Làm Thân
Cỏ Cú
(Lê Minh Nguyên)
Làm Thân Cỏ
Cú
Khoảng đầu thập niên
1970s, phong trào phản chiến khá mạnh ở
miền Nam. Vì là chế độ
tương đối tự do nên những bài nhạc
phản chiến được sáng tác và phổ
biến ở miền Nam
như nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc của những
sinh viên phản chiến chống sự hiện diện
của Hoa Kỳ v.v... Cho dù CS có giựt
dây hay không, thì phong trào này cũng
nói lên được nguyện vọng của
người dân miền Nam là yêu chuộng
hòa bình, không thích chiến tranh.
Sỡ dĩ có chiến tranh là
vì tham vọng của miền Bắc muốn thôn
tính miền Nam bằng
vũ lực và sự chiến đấu của miền
Nam
là một việc tự vệ chẳng đặng
đừng. Miền Nam
là tiền đồn của thế giới tự do
trong cuộc chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và
Liên Sô, và sự hiện diện của
quân đội HK là để bảo vệ tiền
đồn này chứ không phải để
xây mộng đế quốc thực dân hay sang
đoạt lãnh thổ như Trung Quốc đã
và đang thực hiện.
Trong thời kỳ này, ở Đại Học
Văn Khoa thỉnh thoảng các ban đại diện
sinh viên tổ chức những buổi ca nhạc chiều
cuối tuần với khán đài cao nằm ngay
trong khuôn viên trường, đa số các bản
nhạc là loại nhạc kích động đấu
tranh, phản chiến hay chống Mỹ. Chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa tuy giỏi về chiến đấu
quân sự nhưng có nhiều yếu kém về
đấu tranh chính trị.
Trong khi CS đem quân chính qui từ Bắc
vào đánh miền Nam một cách tàn bạo
và áp dụng cả các phương thức
khủng bố thì về phương diện
chính trị nội thành cũng như tuyên
truyền quốc tế, CS luôn to mồm là họ
yêu chuộng hòa bình, chống Mỹ cứu
nước. Trong khi đó thì phía chính
quyền VNCH vụng về, tạo cho thế giới cảm
nhận là mình hiếu chiến, qua việc cấm
nhạc Trịnh Công Sơn, việc tướng Nguyễn
Ngọc Loan bắn đặc công CS trước
ông kính của ký giả ngọai quốc, hoặc
ông Nguyễn Cao Kỳ ồn ào đòi Bắc
Tiến v.v..
Trong một hoạt cảnh của các buổi
ca nhạc này, có một bài hát chống
Mỹ thấy rõ, đó là bài
"Làm Thân Cỏ Cú"
mà lời lẽ như sau:
"Trời sinh tôi ra - Làm
thân cỏ cú -
Trời sinh anh ra - Làm thân đại
thụ -
Nay anh vươn mình - Che lấp
thân tôi -
Nay anh đâm chồi - Để gặp
thân tôi…"
"Dân tôi vùng lên
như bão tố
Dân tôi vùng lên như cuồng
phong
Dân tôi hiên ngang
tuy sống nhục nhằn.
Dân tôi vùng lên như bão
tố
Dân tôi vùng lên như cuồng
phong
Không ai giết được đời
dân tôi -
Không ai cướp được
đời dân tôi",
và
các sinh viên thuở đó rất thích
hát, nhiều cô cậu cũng chẳng để
ý đến ý nghĩa của nó là
gì, chỉ thấy hay thì nghêu ngao hát.
Ước gì ngày hôm nay bài hát
này được sinh viên đem ra hát lại
ở Hà Nội hay Sàigòn và chính quyền
CSVN tôn trọng sự tự do của họ như
chính quyền VNCH thuở xưa.
Bài hát này đem áp dụng đối
với Trung Quốc thì chính xác hơn
là đối với HK vì rõ ràng ngư dân Việt Nam đang bị giết,
bị cướp và khu vực đánh cá
truyền thống từ đời ông cha để lại
của họ càng ngày càng bị TQ thu hẹp
lại. Trong ba năm qua, TQ đã dồn dập bắn
giết ngư dân VN. Ngày
27/12/2004, họ bắt 80 ngư phủ VN về tội
đánh cá bất hợp pháp (?), dùng
tàu tuần duyên tông các tàu
đánh cá VN, làm cho 23 ngư dân bị chết,
6 bị thương và 10 tàu đánh cá
bị hư hỏng. Ngày 8/1/2005 trong vùng Vịnh
Bắc Bộ, tàu tuần duyên TQ bao vây
và bắn các tàu đánh cá VN khiến
9 ngư dân Thanh Hóa bị thiệt mạng, 7
người bị thương và 8 người
khác bị bắt.
