SU'U TÂ`M 7

Home | VA(N | VA(N [tt] | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | VA(N 16 | VA(N 17 | VA(N 18 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | SU'U TÂ`M TIN | CU'̉'I CHÚT CHO'I | CHUYÊ.N LA. KHÓ TIN

VA(N VUI 2

xuôi ngược ngược xuôi

 

xuôi ngược, ngược xuôi

(Ninh Hạ)

 

1.

Khi tôi đến thì cuộc cãi lý giữa hai phe đến hồi gay cấn sôi nổi. Cán cân lực lượng cân bằng. Một bên là Khả và Hân, bên kia là Thọ và Hồ.

Thấy tôi đến cả đám mừng rơn như tha hương ngộ cố tri. Mặc dù chỉ mới cách mặt một tuần. Chẳng qua vì ý kiến của tôi rất quan trọng, sẽ định đoạt phần thắng bại.

Chưa kịp ngồi, Khả đã lên tiếng phân trần:

“Cậu xem. Hai tên kia ăn nói ngược ngạo không chịu được. Thú thật tôi và thằng Hân cãi lý không lại.”

Tôi cười pha trò giảng hòa:

“Ðược ! Các khanh từ từ tấu trình lên. Trẫm đây sẽ phán xét.”

Khả nói một hơi như trút nỗi bực tức:

“Tụi tôi đang nói câu tục ngữ mà ông bà cha mẹ mình đã nói từ bao đời nay. Còn nước, Còn tát. Vậy mà hai ông tướng kia cho tụi tui nói sai. Rồi sửa ngược lại là. Còn tát, Còn nước. ”

Như nắm vững phần lý của mình, Thọ thong thả:

“Có anh tới tụi này mừng lắm. Có người làm trọng tài. Ðể tôi cắt nghĩa có lý có tình. Tại sao phải nói lại là Còn tát. Còn nước. Ai đã nếm mùi cải tạo của cộng sản hay bà con trong nước hiện nay đang bị bọn cường quyền ác đảng bóc lột cướp tiền cướp đất, bị vắt từng giọt máu đ ến phải bán con đợ vợ, đều phải đồng ý với tôi.”

Thấy không ai phản ứng, hắn đứng dậy vòng ra sau ghế dựa, chống hai tay vào chỗ dựa đầu. Tư thế như đang đứng trên bục thuyết trình:

“Này nhé ! Mấy bố ăn hăm-bớt-gơ uống cô ca quên mẹ đi chuyện cũ. Banh tai ra nghe ta. Mấy năm đầu sau 75, chúng nó đày phe ta ra tận thâm sơn cùng cốc của núi rừng Sơn la, Yên bái. Trời ơi ! Tụi nó đày đọa anh em mình bằng cái đói. Ðói triền miên bất tận. Ðói từng phút từng giờ. Ðói từng ngày từng tháng từng năm. Ðói rũ rượi, tê liệt tứ chi lục phủ ngũ tạng. Ðói mụ cả tinh thần. Bữa ăn chỉ dăm miếng khoai mì khô mốc đen, vài củ khoai hay lưng chén bo bo còn nguyên vỏ cứng như vỏ lúa. Ăn không phải để tạm no, mà chỉ đủ để kích thích thêm cái đói, cái thèm ăn.”

Tức nghẹn, Thọ ngưng lại cúi đầu. Qua phút xúc động Thọ tức giận:

“Ðói như thế mà chúng cưỡng bức ngày ngày lao động khổ sai. Chặt tre đẵn gỗ trên ngàn. Sáng sáng ra khỏi trạì. Lê lết hàng giờ mới đến chân núi. Nhìn lên ngọn, đỉnh cao vời vợi, mây che sương phủ. Nghĩ đến việc leo lên đã rùng mình sởn gáy. Huống hồ lên tới nơi còn “khẩn trương tranh thủ” thời gian, lục lạo xó núi góc rừng chặt cây chặt nứa chặt vầu. Lựa cây thật thẳng thật to thật dài cho đúng chỉ tiêu.”

