đang ngồi viết thư cho Nguyên, nghe tiếng
chuông cửa rung nhẹ, ngập ngừng. Nhìn qua
khung cửa sổ, thấy Biên ngồi trên chiếc
xe Honda, chống chân chờ ở cổng. Nhìn
vào sân, thấy chiếc xe đạp còn dựng
cạnh cội mai, chiếc nón lá quàng qua tay
lái, Biên biết chắc Trúc có ở
nhà. Anh kiên nhẫn, rụt rè giật nhẹ
sợi giây chuông và thoảng nghe tiếng
chuông khua trong nhà.
Cái chuông
điện hỏng từ lâu, Trúc buộc mấy
cái lục lạc một đầu giây, treo lủng
lẳng phía trên cửa sổ phòng khách.
Kéo sợi giây vắt qua ngọn cây mai, đầu
kia buộc vào cửa cổng.
Hậu có lần
cười nói. Chuông nhà mi giống như sợi
giây chuông trước cổng chùa trong tuồng
cải lương Tắt lửa lòng, Lan và Ðiệp
!.
Mấy cái lục
lạc lại khua lên. Trúc đứng dậy, dứt
khoát với tay giật đứt. Cười thầm
cho hành động của mình khi nghĩ đến
câu nói đùa của Hậu. Nguyên
đã cho chị tình yêu thương bao bọc,
cho chị sự kính nể. Nhờ đó chị
đã vượt qua được những giao động,
yếu lòng nhất thời.
Trúc không chỉ
yêu chồng, chị mê chồng. Nói ra sợ
chồng cười nhạo, mỗi khi xa nhà chị
nhớ chồng hơn nhớ con. Sống với nhau
không trọn vẹn, những tháng hành
quân, những ngày cấm trại, thế nhưng
chị hạnh phúc và thỏa mãn với hạnh
phúc của mình. Chị thấy chọn lựa,
nhứt quyết lấy Nguyên là đúng.
Năm đầu xa chồng,
Trúc đau khổ vì nhớ, vì thương,
vì rạo rực yêu đương. Ðêm
đêm ôm lấy áo chồng mà ngủ
để tìm hơi. Nhưng trước những
căng thẳng của cuộc sống thực tế
trước mắt, đương đầu với nghiệt
ngã, với thằng công an, với con hàng
xóm, với chén cơm lưng củ khoai sượng
mỗi ngày ... tất cả, tất cả đã
giết chết nỗi nhớ thương lãng mạn
còn đọng lại nơi chị, một người
vợ trẻ xa và mong chồng.
Giờ Trúc nhận
ra rằng, thủy chung không phải là tự
ép mìmh tuân phục những định ước
luân lý, đạo đức, hay sợ người
đời cười chê. Nếu chỉ như vậy,
khi gặp hoàn cảnh đẩy đưa, sẽ
có sẵn cả trăm cả ngàn lý lẽ
để thuyết phục, để bào chữa,
để bênh vực cho sự trở lòng của
mình.
Ngoài chợ, mỗi
khi rảnh rỗi thong dong, mấy chị em cùng
hoàn cảnh, tụ họp nói chuyện gẫu
thì thế nào cũng lôi những tin mới
nhất về mấy bà bỏ chồng. Bà
tá nầy lấy tài xế cũ, bà úy
nọ lấy công an, cán bộ ... rồi cười
chê, bêu rếu.
Trúc nói:
- Mỗi người một
hoàn cảnh. Gặp đúng hoàn cảnh
như họ chưa chắc mình đã làm
khác đi được. Nghĩ cho cùng đều
đáng thương, tất cả đều là
nạn nhân của oan khiên nghịch cảnh.
Trúc thầm nghĩ.
Hành động phũ phàng đối với
Biên là nhằm khước từ một hoàn
cảnh đang mon men đến với mình. Nếu
không, phần kết cục chắc cũng chẳng
khác hơn ai ?
Hậu không chịu:
- Nói như mi,
hoàn cảnh gì cái con Lý ? Chồng đi
mới hai tháng đã mang bầu với thằng
bác sĩ Lưu, bạn của chồng nó.
Chưa hết. Nó ác đến nỗi, lấy
thư của thằng bồ gói đồ gửi
vào trại cho chồng đọc tức ứa
máu chơi. Ăn ở thất nhơn thất đức.
Ðồ đĩ ngựa. Ðồ trời đánh
thánh đâm. Ðồ voi chà ngựa trướng.
Ðồ ... Ðồ...
Nó nổi
khùng chửi vung mạng. Mấy chị em cười
chảy nước mắt. Chị Liên, người lớn
tuổi nhất, đẹp như một mệnh phụ về
chiều, đứng đắn, dễ thương. Chị
lên tiếng:
- Mấy thứ
đó thì nói làm chị Con Trúc
nó nói cũng đúng. Nhưng đã
không yêu thương mà lại coi thường
chồng thì còn gì níu kéo mà
không bỏ. Lỗi cũng tại mấy ông nữa
chứ ! Thuở lên voi có ông xử với vợ
bạc như vôi. Nhân tình nhân ngãi bồ
bịch hàng tá. Nhưng thôi xí xóa
đi. Cũng nên chờ. Phần vì hoàn cảnh
mấy ông xuống chó, sa cơ lỡ vận, bỏ
cũng bất nhân. Không tình thì còn
cái nghĩa, còn đạo lý. Và, nhất
là ... vì con, vì con!