Ngày 28/2/2007 họ bắt 12 ngư
dân Quảng Ngãi ở gần Hoàng Sa.
Ngày 27/6/2007 họ bắn và cướp tàu
13 ngư dân Quảng Ngãi
tránh bão gần Hoàng Sa. Ngày 9/7/2007
tàu TQ bắn ngư dân VN gần vùng Trường
Sa, khiến 1 thuyền chìm, 1 chết và 5 bị
thương, trong khi tàu chiến cơ động
BPS500 của hải quân VN chỉ đứng xa
nhìn.
Tham Vọng Đại Cường
Tham vọng của TQ để chiếm cứ biển
Đông và lấn đất VN đã khá
rõ ràng trong nhiều thập niên qua. Cách
đây hơn một thập niên, tờ báo
New York Times đã từng đăng những loạt
bài về TQ và nói rõ rằng TQ muốn
chiếm biển Đông để nuôi dân số
trên 1 tỷ người của họ. TQ coi biển
Đông vừa là vựa cá vừa là
nơi khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất
là dầu khí, ngòai ra nó còn
giúp họ để kiểm soát những
đường hải hành chiến lược đi
qua eo biển Malacca để vào Ấn Độ
Dương.
Ngày 4/9/1958, TQ tuyên bố lãnh hải 12
hải lý, áp dụng cho tất cả lãnh thổ
bao gồm Hoàng Sa và Trường
Sa. Tháng 1/1974, lợi dụng cơ hội Hoa Kỳ
đang rút quân khỏi VN trong chương
trình VN hóa chiến tranh cũng như không
khí hòa dịu giữa HK và TQ lúc bấy
giờ, họ đã dùng vũ lực
đánh chiếm Hoàng Sa từ VNCH, trước sự
đứng nhìn và làm ngơ của hải
quân HK.
Năm năm sau, họ đã
tràn qua chiếm đóng 6 tỉnh phía Bắc
VN, nói rằng để dạy cho VN một bài học. Sau khi rút đi, họ vẫn tiếp
tục chiếm cứ một số cao điểm dọc
theo biên giới của nước ta, mở đường
cho việc nhượng đất trong Hiệp Ước
Biên Giới Việt Trung ngày 30/12/1999 mà
lãnh thổ VN bị mất đi khỏang 800km2, trong
đó có Ải Nam quan và Thác Bản Giốc.
Năm 1980, TQ cho phổ biến bản đồ Lưỡi
Rồng chạy sát vào bở biển VN và
các quốc gia chung quanh biển
Đông, coi tất cả biển Đông là một
cái hồ (China
lake) của họ.
Tuy TQ ký Công Ước về Luật Biển
năm 1982 công nhận các quốc gia duyên hải
có 200 hải lý là vùng đặc quyền
kinh tế để đánh cá và là thềm
lục địa để khai thác dầu khí,
nhưng họ lại tập hợp khoảng 400 học giả
nghiên cứu một thập niên để kết
luận rằng biển Đông là của họ kể
từ thời thời Hán Vũ Đế. Ngày
14/3/1988, họ xâm lấn Trường Sa, giao tranh với
VN, làm cho 64 lính VN thiệt mạng, 9 bị bắt.
Đến năm 1992, họ ban hành 1 đạo
luật và tuyên bố Biển Đông là
phần lãnh hải của TQ, tàu bè qua lại
phải xin phép, nếu không họ sẽ
đánh chìm. Trong năm này họ chiếm
bãi dầu khí Vạn An phía Đông Nam
Cà Mau, và để cho việc xâm thực
không gây ồn ào trong dư luận thế giới,
họ ký Thông Cáo Chung Manila về biển
Đông, hứa hẹn đối xử trong tinh thần
tôn trọng lẫn nhau.
Mặc dù đang đương đầu với
vấn đề Đài Loan đòi độc lập,
năm 1994 TQ gởi phái đoàn sang Đài
Loan bàn về Trường Sa và hai bên
đã đồng ý chủ quyền của TQ
trên TS. Đài Loan cũng đồng
ý rằng phần đảo mà Đài Loan tập
trận thuộc chủ quyền của TQ.