Dằn giọng

“Chưa hết. Chưa hết đoạn đường thánh giá. Xong rồi, xeo cả khối nặng ấy lên vai. Tay chống gậy, tay bám núi men theo dốc đá tai mèo cheo leo hiểm trở quanh co trơn trợt, ỳ ạch xuống núi. Gom hết sức tàn để giữ mình cho khỏi lăn xuống vực. Thi sĩ Thanh Tâm Tuyền vác nứa bị ngã trên núi Yên Bái đã có những câu thơ hay như thế này:

 

Tưởng chừng thi thể ai thối rữa

Hồn viển vông chẳng chút oán sầu

 

Hoặc:

 

Gió lạnh tái tê bó liệm chặt

Lả thiếp người quên bẵng sướt đau

 

Ðấy ! Cứ như vậy kéo dài ngày này qua ngày khác. Năm này tháng nọ. Ôi trời ôi ! Thế mà các ông khăng khăng là Còn nước, còn tát ... à !”

 

Ngừng một lát cho lắng cái đau cái nhục của tháng năm địa ngục, Thọ hổn hển nói tiếp:

“Nước còn mẹ đâu nữa mà tát. Nước đã khô cằn từ lâu. Sức đã cùng mà lực cũng tận. Mấy con thú hình người dép râu nón cối, răng đen mã tấu nó tát nó vắt tù, vắt tụi mình ra nước. Khi hết ra được nước thì vùi thây hóc núi ven rừng, chờ vợ con ra bốc xác ! Chính sách của bọn nó có phải là ... "Còn tát. Còn nước"... không nào ? Cãi đi. Cho các cậu cãi.”

Sự ấm ức tức tối đã giúp Thọ ăn nói hùng hồn thuyết phục.

Hồ thích chí đứng dậy vỗ tay ủng hộ gà nhà:

“Ðúng ! Ðúng ! Rất hay.”

Quay về phía Khả và Hân thách thức:

“Cãi đi !”

Tôi mang trọng trách phân xử hai phe, giờ đây cũng đớ lưỡi. Trầm ngâm giây lát, tôi nói vớt lãng xẹt:

“Nghe cũng có lý. Còn gì nữa không ?”

 

2.

 

Lần này Thọ đi thẳng vấn đề, nói vội như sợ mấy tên kia cướp diễn đàn:

“Tui nói thật. Mấy ông bỏ nước ra đi hơi sớm nên chẳng biết con mẹ gì mà cứ đòi cãi bướng. Cái câu mà mấy ông vừa dùng... Giấy rách phải giữ lấy lề... là quá lỗi thời. Sai bét! Ở với mấy đấng Việt cộng, các lương tâm của thời đại... khủng bố, thì câu đó phải đổi mới lại là ... Lề rách phải giữ lấy giấy !”

Khả và Hân như mất bình tĩnh, đứng phắt dậy.

Hân la lớn muốn khản cả cổ:

“Thôi. Thôi. Dẹp. Lý sự cùn. Ðã gàn mà lại còn già mồm.”

Thọ phân bua:

“Ðây là diễn đàn tự do. Cứ việc tranh luận. Trước khi phê phán cũng phải để tớ trình bày đã chứ ! Ðây đâu phải là phiên toà xử Cha Lý đâu mà... bịt miệng. Các cậu là bạn của tớ, chứ đâu phải là quan “tà” Nguyễn Minh Mẫn (tên thật là Nguyễn U Đần) xử hai vị anh thư Nguyễn Văn Ðài và Lê Thị Công Nhân, đuối lý rồi chụp mũ. Rồi xúi nhận tội để tha. Như thể xúi con nít ăn cứt gà. Xấu hổ đến thế. Phải không ?

Tôi giải thích để cho các ông bài học thứ hai. Này nhé ! Tớ còn nhớ vào thập niên 90 lúc đó gặp mấy anh H. O. mới qua. Hỏi mấy anh ước gì ?. Mấy ông trả lời không đắn đo. Phải chi ở Việt nam mà gom được giấy tờ sách báo vất bừa bãi trong nhà ngoài phố, đầu ngõ cuối đường như ở Mỹ đây mà đem đi bán ve chai thì tức khắc sẽ thành triệu phú ngay. Triệu phú đô la chứ không phải triệu phú tiền gánh già Hồ đâu nhé. Sống khỏe re. Ðâu cần qua tới đây loanh quanh lẩn quẩn nhức đầu với... róp !” (job).

Hân thúc:

“Nói thẳng vào đề đi. Ðừng câu giờ !”