Hậu bớt
nóng, nhưng còn ức:
- Mấy bà bỏ
đi theo kép cũng lấy cớ ... vì con !
9.
Mai Trúc không
ghé nhà, đi thẳng ra chợ gặp Hậụ
Cho bạn biết
Nguyên đau nặng nên mình định thu xếp
ra thăm. Thở dài, Hậu buồn ra mặt:
- Tội nghiệp cho
mi. Con mới khỏi, giờ đến lượt chồng.
Người răng mà lao đao, lận đận rứa
?
Suy nghĩ, Hậu
nói:
- Lúc trước
hẹn hai đứa cùng đi. Nhưng giờ
thì không được rồi. Mi ra thăm trước,
tau gửi theo đồ nuôi chồng tau luôn thể.
Lần sau đến phiên tau đi. Bỏ đi cả
hai, về mất mối mất lái, nguy lắm. Phải
thủ !
Hậu quan tâm:
- Tiền bạc thế
nào ? Mấy chỉ vàng Trúc trả, mình
còn giữ chưa xài tới, cầm bán
mà đi. Ðừng lo mấy đứa ở
nhà. Mình cho con Bê lớn qua ở trông chừng.
Mỗi chiều, bán buôn xong mình đi chợ,
ghé qua đưa thức ăn và thăm mấy
cháu.
Trúc thấy Hậu
thu xếp đâu vào đấy, yên tâm.
Có đứa bạn như vậy đã là
phước ba đời. Không muốn phiền
và làm bạn bận tâm thêm về
mình, Trúc nói dối:
- Tiền bạc tao
đã có cách, mày đừng lo.
- Thôi về sớm
đi chạy giấy tờ. Ngoài nầy để mặc
tau.
Trúc đạp thẳng
đến nhà bà Dung ở xóm trên nhờ
lo giấy tờ đi đường. Dung trung gian chạy
lo đủ mọi thứ giấy tờ dây dưa
đến công an và chính quyền từ
phường, từ quận đến thành phố.
Sau khi nêu ra đủ mọi thứ khó khăn trở
ngại, mụ hứa sẽ chạy lo.
Chỉ hôm sau Dung
trở lại, ăn mặc chưng diện. Môi son,
móng tay đỏ choét, cỡi chiếc xe Honda
đời mới cáo cạnh, láng bóng. Mụ
tả oán. Gần tết việc đi ra Bắc
khó khăn, hơn nữa là vợ sĩ quan chế
độ cũ, do đó người ta đòi
giá hơi cao. Hai chỉ vàng.
Trúc mắng thầm.
Nếu không phải là vợ sĩ quan cũ,
không đi Bắc mà đi Cần thơ thì cần
gì cái mặt bà. Trúc nhăn mặt:
- Hai chỉ vàng ! Chị
bớt cho em chút đỉnh làm lộ phí.
- Không được!
Mụ nói chắc
nịch. Biết không cò kè gì được,
Trúc gỡ gạc:
- Thôi em
đành chịu. Nhưng nhờ chị giúp mua cho
vé tàu hỏa. Tiền vé em đưa đủ.
Ngày nào đi em tự đi đăng ký lấy.
Ngẫm nghĩ ra chiều
thương hại:
- Thấy hoàn cảnh
em cũng đáng thương. Ðược, để
chị lo. Chuẩn bị sẵn vàng có giấy
thì ... tiền trao cháo múc.
Ra tới cửa, mụ
còn quay đầu dặn, giọng ngọt xớt
răn đe:
- Vàng đúng
tuổi nghe em ! vàng xanh quá người ta
không chịu, mất công !
Quả thật. Hai
ngày sau chị ta đến đưa vé tàu
và giấy phép đi đường. Dấu
phường, dấu quận, dấu thành phố
đỏ chói. Nơi đến, Hà Nội.
Lý do, công tác. Họ tên, Nguyễn Thị
Mai Trúc. Nơi công tác, xí nghiệp
tôm đông lạnh thành phố. Thời hạn,
hai tháng. Trúc nhẩm tính, đi về
ít nhất cũng mất mười ngày.
Còn hơn một tháng để gom mua thực phẩm
thuốc thang nuôi chồng. Tiền, thức ăn để
nhà cho con. Ði cũng lo, cũng phập phồng theo
mấy núm ruột ở nhà. Không đi
thì chồng đói bệnh làm sao đây
! Lòng thương chồng, lo cho chồng và một
phần nhỏ muốn tạ lỗi với chồng
vì sự việc xẩy ra với Biên, tất cả
đã giúp Trúc mạnh dạn liều đi.
10.
Trong nhà chẳng
còn gì đáng giá. Hai chỉ vàng
đưa lo giấy tờ là hai chiếc nhẫn
cưới.
Ngày đám
cưới, mẹ chồng đeo cho hai đứa hai chiếc
nhẫn lá hẹ vàng ta. Trúc đùa với
Nguyên. Nhẫn cưới vàng tây mười
tám mới đúng. Ðeo vàng ta vừa mềm
méo mó, lại ... quê một cục !