Đây là hình ảnh của hai con kên
kên đang mổ thịt VN. Sự chiếm
đoạt lãnh thổ và lãnh hải của
VN đã được TQ và VN luật hóa
qua Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung
ngày 30/12/1999 và Hiệp Ước Vịnh Bắc
Việt ngày 25/12/2000.
Theo Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt,
VN bị mất khoảng 21,000km2 hải phận. Hai hiệp ước này
đã hủy bản Hiệp Ước Bắc Kinh
1887 mà TQ đã công nhận hơn 100 năm
nay là lãnh thổ toàn vẹn của VN. Cũng
trong năm 2000 này, hai bên ký Hiệp Ước
Hợp Tác Nghề Cá để thiết lập
Vùng Đánh
Cá Chung 60 hải lý mà phần lợi
nghiêng hẳn về phía TQ, với tàu thuyền
hùng hậu và kỹ thuật cao hơn, và
vùng Chung trên danh nghĩa là Riêng của
VN.
Tiếp tục cho uống thuốc độc bọc
đường, năm 2002, TQ ký thỏa thuận
với các quốc gia trong vùng Đông
Nam Á, đồng ý giải quyết
các tranh chấp ở vùng Biển
Đông một cách hòa bình. TQ dùng
nó như một chiến thuật, vì từ
đó cho đến nay họ đã liên tiếp
bắn giết để gây kinh sợ, nhằm xô
đuổi ngư dân VN từ bỏ những vùng
đánh cá truyền thống từ thời cha
ông để lại, hầu chiếm đoạt
các vùng biển này.
Ngày 1/1/2005, TQ cho xây bia chủ
quyền trên một số điểm trên quần
đảo Hoàng Sa. Trong năm này,
ông Hồ Cẩm Đào viếng VN với lời
hứa hai bên giải quyết tranh chấp biên giới
trong hòa bình. Cuối năm
2005, VN thoả thuận cho TQ khai thác dầu khí
trong vùng tranh chấp và Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đã qua TQ để thảo luận về
vấn đề này. Một lần nữa, sau
khi lấn VN bằng đánh cá chung,
TQ lấn qua việc khai thác dầu khí chung,
mà phần lợi chúng ta dư biết nghiêng
về phía TQ, và phần Chung, trên thực tế,
là phần Riêng của VN.
Tháng 6/2006, TQ vẽ lại bản đồ với
ranh giới của vùng biển thuộc TQ sát với
bờ biển VN. Đầu tháng Giêng 2007, VN
và TQ chính thức cho biết sẽ liên kết
khai thác dầu tại vịnh Bắc Bộ. Một
tháng sau, Đài Loan tập trận ở TS với
sự im lặng đồng tình của TQ. Trong khi đó, ngày 10/4/2007, TQ áp lực
các công ty BP và Conoco-Phillips ngưng cộng
tác với VN để khai thác dầu khí
vùng TS. Tháng 7/2007 Thứ Trưởng Ngoại
Giao VN Vũ Dũng họp với Thứ Trưởng Ngoại
Giao TQ Vũ Đại Vỹ về biên giới
và phía TQ (theo Tân Hoa
Xã) làm lơ không nói gì về biển.
TQ gặm nhấm từ từ biển Đông,
theo chính sách chia để trị, bẻ đũa
từng chiếc một và vừa đánh vừa
xoa, họ đã không đồng ý khi
thương thảo vấn đề biển Đông
với Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam
Á (ASEAN) như một khối chung, họ chủ
trương thương thảo riêng với từng
nước một, và khi có một cơ hội
để chiếm đoạt mà không gây ồn
ào nhiều thì ra tay ngay.
Ngày 3/9/2007 họ và Phi ký
hợp tác quân sự và giúp Phi $6.6M
đô la. Ngoại trưởng Phi Domingo Siazon, tháng
11/1998 cho biết, Phi chẳng còn một chọn lựa
nào khác, mà chỉ còn biết tuân thủ
những đòi hỏi vô lối của Bắc
Kinh. Với sự đồng lõa của
Đài Loan, việc tiến chiếm biển
Đông của TQ càng ngày càng tăng tốc,
giữa tháng 9/2007 Đài Loan xây dựng
cơ sở trên đảo Ba Bình.