“Mấy cậu thấy chưa ? Ở bên mình giấy cũ giấy loại quý giá vô cùng. Chỉ có dưới chế độ ưu việt mới ‘rì-sai-cờn’ cả giấy đi cầu. Chuyện khó tin nhưng có thật. Thiếu nguyên liệu làm giấy chúng tận dụng giấy cũ báo cũ. Bà con mình nghèo túng bao nhiêu sách hay sách quý xé hết làm giấy lộn đem bán kiếm tiền chợ sống qua ngày. Xưa. Tần thủy Hoàng, Hitler, Mao xính sáng... đốt hết sách vở của tiền nhân. Nay. Việt cộng không những đốt “sách báo đồi trụy, phản động” mà còn nghiền thành bột giấy. ”

Trầm ngâm giây lát, thấy mọi người lắng nghe, Thọ nói tiếp:

“Các ông còn nhớ không ? Thuở nhỏ lúc chúng mình còn đi học, có ai mà không mong cho đến ngày bãi trường. Chỉ trong dăm ba vần thơ mộc mạc, Xuân Tâm đã tài tình nắm bắt được tâm trạng háo hức đợi chờ, niềm vui hớn hở của tuổi nhỏ học trò trước ngưỡng cửa của những ngày hè thú vị. Những vần thơ mà bất cứ lúc nào chợt nhớ lại cũng làm cho mình xúc động xao xuyến; vương vấn chút nhớ nhung bâng khuâng về những ngày tháng ắp đầy kỷ niệm.

 

Sung sướng quá giờ cuối cùng đã hết

Ðàn chim non hớn hở rủ nhau về

Chín mươi ngày nhảy nhót ở miền quê

Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ.

 

Khả lên tiếng châm chích:

“Chả ăn nhập đâu vào đâu. Cứ như là giáo sư Việt văn giảng bài !”

Thọ cười khua tay:

“Bình tĩnh để tớ nói Ngày nay dưới mái trường xã hội chủ nghĩa mọi sự đã đổi thay ngao ngán lạ thường ! Học trò con nhà nghèo (hầu hết) mong cho xong năm học. Việc trước tiên là gom sách tập xé giấy đem bán. Ðây là dịp hiếm hoi để chúng có ít tiền còm dằn túi. Khốn một nỗi, mấy mụ ve chai chỉ nhận mua giấy lẻ mà không nhận bìa sách và lề sách vì nặng ký. Cho nên lề rách thì không sao, cứ cố giữ lấy giấy mà bán. Chứ giấy rách mà cố ôm lấy cái lề thì có nước húp cháo khoai mì !”.

Ngừng để lấy hơi xong nói tiếp. “Quí vị “áo gấm” về thăm quê hương chỉ loanh quanh hưởng thụ ở thành phố và những nơi chúng nó bày ra để moi tiền. Khen nức khen nở nào là Saigòn bây giờ vui lắm, lớn lắm... Ối trời ơi ! Ði về thôn quê mà xem. Dân đói. Dân đói. Biết không hả ?”

Trước kết luận của Thọ, mọi người cười rộ lên. Không khí buổi gặp mặt trở nên vui nhộn, mất đi cái không khí căng thẳng đôi co ban đầu.

 

3.

 

Thấy mọi người tán đồng. Khả và Hân cũng ra chiều quy phục.

Thọ thừa thắng tấn công:

“Ðã nói thì nói cho luôn. Xưa nói. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng là nói cho luôn vần luôn điệu chứ cũng trật lất. Phải sửa lại là Gần mực thì sáng, gần đèn thì đen mới đúng”.

Tôi nhịn hết nổi, cười lớn:

“Thôi tôi can. Cứ để cho ông Thọ độc diễn với luận điệu này, đến sang năm cũng chưa hết chuyện. ”

Thọ cười năn nỉ:

“Ðể cho tôi nói câu này nữa là thôi. Không còn hơi đâu mà nói nữa. Cho tiền tớ cũng vái.”

Cả bọn nhao nhao nói lẩy:

“Muốn nói bao nhiêu đó nói. Nói đi !”

Thọ cười húc hắc hứng chí:

“Tôi hỏi mấy ông. Ai gần mực ? Học trò, giáo sư, văn sĩ, thi sĩ, bác sĩ. Những người ngày ngày phải cầm bút cầm viết nên gần mực. Ðúng không ? Thế, họ sáng hay đen ? Sáng quá chứ lị. Sáng rực !”