Nguyên nói. Khi đi sắm cả nhà có
ý kiến như vậy. Chê mẹ quê
quá. Mẹ vẫn giữ một ý. Mẹ
nói. Vàng tây không có giá. Rủi
khi túng bấn làm sao bán được. Cả
nhà ào ào phản đối. Mấy đứa
cháu lớn nói. Nội ơi, ai lại đi
bán nhẫn cưới bao giờ, hả nội !
Bà nội đuối lý, phát cáu. Im
cái miệng thúi tụi bay lại ! Bà sợ
tụi cháu nói gở.
Nguyên đi học
ngoại quốc, mua hai vợ chồng hai chiếc nhẫn
thật đẹp thay thế. Từ đó, Trúc
gói cất làm kỷ niệm ngày hạnh
phúc đôi lứa. Bao lần túng quẩn con
đau, con đói, thương con chị đi cầm,
chịu tiền lời cắt cổ, để có tiền
xài tạm. Rồi cũng lo chuộc về. Thế
mà cũng đã đau lòng lắm rồi, chị
chưa hề nghĩ đến chuyện bán.
Nay vì chồng
tù đày, bệnh nặng, đói khát,
muốn có cái giấy đi thăm, chị
đau đớn tay run run cầm đưa cho mụ Dung
hai chiếc nhẫn vàng bóng láng, buộc
chung bằng sợi chỉ, để trên miếng
bông gòn trắng, đựng trong chiếc hộp
con hình trái tim màu đỏ.
Ðêm đó,
khi các con đã yên giấc, Trúc khóc
nhớ bà mẹ chồng hiền lành đạo
đức, coi con dâu như con ruột, đã
nhìn xa thấy trước cái ngày cơ cực
hôm naỵ
Thương chồng,
thương con, thương thân, Trúc căm
thù chúng nó. Thù cả những bà
con làm việc cho chúng. Ai ở bưng hay tập
kết về đến thăm, chị lạnh nhạt ra
mặt.
Có lần ông
anh chồng, cán bộ cao cấp đến thăm
"động viên", khuyên Trúc nên
đi vùng kinh tế mới để chồng sớm
được cứu xét thả về. Trúc trả
lời cộc lốc:
- Tui không nghe mấy
người đâu. Không đi đâu hết.
Dụ chồng tui đi cải tạo một tháng,
chưa đủ hả ? Giờ đến dụ tui
đi vùng kinh tế mới để cướp
nhà à !
Ông anh chưng hửng:
- Thím là
cô giáo mà ... mà ... mà ăn nói
như vậy hả !
- Trước kia tui
là cô giáo. Nhờ ơn bác và đảng
tôi nay đã ... mất dạy, mà anh !
Ông anh giận dữ
đứng dậy:
- Ðúng là phản
động. Ăn nói như vậy có ngày rục
tù, đừng than trách !
Sau này gặp lại,
ông chẳng còn dám mở miệng lên lớp.
11.
Hôm nay đã cận
Tết. Giấy tờ thì có rồi, nhưng
còn tiền xe, tiền ăn uống dọc đường,
tiền mua thêm thực phẩm thăm nuôi. Một
lần đi một lần khó. Tính ra cũng cần
thêm hai ba chỉ vàng nữa. Ðào
đâu ra ! Chạy mượn lung tung chẳng nơi
nào có được. Người thân ruột
thịt thì còn tiền còn vàng, nhưng
còn lo thủ thân, lo sẵn vàng chờ mối
vượt biên. Thương thì thương
nhưng cho nó mượn rồi lấy gì
mà trả. Tất cả đành ngoảnh mặt
làm ngơ. Bạn bè là nơi nhờ cậy
được, chia sẻ được thì đều
rách bươm như nhau.
Nghĩ nát óc
cũng không tính ra. Giờ mới thấy
mình nông nổi, không tính trước
tính sau. Nếu chạy không ra đủ tiền,
hết hạn giấy phép là mất toi hai khâu
vàng nhẫn cưới. Hay đành nói thật
với Hậu ? Không, đã lỡ cương ẩu
rồi, phải theo.
Rối ruột, thơ
thẩn bước ra sân. Sân không rộng lắm
nhưng gọn và đẹp. Chị yêu mảnh
sân hơn ngôi nhà thừa tự cha mẹ
để lại. Anh chị em đều có cơ
ngơi riêng. Trúc con út ở với mẹ. Mẹ
mất, vợ chồng chị ở lo hương
khói thờ tự. Nhà khá rộng, nhưng cất
theo lối cổ. Nhiều lần vợ chồng bàn
tính sửa sang lại cho tân thời. Mấy
ông anh bà chị chưa đồng ý. Ðến
khi quyết định sửa, kêu thợ vẽ kiểu
tính toán, thì sập tiệm.
Mảnh sân con ngăn
cách ngôi nhà và đường lộ.
Nguyên nói. Ở
giữa Saigon mà có được một giang
sơn riêng như thế này là số
zách !. Hàng cây Trạng Nguyên và
cây sứ cùi trồng xen kẽ sát hàng
rào trúc. Ðến tháng chạp trở
đi, trời se lạnh, trong không khí rộn
ràng đón Giáng sinh, đón Tết ...
lá Trạng Nguyên trở màu đỏ
chói. Cây sứ rụng lá trơ cành,
cành và gốc sần sùi. Hoa sứ trắng
nhị vàng, hương thơm tỏa ngát tận
sau nhà. Mấy đứa con, lũ học trò
thường chui rào, nhặt hoa rơi kết
thành cầu đá kiện. Cánh hoa không
nát mà chỉ mềm dai ra.