Ngày 10/11 /2007 Hội Đồng Chính Phủ
TQ quyết định cho mở tours du lịch đến
các hải đảo này do Cục Du Lịch Trung
Ương TQ tổ chức. Điều nghịch
lý là năm 2006 chính họ cảnh cáo
VN về việc VN định tổ chức du lịch
như vậy. Cũng trong tháng này họ
đã tổ chức thao diễn quân sự trong
vùng TS và ngày 2/12/2007 Quốc Vụ Viện TQ phê chuẩn
thành lập huyện Tam Sa bao gồm
hai quần đảo HS và TS.
Vì Đâu Nên Nỗi
..
Chính quyền Cộng Sản Việt Nam,
do nhiều lỗi lầm trong quá khứ nên
ngày nay há miệng mắc quai. Theo tuần
báo The Economist ngày 15/12/2007 thì VN dung dưỡng
các cuộc biểu tình ngày 9/12/2007 ở
Hà Nội và Sàigòn để gởi
tín hiệu cho TQ. Ông Carlyle Thayer ngày
18/12/2007 cũng nhận xét "Các cuộc biểu
tình mới đây là bước đi đầu
tiên của VN nhằm thay đổi từ chính
sách ngoại giao sang sử dụng việc gây
áp lực nhân dân đối với TQ..."
Vì cùng chung một lò CS với nhau nên TQ
đã bắt được tín hiệu này,
chính TQ cũng đã sử dụng phương
cách này đối với các quốc gia
khác như HK và Nhật Bản trước
đây. Như trên đã nói, TQ theo chính sách vừa đánh vừa
xoa nên ngày 19/12/2007 (theo báo South Chi na Morning
Post) viên chức chính quyền Văn Xương
(Hải Nam)
cho biết không có kế họach lập huyện
Tam Sa.
Ông Tần Cương, phát ngôn nhân
của Bộ Ngoại giao TQ, qua ngôn từ ngoại
giao đã khẳng định rằng "TQ có
chủ quyền không thể tranh cãi đối với
các quần đảo và vùng biển lân
cận ở khu vực biển Nam Trung Hoa " và
trách cứ VN rằng ."Việt Nam trong nhiều
thời kỳ lịch sử đã có những
quan điểm khác nhau về vấn đề chủ
quyền này và Trung Quốc hiểu rõ chuyện
đó".
Nói theo ngôn từ thường dân
thì nó có nghĩa rằng các đảo
và biển này là của tôi, không ai
được hó hé, VN không thể ăn
ngang nói ngược, tiền hậu bất nhất như
vậy được. Theo tư liệu của bộ Ngoại
Giao TQ, văn kiện mang tên " Chủ quyền
không thể tranh cãi của Trung Quốc trên
các đảo Tây Sa và Nam Sa", đã
được tạp chí Beijing Review in lại trong số
ấn hành ngày 18/2/1980, thì Hà Nội
đã thỏa hiệp được với Bắc
Kinh trong quá khứ về việc này.
Lỗi
này là do ai gây ra ?
Ngày 15/6/1956, Ngoại
trưởng Ung Văn Khiêm tuyên bố "Hà
Nội nhìn nhận chủ quyền của TQ tại
HS và TS mà TQ gọi là Tây Sa và Nam
Sa". Ngày 14/9/1958, chỉ 10 ngày sau khi TQ
tuyên bố về lãnh hải thì ông Hồ
Chí Minh ra lệnh cho Thủ Tướng Phạm
Văn Đồng gởi Công Hàm cho Thủ Tướng
Chu Ân Lai của TQ công nhận chủ quyền hải
phận TQ mà trong đó có cả HS và
TS. Đầu năm 1972, CSVN phổ biến bán đồ
thế giới mà trong đó họ gọi
tên hai đảo này là Tây Sa và Nam Sa
theo TQ. Các sách Địa Lý giáo khoa
thư của CSVN cũng gọi như vậy và
nói nó là bộ phận của bức tường
thành bảo vệ TQ.