Hồ nôn nóng thúc:

“Ừ. Thôi được. Gần mực thì sáng. Nhưng tại sao Gần đèn thì đen ?”

“Ðiều này thì các ông biết thừa. Tôi học được câu này sau năm 75. Các cậu còn nhớ không, mỗi tuần Sàigòn cúp điện bốn lần. Mấy ông ở Huế vô chơi. Khoe. "Thành phố lớn như ri mà thua ngoài tui. Ngoài nớ mỗi tháng cúp điện một lần thôi !" Hỏi ra mới biết. Mỗi lần cúp đìện đến hai mươi chín ngày. Chỉ có một ngày điện lóe lên để đủ xem bóng đèn nào còn xài được !!!”

Tôi hỏi dồn:

“Rồi sao nữa ?”

Không nhìn tôi, Thọ tiếp tục mỉa mai khôi hài:

“Ánh sáng của "đảng ta" đã thay thế ánh sáng điện khí. Thành phố, thôn quê nhà nhà đều thắp đèn dầu leo lét. Dầu lửa đâu phải dễ mua. Mặt hàng chiến lược. Bán hạn chế theo chế độ chính sách. Trạm xăng dầu, con buôn bán lẻ, cán bộ bán chui trộn thêm dầu cặn để bán lấy lời. Ðèn thắp lên khói phun nghi ngút, tua tủa như ống khói nhà máy. Trần nhà, mùng màn đen như lọ nghẹ. Ăn xong bữa cơm chiều đọc xong tờ báo gần đèn, ngoáy hai lỗ mũi đen như hai ống bô xe gắn máy. Thế nên tôi nhất định bảo là... "Gần đèn thì đen". Các bố ạ !”

Nghe xong, cả nhà cười lăn ra. Mấy đứa con của Hồ đi học về, nghe các bác nói chuyện cũng không nín cười được.

Biết mình bị hố, Khả trách thân:

“Thằng Thọ nó xạo mà mình tưởng thật cứ gân cổ lên mà cãi. Ðúng là ngu thật. ”

 

4.

 

Trâm, vợ Hồ, từ bếp chạy ra mồ hôi nhễ nhại, cười nói với tôi:

“Hồi nãy gay cấn lắm. Em mong anh đến để phân xử. Anh chỉ cười cầu tài. Im thin thít. Chẳng có ý kiến gì cả. ”

Tôi cười giả lả:

“Phân xử gì nữa.”

Trâm không chịu:

“Ý kiến anh thế nào ?”

“Theo anh thì Gần mực không đen, gần đèn không sáng !”

Vừa nghe xong cả nhà ào ào phản đối. Trâm nguýt dài:

“X. . í, xí. Anh đại ba phải !”

Tôi lấy bộ mặt nghiêm để trán áp quần chúng, rồi dõng dạc:

“Có gì đâu mà ba phải. Gần mực không đen. Vì, vì mực đỏ! Gần đèn không sáng. Vì, vì mắt mù !”

Biết tôi nói xạo, cả nhà cười trừ. 

 

Ðợi đâu đó im lặng. Nghe chúng cãi nhau khan họng, tôi đâm ra khát nước. Vớ lấy lon bia làm một phát “chăm phần chăm”, rồi bắt đầu ban cho chúng một thời pháp.

“Ðể mấy cậu cãi nhau chơi chứ thật ra xuôi ngược, ngược xuôi gì cũng đúng. Ðúng theo cái lý, cái định kiến của mình. Vô lý nhất là cứ cho cái mà phe ta, hoặc cá nhân ta nghĩ ta làm ta theo, là duy nhất đúng. Ngoài ra thiên hạ trật hết trọi.

Chân lý chỉ là một. Mỗi các cậu nhìn từ một hướng khác nhau nắm bắt một phần khác nhau, nên lối giải thích tất không thể giống nhau. Câu chuyện năm ông mù sờ voi là một ví dụ cổ điển rất lý thú. Ông sờ nhằm tai voi thì cứ khăng khăng bắt người khác tin rằng con voi có hình thù cái nan quạt. Ông vớ cái chân thì gân cổ bắt thiên hạ chấp nhận voi giống như cái cột đình vân vân và vân vân. Phải chi họ chịu ngồi lại với nhau, rồi ráp nối theo kiểu lắp ráp điện tử. Thì, dù không chính xác hoàn toàn cũng mường tượng đại thể ra hình con voi.