Nhưng Trúc
quý nhất là gốc mai giữa sân.
Mai không cao lắm,
vừa tầm với. Gốc mai chỉ ngắn quá gối,
sần sùi u cục. Cành mai gẫy gọn,
khúc khỉu. Toàn cội mai nở hoa trông
đẹp như một bức tranh thủy mạc
Tàu. Hoa mai nở có cái đếm được
tám, mười cánh. Ai cũng xít xoa khen.
Hèn gì nhà phát tài phát lộc !
Cội mai là niềm
vui ấp đầy kỷ niệm gia đình qua bao thế
hệ.
Thuở còn
quây quần hạnh phúc. Dưới cội mai
Nguyên kê một chiếc bàn tròn thấp
và nhiều ghế mây nhỏ xinh. Nguyên
và bạn bè thường hay ngồi nhâm nhi
cà phê, khề khà uống trà đấu
láo. Hay chiều chiều cuối tuần nhậu nhẹt
lai rai đến tận khuya. Giờ đây, mỗi khi
nhìn con vui đùa đuổi bắt trong sân,
Trúc thấy nhớ chồng và những ngày
tháng cũ.
Hàng năm, cứ
đúng ngày rằm tháng chạp, cha con vợ
chồng cùng nhau ríu rít trẩy lá. Khoảng
hai bảy, hai tám tết, trong không khí tưng
bừng đón xuân, pháo nổ đì
đùng rải rác đầu trên xóm
dưới, mai bắt đầu trở nụ xanh bụ
bẫm. Qua giao thừa hoa nở. Sáng mồng một
giữa sân là một cội mai vàng rực với
vô số nụ xanh hé mở.
Năm nào cũng
vậy. Chỉ có xuân năm bảy lăm, tự
dưng các nụ hoa rơi đồm độp đầy
gốc. Cả đêm giao thừa hai vợ chồng hồi
hộp lo theo mai không ngủ được. Sáng mồng
một, mở cửa sớm ra sân, sửng sốt
nhìn nụ hoa rơi rụng gần hết, chỉ
còn lác đác mấy hoa lẻ loi trên
cành. Nguyên dị đoan, lo điềm xấu cho
gia đình. Ðâu ngờ, không riêng cho gia
đình mình mà cả toàn miền nam mang
đại họa.
Từ ngày Việt
cộng vào thành phố, cờ đỏ la liệt
đầu đường xó chợ. Bích
chương biểu ngữ khẩu hiệu đỏ
máu nơi nơi. Trúc tức mình chặt
luôn cả hàng Trạng Nguyên lá đỏ.
Mấy đứa con hỏị "Sao vậy mẹ
?." Trúc trả lời gọn. "Tự dưng mẹ
ghét màu đỏ !" Hai đứa lớn
cùng nói. "Con cũng vậy mẹ ạ !".
Từ đó chẳng đứa chịu mang khăn
quàng đỏ, dù cho cô giáo mấy lần
cảnh cáo răn đe.
12.
Hôm nay lại
đã là hăm ba Tết, ngày đưa
ông táo.
Trúc và
các con ngồi dưới cội mai thái củ cải,
cà rốt để ngâm nước mắm.
Dù túng thiếu cách nào Trúc cũng
lo cho các con tươm tất và có cái
ăn ngon trong ba ngày Tết. Các con vui, tíu
tít. Riêng chị còn canh cánh mối lo về
khoản tiền chưa chạy được, nên
tư lự.
Hai đứa lớn
biết, cố moi mọi thứ chuyện để
làm mẹ vui:
- Mẹ ơi, tối
qua tụi con đi xem chợ hoa trước trường
Mỹ Thuật. Ðẹp ơi là đẹp ! Nhiều
loại hoa con mới thấy lần đầu, mọi
năm đâu có. Nhưng đẹp nhất vẫn
là mai, mẹ ạ. Mai cành, mai chậu và cả
nhiều cây mai bứng nguyên gốc.
Con em xen vào phụ
họa:
- Có gốc họ
đòi đến hai ba chỉ vàng. So với cội
mai nhà mình không bằng một góc.
Nghe con nói,
Trúc nhìn lên thấy những nụ mai nhỏ
xinh đang trổ đầy trên cành. Chợt
Trúc thoáng nghĩ. Hay bí quá đành
bứng cội mai đi bán vậy.
Ðem đôi nhẫn
cưới, kỷ vật cuối cùng của vợ
chồng, để lo lót cho công an đã
làm chị đau đớn ray rứt, nhiều
đêm khó ngủ. Chẳng phải chị tiếc
vàng, tiếc chút gia tài nhỏ nhoi còn
sót lại. Chị đau vì cái biểu
tượng hạnh phúc riêng của mình, cuối
cùng cũng lọt vào tay bọn ngợm.
Cội mai, qua bao đời
như còn ghi dấu những ngày vui của
ông bà, cha mẹ và của vợ chồng con
cái, của hơi ấm gia đình.
Trúc còn nhớ
cha mình kể lại.