Năm 1974 TQ chiếm HS từ
VNCH và Hà Nội giữ im lặng trong một
thái độ đồng tình. Đã vậy,
tháng 5/1976, báo Sàigòn Giải Phóng
bình luận việc TQ chiếm HS còn viết:
"TQ vĩ đại đối với chúng ta
không chỉ là người đồng chí,
mà còn là người thầy tin cẩn
đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để
chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy chủ
quyền HS thuộc VN hay thuộc TQ cũng vậy thôi". Đến
khi CSVN đánh nhau với TQ ở TS giữa tháng
3/1988 thì một tháng sau bái Báo Nhân
Dân ngụy biện cho việc làm này của
họ là để tranh thủ sự gắn bó của
TQ (bằng cách dâng hiến lãnh thổ)
và ngăn chận HK sử dụng 2 quần đảo
này.
Các hiệp ước
1999 và 2000 đã đóng khằn sự cam kết
chấp nhận mất đất mất biển VN cho TQ.
Các hiệp ước về đánh cá
và khai thác dầu khí với TQ trong vùng
biển của mình mà TQ đòi tranh chấp
là một hình thức "cố đấm
ăn xôi xôi lại hẩm". Trong thời
ông Đỗ Mười và Lê Khả
Phiêu làm Tổng Bí Thư, CSVN hãnh diện
ca ngợi 16 chữ vàng trong mối tương quan với
TQ " Láng Giềng Hữu Nghị - Hợp Tác Toàn
Diện - Ổn Định Lâu Dài - Hướng Tới
Tương Lai".
Trong khi đó ý
nghĩa của nó là: Tôi và anh ở cạnh
bên nhau, tôi thì quá lớn, còn anh
thì quá nhỏ, nếu muốn thân thiện
thì hai ta phải hợp tác toàn diện, nghĩa
là 100% từ mũi tới lái, chiếc thuyền
nhỏ của anh phải cột chặt vào chiếc
tàu lớn của tôi nếu như anh muốn
có ổn định lâu dài, để
chúng ta cùng hướng tới tương lai do
tôi lèo lái (vì khi đã cột chặt
vô rồi thì anh có muốn lái cũng
không được). Lúc ông Đỗ Mười
cầm quyền, Ban Chấp Hành Trung Ương đảng
CSVN tuyên bố rằng vì xã hội chủ
nghĩa mà đi sát với TQ, trong khi đó
vấn đề lãnh thổ lãnh hải là vấn
đề nhỏ.
Sự yếu kém
và sợ sệt của CSVN đối với TQ
còn được thể hiện qua việc VN
đã cấp visa nhập cảnh vào cuối
tháng 7/2007 cho ông Du Tích Khôn, chủ tịch
đảng Thăng Tiến Đài Loan, rồi sau
đó lại hủy bỏ vì bị TQ áp lực.
Các chính khách Đài Loan xem đó
là một hành động bất nhã về
khía cạnh lễ tân quốc tế, có
tính cách lăng mạ, phỉ báng họ.
Tháng 8/2007 vừa
qua, trong khi báo chí thế giới phổ biến
tin tức về vấn đề hàng hóa TQ
kém chất lượng, có hại cho an toàn
và sức khỏe và báo chí VN
đăng lại, thì Đại Sứ VN ở TQ
là ông Trần Văn Luật bị Bộ Ngọai
Giao TQ gọi đến huấn thị và hăm dọa
là báo VN phải ngưng đăng ngay, nếu
không thì hàng VN sẽ gặp vấn đề
ngay tại biên giới.
Giải
Pháp Nào Đây ?
Có lẽ sự
hèn yếu của CSVN đã làm cho nhiều
thành phần trong xã hội cảm thấy bất
mãn và sự bất mãn này đã
đi vào nội bộ của đảng CSVN.
Ngày 10/12/2007 website của Chính Phủ VN có
đăng bài "Cộng Đồng Mạng"
Và 9-12-2007, Một Ngày Son Của Toàn Thể
Dân Tộc Việt Nam, trong đó nói cuộc
biểu tình "đã được
đông đảo các giai tầng của xã hội
ViệtNam tiến hành đồng thời tại
Hà Nội và TP HCM, trước sự cảm
thông ở mức nhất định của chính
quyền."