Cội nguồn chia rẽ chống đối hận thù, nghĩ cho cùng cũng vì xử với nhau nặng về lý mà nhẹ về tình. Cộng sản sụp đổ một phần vì lấy cái lý cứng ngắc để giải quyết mâu thuẫn giai cấp mà loại đi cái căn bản cốt lõi là tình người.

Cái tình thì thường đúng. Cái lý thì tùy lúc, tùy nơi và tùy người. ”

 

Phong, đứa con lớn của Hồ, nãy giờ ngồi thu mình nghe chuyện. Bỗng đứng dậy, lễ phép:

“Dạ thưa mấy bác cho con góp ý.”

Hồ nghiêm mặt nhìn con:

“Không được vô phép. Trẻ con không được xen vào.

Hân từ đầu đến giờ ngồi yên. Giờ cóc mới mở miệng:

“Trời ơi ! Cháu nó học đại học mà cậu dám bảo là trẻ con. Cái trật của các bố là cứ coi con mình là đồ trẻ con. Hậu sinh khả uý. Tương lai nằm trong tay bọn nó. Chúng mình quá thời rồi. Ðầu óc cứng đặc như sạn. Mọi việc phải giao lại cho đám trẻ mới mong khá được. Cháu. Cháu nói đi !”

“Trước hết cháu xin lỗi là không có ý ám chỉ hay hỗn láo. Theo cháu. Người Việt mình ở hải ngoại vào thế hệ mấy bác, không phải cãi nhau hay bất đồng vì nhìn sự việc ở các phía khác nhau. Họ chống đối nhau còn quyết liệt hơn khi cùng nhìn về một phía. Cháu ví dụ. Ai cũng hô hào chống độc tài chống cộng cứu nước. Tại sao họ lại chống đối nhau liên tu bất tận. Ai cũng cho mình là nhất trên cõi đời. Các bác đọc báo hay theo dõi sinh hoạt trong cộng đồng thấy điều cháu nói ra là thật. Một sự thật đau lòng. ”

Như gãi đúng chỗ ngứa, tôi cười khoái trá:

“Thế theo cháu và thế hệ tuổi trẻ các cháu nghĩ thế nào ?”

Không dấu được sự thích thú như học trò trúng tủ đề thi, Phong cười rạng rỡ:

“Dạ. Lớp trẻ chúng cháu thường nói với nhau. Thế hệ các chú các bác có trách nhiệm vì có nước trong tay mà không giữ được nước. Giờ đây cũng đừng trông cậy các chú các bác lấy lại được nước. Vừa rồi trong nước có bác làm thơ “Gửi súng về cho tao” được các bác bên này hoan hô phổ biến. Cứ nói chuyện ngây ngô trên trời. Nói cho sướng miệng. Chúng cháu tin vào những người trẻ, chị Lê Thị Công Nhân, anh Nguyễn văn Ðài và rất nhiều anh chị em khác. Cũng như các bác lớn tuổi sức yếu gần đất xa trời như cụ Hoàng Minh Chính... họ đang ở trong nước bị khủng bố tù đày. Rất can đảm và có lý tưởng. Còn cứ ở bên này la hét. Tại sao không thế này. Tại sao không thế kia. Rồi chỉ trích bôi nhọ, nghi ngờ không chừa một ai. Các cháu chán lắm, nản lắm rồi ! Ở ngoài... nói thánh, về (ở luôn) để đánh... không có tui.”

 

Không khí bỗng trở nên sâu lắng.

 

Phong ngần ngại, rồi nói chậm rõ:

“Tại sao ? Chia rẽ. Vì định kiến. Vì muốn được nhắc tên. Và vì mang căn bệnh "tự phong thánh". Chống cộng như vậy, trở thành một dạng bệnh tâm thần. Có người đã ví von. Mấy chú mấy bác, người đeo kính đen, kẻ mang kính đỏ, có người đeo kính vàng... Cãi nhau chí chóe tranh phần đúng cho mình về... màu tuyết của Alaska!”

 

 

Ninh Hạ

 

(Bai Chuyen)

 

website counter