... Khi ông nội
làm quan tận ngoài Thuận hóa, có
người muốn đền ơn một vụ án
được giải oan. Nhân lúc ông về
hưu, biết ông nặng tình với hoa Mai,
đem biếu một cây Hạc Ðính Mai, giống
quý từ bên Tàu. Ông nội đem về
trồng ngay giữa sân, chỗ hiện nay. Ông
quý lắm, tự tay chăm bón hàng
ngày.
Bà nội là
vợ thứ nên còn trẻ, chỉ suýt
soát tuổi con gái đầu vợ cả của
ông nội. Mỗi năm mẹ thứ và con
gái trưởng có bầu và sanh con năm một.
Cậu cháu, từng cặp cùng tuổi, cách
năm, hợp nhau chơi đùa phá như giặc.
Một chiều ba
mươi tết. Con cháu tụ họp đông
vui, cúng đón ông bà. Bầy trẻ cậu
cháu chạy đuổi tưng bừng, đâm
vào làm cây mai gãy làm hai. Biết nguy
to, tất cả ngừng chơi, nhìn gốc mai,
thè lưỡi lo lắng.
Ðang ngồi vuốt
râu trên bộ trường kỷ, chợt thấy
tiếng cười đùa huyên náo của lũ
trẻ bỗng dưng im lặng. Biết có chuyện
gì xẩy ra, ông nội chống gậy hấp tấp
ra sân. Thấy bọn trẻ đang nhỏ to chỉ
chỏ gốc mai. Ông quát:
- Gì đó
!
Cậu cháu đứng
im, lấm lét nhìn nhau, mặt cúi gầm xuống
đất, không đứa nào dám lên tiếng.
Bước tới, nhìn thấy cây mai đã
gãy làm đôi, ông thốt lên:
- Thôi rồi !
Từ từ ngồi
xuống, buông gậy cầm lấy phần mai
gãy, chống gậy từ từ đứng lên:
- Ðứa nào
làm gãy ?... Khai ra !
Lũ trẻ nín
khe.
- Không khai ra,
ông đánh đòn cả đám
!... Ðứa nào ? Tự động
bước ra đây !
Thấy tụi nhỏ
bao che cho nhau, nhìn bộ mặt tinh quái, sợ sệt
của chúng, ông cũng muốn cười. Tiếc
cây mai quý nhưng ông biết không thể
làm nó liền lại được. Ông
làm bộ nóng giận, dọng cây gậy xuống
đất lấy uy, một tay để sau lưng, đi
tới đi lui:
- Không khai ?... hừm...
Ðược !
Ông đánh
đòn tâm lý, dụ dỗ:
- Thôi thì đứa
nào đã lỡ tay, biết lỗi nhận lỗi,
ông tha cho !
Mấy đứa vẫn
đứng im thin thít.
Mấy chục năm
ngồi trên công đường, ông xử
không biết bao nhiêu vụ án hóc
búa. Bọn tội phạm đều phải khai hay
chỉ điểm nhau. Xử mấy thằng nhóc, vừa
con vừa cháu này, xem ra khó !
Suy nghĩ một lát, ông ra lệnh:
- Sắp thành
hàng ngang, hết cậu đến cháu
!
Mấy chú, mấy
dì ... chạy ra sân, thấy
ông thì hung hăng giả bộ, cháu thì
co rúm sợ sệt, tất cả nín cười,
che tay quay mặt cho bọn trẻ khỏi thấy.
Ông nội xăm
xăm đi vội ra hàng rào cây trúc. Trở
vào. Ông xoè bàn tay, trên có đủ
tám đọt trúc như tám cái lông
con nhím, một đầu thì nhọn xanh, đầu
kia thì trắng mủn và mềm. Ông thận
trọng cắt ngắn đồng đều như nhau.
Mấy đứa trẻ liếc nhìn, hồi hộp.
Ông ra lệnh:
- Há miệng ra !
Thấy điệu bộ
ông, có đứa đã bớt sợ
nhưng chưa dám cười. Ông bắt mỗi
đứa ngậm một đọt trúc, phía
đầu mềm.
Ông ra lệnh tiếp:
- Ngậm miệng lại
!
Mấy cháu lại
răm rắp tuân lệnh. Ông nói:
- Ðứa nào
làm gãy cây mai mà không chịu khai thì
đọt trúc sẽ dài ra. Tao chỉ cần so lại
với nhau là tao biết. Khỏi cần đứa
nào khai cả!
Sau một lúc,
ông đến rút từng đọt trúc ra khỏi
miệng từng đứa. Hết lượt, ông
khoái trá hét lớn:
- Thằng Ðôn tới
nằm xấp trên bàn. Thằng Ðức chạy
bắc ghế lấy cây roi mây trên chái
nhà ra đây mau ! Hà... hà... Chạy trời
không khỏi nắng!
Lũ trẻ và cả
nhà chưa ai hiểu ra, Ðôn chạy đến
bên cha, quỳ khóc sướt mướt,
nài nỉ, van lơn:
- Thưa ba con biết
tội, xin tha cho con, lần sau con không dám nữa.
- Không được ! Nếu tự giác
thì tao tha. Bắt được ...
mười roi !
Biết cả nhà
thắc mắc, ông giải thích:
- Thằng Ðôn
làm gãy cây mai. Nó sợ đọt
trúc dài ra nên nhè nhẹ cắn bớt ... cho vừa. So ra, đọt
trúc của nó ngắn chỉ còn một nửa !