Bài này sau
đó bị rút xuống và không cho biết
là do hackers hay bất đồng nội bộ. Tờ
VietnamNet, ngày 17/12/2007 bị kiểm điểm, phạt
tiền 30 triệu đồng và Tập đoàn
Bưu chính Viễn thông cử ông Bùi Quốc
Việt tạm thời thay ông Nguyễn Anh Tuấn
(đang công tác ở Mỹ) làm Tổng
biên tập vì đăng bài "Sức mạnh
đồng thuận Việt Nam: Nhìn từ Hoàng
Sa -Trường Sa" lên mạng ngày 10/12/2007
và vài giờ sau bị lấy xuống, trong
có câu "... Và mỗi khi chủ quyền
dân tộc, sự toàn vẹn lãnh thổ
đất nước bị xâm phạm, là
lúc những người Việt, trong và ngoài
nước, ở mọi thành phần, mọi lứa
tuổi, bằng cách này hay cách khác
đã lên tiếng !"
Giữa tháng 12/2007
dân Sàigòn chứng kiến các bảng khẩu
hiệu trên đường đi đến phi trường
Tân Sơn Nhất để kỷ niệm ngày
thành lập Quân Đội Nhân Dân 22/12,
các bảng này chỉ nhắc đến các
trận đánh với TQ như trận Bạch Đằng,
trận Ngọc Hồi - Đống Đa, trận Chi
Lăng hay Bình Ngô Đại Cáo và Quang
Trung, Lê Lợi, Nguyễn Trãi.
Một nhà chính
trị lão thành VN, cách đây hơn một
năm, có một nhận xét khá lý
thú "khi nào chúng ta thấy tàu chiến
Hoa Kỳ ghé cảng Hải Phòng thì đảng
CSVN sẽ vỡ". Đây là một nhận
xét có tích cách trực giác vì
ông không giải thích tại sao nó vỡ,
nhưng kể từ đầu thập niên 2000s
chúng ta thấy có những biến chuyển mạnh
trong mối quan hệ giữa VN và HK, như ông
Frederick Brown, chuyên viên về bang giao quốc tế
của đại học John Hopkins đã nhận
xét.
Tháng 11/2003, tàu
chiến USS Vandegrift đến cảng Saigon và qua
tháng 7 năm sau, tàu chiến USS Curtis Wilburn đến
cảng Đã Nẳng. Tháng 7/2007 tàu USS
Peleliu ghé Đà Nẳng và đến giữa
tháng 11/2007 thì hai tàu chiến USS Patriot
và USS Guardian đến cảng Hải Phòng.
Đầu tháng
2/2007, trong cuộc hội thảo của American Enterprise
Institute về tương quan VN-TQ, ông Alexander Vu Vinh,
thành viên Chương trình An ninh Quốc Tế,
Trung tâm Khoa học và Quốc tế vụ trường
đại học Harvard, nhận xét rằng quan hệ
Việt-Trung lâu nay phức tạp và có nhiều
tính chất. Hai bên tỏ ra tôn trọng nhau
tuy nhiên luôn thủ thế và sẵn sàng
đưa đối tác vào bẫy nếu cần.
Về chiến luợc, nội bộ lãnh đạo
VN chia ra 2 phái, tạm gọi là phái bảo vệ
XHCN và phái chủ trương hội nhập với
quốc tế và phía bảo vệ XHCN vẫn
thường xuyên chiếm ưu thế.
Ngày 13/12/2007,
Đô đốc Timothy Keating, Tư lệnh Thái
Bình Dương của HK thăm VN, trên bình
diện nổi thì nói về hợp tác quân
y, khí tượng, tìm kiếm hài cốt
và tham gia lực lượng gìn giữ hòa
bình trong tương laị Vấn đề Biển
Đông ông cho là rất phức tạp
và kêu gọi các nước tuân theo
tuyên bố năm 2002 về giải quyết các
xung đột trên biển Đông một cách
hòa bình. Ông cho biết HK chưa hề tiếp
cận VN về vấn đề cảng Cam Ranh từ sau
1975 và không có nhu cầu.
Theo ông, giữ
"nguyên trạng" hiện nay trong vùng về
hải quân là phù hợp với tất cả
các bên. Không đầy một tuần sau,
Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ
AK Antony thăm VN. Ông và Bộ
trưởng Quốc phòng VN Phùng Quang Thanh
đồng ý sẽ thành lập một
nhóm công tác chung để mở
đường cho việc ký kết
một Biên bản ghi nhớ về
hợp tác quốc phòng trong tương lai
gần.