Lừa được
đám con cháu nhỏ nghịch ngợm, ông
cười ha hả, đắc chí chống gậy
vào nhà lo lên hương đèn khấn mời
ông bà tổ tiên về ăn tết.
Mỗi năm, cứ mỗi
lần quây quần quanh cội mai ngày tết
đón xuân, ba của Trúc lại thích
thú khề khà kể cho con cho cháu nghe kỷ
niệm bài học về cái ngu ngây thơ
đầu đời của mình.
14.
Có một điều
lạ lùng mà ông nội Trúc không hề
biết được.
Nhờ chỗ gãy
hai đó mà cội mai càng già dáng dấp
càng đẹp, đẹp vô cùng. Gốc mai
bị gãy không phát triển được
theo chiều dài, càng ngày càng to sần
sùi u cục khúc khuỷu. Từ chỗ gãy,
mai đâm chồi trổ nhiều cành gãy
khúc, vặn vẹo đâm chéo, to nhỏ vấn
vít lấy nhau.
Toàn bộ cội
mai là một bố trí mỹ thuật tuyệt vời,
như trong những bức tranh thủy mạc Mai Hoa tuyệt
tác, bất hủ của các danh họa Vũ
Tích, Tử Hy đời Ðường, đời Ngũ
Ðại.
Mỗi năm, vào
dịp tết. Trong giờ dạy văn, nhân nói
về phong tục và thú vui thưởng xuân,
Trúc đã giảng cho học trò nghe về
thú chơi mai của người Trung quốc và
người Việt mình ở ngoài Trung và
trong Miền Nam.
Học trò
thích thú nghe chị kể lại mối tình
lãng mạn của Trụ Vương và Ðắc
Kỷ. Gần ba ngàn năm sau, lịch sử Tàu
chỉ ghi lại hình ảnh một Trụ
Vương vì đắm say nhan sắc Ðắc Kỷ
mà giết oan cả triều đình, một vị
vua mất tính người, hung ác.
Trúc tả cho học
sinh của mình thấy được nét
tình tứ của gã si tình họ Trụ, qua
lời Phí Cung An đời Minh. "Ðắc Kỷ
ái lãm hàn mai, Trụ tằng ngự tuyết
đồng lãm chi"... Ðắc Kỷ
thích ngắm mai trong giá lạnh, Trụ
Vương đội tuyết cùng thưởng hoa ...
Lãng mạn đến thế là cùng !
Học sinh có
đứa giơ tay hỏi:
- Thưa cô, tuyết
lạnh thì làm sao có mai được
? Ở miền Bắc nước ta, chỉ lạnh
sơ sơ chưa có tuyết, mà mai còn
không mọc được, huống hồ có tuyết !
Mấy đứa
khác ào ào tán đồng ý kiến
của bạn:
- Phải rồi,
thưa cô. Hà Nội ngày tết chỉ
có hoa đào !
Trúc hứng khởi
trước vặn lý rất thông minh của học
sinh mình:
- Các em nói
đúng. Theo cô nghĩ, Mai ở đây có
thể là Bạch Mai, sắc trắng như tuyết;
Hồng Mai, sắc đỏ máu hay màu hồng phấn;
Thanh Mai, màu trắng ánh xanh ...
Cùng với cây Tùng, câyTrúc, Mai thuộc
nhóm "Tuế Hàn Tam Hữu". Ba loại
cây chịu được lạnh nên được
ví với bậc trượng phu quân tử, những
người vượt qua được phong ba, nghiệt
ngã của đời.
Học trò vỗ
tay tán thưởng. Lớp học trở nên
sôi nổi, hứng thú. Ðứa học sinh
không chịu thua dễ dàng, hỏi tiếp:
- Thưa cô, trong mấy
loại Mai vừa nhắc đến, em không thấy
cô đề cập đến Mai vàng
!
Trúc thấy
lúng túng:
- Ở Trung quốc cũng
có mai vàng gọi là Hoàng Mai. Theo
sách Tàu, sắc hoa màu vàng đậm hay
vàng tươi, tương tự như mai vàng của
ta. Khi hoa tàn thì tụ quả màu xanh.
Còn mai vàng của mình tại sao không chịu
được khí hậu lạnh miền bắc,
thì cô ... cô xin chịu. Em
sang hỏi... thầy Ðỉnh dạy vạn vật !
Cả lớp cười
rồ lên vì biết cô mình
... bi sắc bí !
Một em khác lại...
phỏng vần:
- Thưa cô, cô
thích hoa mai hay hoa đào ?
- Cô thích mai.
- Tại sao
?
- Tên cô là
Mai Trúc, ai lại không thích tên mình.
Phải không ? Mấy em từng nịnh
cô, khen tên cô đẹp mà !
Trúc chỉ
đùa. Ngưng cho học sinh chú ý, giảng
tiếp:
- Sân nhà
cô có một cội mai tuyệt đẹp. Nhiều
em đến thăm cô đã có dịp
chiêm ngưỡng rồi. Hình ảnh mai vàng
và ngày tết gắn bó, như đã
mang sẵn trong tiềm thức của cô từ
lâu, lâu lắm rồi. Ðiều khác nữa.
Cô thích mai vì màu vàng của mai
không hề nhạt. Khi còn ấp trong nụ, khi nở
ra và đến khi hoa tàn rụng cánh, sắc
hoa vẫn vàng tươi không hề phai. Người
mình rập khuôn máy móc theo tây
phương cho rằng, màu vàng là màu phản
bội. Cô cho rằng màu vàng của hoa mai
tượng trưng cho sự thủy chung không thay
đổi.
Ðứng trên bục
giảng nhìn xuống thấy các em, khuôn mặt
dậy thì rạng rỡ, tròn xoe đôi mắt
lắng nghe, Trúc thấy lòng dâng lên một
niềm vui khôn tả. Trúc thong thả:
- Không biết
các em đã thấy hoa đào lần
nào chưa, cô đã có dịp thưởng
thức vẻ đẹp của hoa đào. Cành
đào không khúc khuỷu, bẻ gắp chữ
chi như cành mai, mà đâm thẳng. Gốc
đào cũng không u sần nổi mốc như
gốc mai. Bố trí của cành đào
không bay bướm, ngạc nhiên như cành
mai. Lại nữa, lúc đào hoa mới nở,
cánh hoa màu hồng phấn pha nhẹ sắc
tím, rất đẹp. Màu hoa nhạt dần,
đến khi rụng thì gần như trắng bệch.
Mai Trúc trầm
ngâm quay về nuối tiếc với kỷ niệm của
trường của lớp của nhửng ngày đi
dạy. Con liếc nhìn, gọi:
- Mẹ !
Mẹ ! mẹ nhớ ba hả ? Ðừng
nhắc thầm tên ba. Ngoài trại ba nhảy mũi
hắt xì liên tục tưởng bị cảm
cúm, tốn thuốc nghe mẹ !
Sực tỉnh,
Trúc cười:
- Con ba hoa dữ há !
Sau hai ngày cố chạy
thêm để vay mượn mà không được,
Trúc dứt khoát quyết định bứng cội
mai già đem bán chợ tết. Mấy đứa
con nhao nhao phản đối. Nghe mẹ giải thích,
đứa lớn thông cảm với mẹ, nói một
câu như bà cụ non:
- Ba đi tù,
nhà mình mất mát cũng gần sạch. Mất
thêm một cây mai nữa cũng không sao. Miễn
sao có thuốc, có đồ ăn nuôi ba để
ba về với mẹ con mình là được. Há mẹ ?
Chị ôm con. Hai mẹ
con đều khóc.
15.
Trúc sai con vô
xóm trong gọi bác Tư xe ba gác ra bứng
và chở mai ra chợ.
Trước bảy
lăm, bác Tư chạy tắc xi. Xe vào hẻm không
lọt, thường đậu xe trước hàng
rào nhà chị, nơi Nguyên thường đậu
xe jeep. Nhiều lần đi làm về thấy
bác Tư choán chỗ, Nguyên vui vẻ chạy
thẳng xe vô sân. Gặp bác Tư ở
đâu cũng chào hỏi thân mật. Bác
Tư hay ẵm bồng, khen mấy cháu nhỏ lễ
phép, đã xinh lại còn ăn mặc đẹp.
Sau ngày ba
mươi tháng tư, mới biết bác là
Việt cộng nằm vùng. Làm việc trên
phường kiêm luôn tổ trưởng dân phố,
bác đối xử tử tế, thường an ủi
Trúc, thăm hỏi Nguyên. Mọi người
đều nhờ bác, nhất là những người
thuộc chế độ cũ. Không lâu, bác
chán ngán vỡ lẽ về những điều
đã bị tuyên truyền mê hoặc,
ghét mấy đứa đảng viên ngoài
đó vào làm cha, lo vơ vét hối lộ ... bác bỏ tất cả, về
chạy xe ba gác. Trong nhà cần việc gì,
bác ít khi từ chối.
Nghe Trúc nhờ,
bác và đứa con trai đầu lòng đến
hì hục, nhẹ nhàng bứng cội mai. Cẩn
thận lấy bao tải quấn quanh bầu đất.
Biết nỗi đau thầm lặng của Trúc,
bác an ủi:
- Thôi cô
giáo. Ðúng là, ba đời ta một đời
nó. Tiếc thật. Nhưng gặp thời thế, thế
thời phải thế. Mấy ông Bắc kỳ
vào thì họ mua, mình Nam kỳ thì chỉ
có bán ra. Cô giáo cứ ra giá bốn
chỉ. Thời trước cả chục cây
vàng dễ gì bán.
Bác Tư đạp
xe, hai mẹ con Trúc đi bộ theo sau. Tới khu chợ
hoa rộn rịp, bác Tư xông xáo tìm chỗ
có đông người lui kẻ tới thuận
đường. Bác đề nghị:
- Cứ để mai
trên xe. Ðem lên đem xuống động rễ
mai chết. Không ai mua, còn đem về trồng lại.
Trúc không chịu:
- Không được.
Bác còn phải đem xe chở hàng cho người
ta. Neo xe, mất của bác một ngày.
- Cô giáo đừng
lo. Hôm nay tôi nghỉ lo quét dọn bàn thờ.
Bác cười vui
vẻ. Trúc cảm động vì biết bác
nói dối cho mình an lòng.
Người qua kẻ
lại ngắm mai, chỉ chỏ trầm trồ ngợi
khen. Khi hỏi giá thì thè lưỡi lắc
đầu. Ngày sắp hết. Ðèn đường,
đèn chợ đã lên. Khu chợ hoa
sáng rực, đủ màu. Người mua
thì ít, người ngắm hoa thì nhiều.