Giáo sư Bharat Karnad,
chuyên gia về an ninh quốc gia của
Viện Nghiên cứu Chiến
lược Ấn Độ, cho rằng
giá trị chiến lược của VN
đang được lãnh đạo Ấn
Độ ngày càng nhìn nhận và
đề cao; ngược lại, Ấn
Độ có thể là đối
tác vô cùng lợi hại trong quá
trình đối trọng của VN với
các đại cường. Theo ông, trong tình
hình lãnh hải có nhiều diễn
biến phức tạp, VN chắc chắn
cần trợ giúp từ các
lực lượng hải quân hùng mạnh
bên ngoài. Cũng cần nhắc lại là
đầu tháng 7/2007 Thủ tướng VN Nguyễn Tấn
Dũng đã viếng Ấn Ðộ để thảo
luận về các vấn đề kinh tế, chiến
lược và quốc phòng. TQ qua Pakistan tạo thế
móng chân mèo nên Ấn Độ cần VN
để thăng bằng thế trận này.
Ông Carlyle Thayer cho rằng
VN ở thế yếu và cần
sử dụng biện pháp ngoại giao
cũng như các tổ chức đa
phương và khu vực như ASEAN để
giải quyết thế kẹt của mình.
Theo ông, về cơ bản trong mọi vấn đề
liên quan, VN đang trong cảnh thua thiệt đủ
đường, cho nên VN cần những người
bạn như Mỹ để duy trì sự ổn
định ở vùng biển Đông, nhưng
có lẽ Mỹ sẽ không bị hút vào
vấn đề này. Ông cho rằng điều VN
cần làm ngay là mạnh mẽ đưa ra
công luận thế giới vấn đề tranh chấp
này và điều đó sẽ đánh
động TQ.
TQ vừa tổ chức
đại hội đảng lần thứ 17 mà trong
đó họ đề cập tới một thế
giới hòa hợp, họ dùng từ
"phát triển hòa bình" (peaceful
development) thay vì "trỗi dậy hòa
bình" (peaceful rise) như trước đây.
Ngày 20/12/2007 Bộ Quốc phòng VN
bất ngờ quyết định cho phép
các chuyên gia nước ngoài vào
nghiên cứu các trận đánh
cũng như chiến lược của quân
đội VN. Có lẽ đây là chỉ
dấu cho thấy một sự chuẩn bị để
hợp tác quân sự đa phương với
bên ngoài. Với 455,000 quân, VN là
nước có quân đội tại
ngũ lớn nhất ở Đông Nam
Á, nhưng hải quân và không quân
còn quá thua kém TQ để có thể bảo
vệ biển Đông.
Chính quyền CSVN
không có khả năng bảo vệ biển
Đông, muốn thực hiện được việc
này, VN cần cố gắng thực hiện cho
được bốn bước quan trọng. Bước
đầu tiên là làm sao huy động
được sức mạnh của toàn dân VN,
trong cũng như ngoài nước . Các chế
độ độc tài thường hay qua mặt
dân chúng để làm những quyết định
hay hiệp ước bí mật với nhau, và
trong trường hợp này các nước nhỏ
thường bị thua thiệt vì dễ bị hiếp
đáp, do không có dân chúng đứng
sau lưng để làm hậu thuẫn và
bàn tính sâu xa vấn đề, cùng sự
thiếu vắng dư luận quốc tế để
bênh vực công lý và ngăn chận luật
rừng xanh.
Để ngăn chận
dân chúng VN biểu tình, TQ gõ đầu
CSVN để ra lệnh dẹp, qua câu nói của phát ngôn nhân Tần
Cương "Chúng tôi thực sự quan ngại
về những diễn biến mới đây ở VN.
Điều đó sẽ làm tổn hại quan hệ
tốt đẹp giữa hai nước... Chúng
tôi hy vọng chính phủ VN sẽ có
thái độ trách nhiệm đồng thời
có các biện pháp hiệu quả nhằm
ngăn chặn những sự việc làm tổn hại
đến quan hệ song phương như vậy".
Nhưng TQ không
có đầu để gõ đối với
người Việt hải ngoại. Các cuộc biểu
tình thường xuyên và rầm rộ ở
các tòa đại sứ và lãnh sự của
TQ ở khắp các nơi trên thế giới sẽ
là một sự mất mặt lớn lao cho họ
trên trường quốc tế, nhất là họ
đang lo tổ chức Thế Vận Hội ở Bắc
Kinh vào năm 2008.