Bên cạnh cái vẻ mặt kênh kênh,
háo hức của giai cấp mới là những
nét mặt gượng vui, phờ phạc lo âu thiếu
thần sắc.
Hỏi nhiều mà
chẳng ai mua. Trúc bắt đầu thấy nản,
bảo con về lo cơm nước cho em xong vô
kêu bác Tư ra chở cội mai về. Khi mới
ra chợ, một đàng Trúc mong có người
mua cho đủ tiền thăm chồng; một
đàng cầu không ai mua được, để
đem mai về, có cớ mượn tiền Hậu.
Ðang lúc não nề,
một tên cán bộ len phen tới.
Trời tối rồi vẫn
chiếc nón cối trên đầu, quai nón da
thắt chặc quanh cái cầm lún phún
râu. Mặc chiếc áo môngtagu láng
óng ánh màu măng cụt, loại áo mốt
đắt tìền trước bảy lăm. Vai mang sà
cột. Miệng phì phèo điếu thuốc
cán. Hàm răng hô, kẽ răng đen
sì đóng khớm nhựa thuốc lào
và nước chè đặc lâu ngày.
Ngắm nghía kỹ
gốc mai. Ðứng gần, đứng xa, nhìn
phía trước, nhìn phía bên. Gật
đầu nhè nhẹ ra chiều thích lắm.
Hỏi giọng Nghệ:
- Ðồng chí
bán bao nhiêu đấy ?
Trúc nghĩ thầm.
Ông nội mày, tao mà đồng chí của
bọn bây, giờ này tao đi mua mai về
chưng tết, chứ đâu có đào mai của
ông bà cha mẹ đem đi bán. Thấy nó
chị cũng không có hứng để bán.
Trả lời cộc
lốc:
- Bốn chỉ.
- Một chỉ rưỡi,
tôi mua. Nhiều hơn tôi không ...
khả năng.
- Không
!
- Ðược
giá đó, bán đi không tôi về.
Thấy Trúc hờ
hững không trả lời, hắn tiếc rẻ dắt
xe Honda chen lấn ra khỏi đám đông. Vừa
đi vừa ngoái nhìn, hy vọng "đồng
chí" bán hoa đổi ý.
Trời đã về
khuya, người xem hoa, mua hoa vẫn đông
đúc náo nhiệt. Bao nhiêu người trả
giá, chưa ai trả hơn một chỉ. Bác
Tư ra đến nơi. Trúc vừa mệt, vừa
đói, vừa nản, buồn bã phụ bác
Tư lấy dây chằng gốc mai đẩy về.
Chợt thấy tên cán bộ trở lui, vội
vã chen tới:
- Ðồng chí,
hai chỉ nhé.
Trúc quyết định
nhanh, tính chị là vậy.
- Khuya rồi, bán
cho anh đó.
Hắn đắc
chí mua được mai. Lận ví lấy hai
khâu vàng, đưa cho Trúc.
- Anh và tôi
bước qua hàng vàng bên chợ thử
vàng.
- Thử làm chi.
Cán bộ cách mạng đâu có lường
gạt nhân dân !
- Ở đó
mà tin !.... Bác Tư ơi,
bác đứng giữ mai dùm tôi.
Nói xong hai người
hối hả đi về phía chợ. Trao vàng
xong, hắn thuê luôn xe bác Tư chở về.
Bác đòi giá xe cắt cổ, hắn
không cò kè thêm bớt gì. Chắc tiền
không đổ mồ hôi nước mắt
nên không tiếc.
Hết một phần
lo, nhưng Trúc thấy lòng mình buồn
rười rượi.
Bước chậm,
cúi đầu, một tay thọc vào túi
áo nắm chắc hai khâu vàng, Trúc mệt
mỏi, chán nản về nhà.
Sân nhà trống
vắng lạnh lẽo. Cội mai bứng đi còn
để lại hố đất sâu chưa kịp lấp.
Chiếc bàn nhỏ và mấy chiếc ghế
mây lăn lóc.
Trúc gạt nước
mắt đi nhanh vào nhà. Các con đã ngủ.
Ðến trước bàn thờ cha mẹ, thắp ba
cây nhang. Trúc thổn thức, cầu xin tha lỗi.
Ðể nguyên
áo quần, đi về phía bàn học của
các con. Vặn to ngọn đèn dầu cho
sáng thêm. Hôm nay nhằm ngày cúp điện.
Trúc lấy hai chỉ vàng ra xem. Tim bỗng
nhói lên. Hai chiếc nhẫn vàng bóng
chói với sợi chỉ buộc thân quen.
Trúc run rẩy vặn thêm đèn, soi
sát, nhìn kỹ mặt trong chiếc nhẫn.
Mắt hoa lên.
Ngồi bệt xuống nền nhà lạnh:
- Trời ơi! Hèn gì thấy
mặt thằng nầy quen quen.
Trúc bỗng sực nhớ ra:
- Ðúng. Ðúng hắn là thằng
cán bộ công an trên quận.
Ôm đầu đau đớn, trong
mắt Trúc còn hiện rõ hình ảnh hai
chữ Nguyên và Trúc khắc đan chéo
vào nhau bên mặt trong đôi nhẫn cưới
của mình.
Ninh Hạ
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)