Chế độ hiện
tại, do sẵn sàng bằng mọi giá để
trả cho TQ trong việc thôn tính miền Nam,
đã làm những lỗi lầm chiến lược
trong việc dâng đất dâng biển để
lấy súng đạn và nhờ viện binh. Do
đó bây giờ muốn đòi lại
thì mở miệng mắc quai. Thực tế bang giao
quốc tế không có việc bốn phương
vô sản đều là anh em. Trong quá khứ
VN và Thái Lan đã từng đòi Cao
Miên mỗi lần một vài tỉnh dưới
thời Nặc Ông Chân, Nặc Ông Thôn, Nặc
Ông Nộn khi anh em họ tranh giành nhau và chạy
đi cầu viện bên ngoài.
Sự liên tục của
chế độ CSVN hiện nay làm cho họ không
thể nào tránh được trách nhiệm
phải thi hành những cam kết của họ đối
với đàn anh TQ. Do đó, bước thứ
hai là họ phải có can đảm thay đổi
chế độ. Qua một đêm ông Yeltsin
có thể biến mất Liên Sô với những
ràng buộc lỗi thời, và tạo ra một
thể chế mới để làm lại từ
đầu những gì mà chế độ cũ
không thể nào sửa chữa được.
Đã đến lúc VN cần
có một chế độ chính trị hoàn
toàn mới để đoàn kết trong
ngoài, và thích nghi với môi trường
của thế giới ngày hôm nay mà các ý
niệm quốc gia, dân tộc đã phát triển
vượt biên thùy. Vì môi hở răng
lạnh, sự thay đổi thế chế chính trị
ở VN có nhiều phần dẫn đến sự
thay đổi chính trị ở TQ. Nếu sự thay
đổi này đưa đến một TQ dân
chủ thì đó là một diễm phúc
cho VN, vì bản chất của dân chủ là
không đe dọa và sống cộng tồn với
các nước láng giềng, tựa như HK với
Gia Nã Đại và Mễ Tây Cơ. Việc
thay đổi này ở VN cần có sự tiếp
sức mạnh mẽ của đại khối quần
chúng để tạo sức phóng hỏa tiễn,
hầu đẩy phi thuyền lãnh đạo
VN ra khỏi quỹ đạo của TQ.
Bước thứ ba
là VN cần vận động dư luận thế
giới, bạch hóa mọi thương thảo, mọi
hiệp ước và các bản đồ
ký kết với TQ. Các diễn đàn
như Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc
mà VN là một hội viên không thường
trực, diễn đàn APEC, ASEAN, Tòa Án Quốc
Tế v.v.. là những nơi mà VN phải
tích cực vận động và đòi hỏi
sự lên tiếng để bênh vực công
lý cho mình. Bước này sẽ hữu hiệu
hơn nếu có người Việt ở khắp
nơi trên thế giới hỗ trợ Bộ Ngọai
Giao VN trong việc vận động. Hy vọng bước
thứ hai ở trên được thực hiện
để việc này có thể xảy ra.
TQ có thể không coi VN
ra gì, nhưng họ rất quan tâm đến
dư luận thế giới, như chúng ta thấy,
khi thế giới lên tiếng về hàng hóa
TQ thiếu tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn
thì TQ đã có những biện pháp mạnh
đối với các nhà sản xuất để
tìm cách chấn chỉnh ngay. Hiện nay TQ vừa
muốn tổ chức thành công Thế Vận Hội,
vừa muốn hàng hóa của họ không bị
tẩy chay nên họ có thể nhượng bộ
trước dư luận quốc tế. Việc
chính quyền Văn Xương nói rằng họ
không có kế hoạch thành lập thành
phố cấp huyện Tam Sa cho thấy TQ có nhạy cảm
khi dư luận trở nên ồn ào.
Bước thứ tư
là bằng chính sách ngoại giao, VN phải
chủ động trong việc vận động và
hình thành một liên minh quân sự với
Ấn Độ và Hoa Kỳ. Ấn Độ có
cùng cảnh ngộ với VN, nghĩa là có
biên giới chung với TQ, đang bị TQ chiếm một
số lãnh thổ và vẫn chưa trả lại,
đang bị TQ dùng Pakistan làm móng mèo
để cào. Tuy là một cường quốc
nguyên tử và kinh tế đang phát triển
mạnh, nhưng một mình Ấn Độ không
đủ sức để giúp VN bảo vệ biển
Đông. Thế TQ-Pakistan mạnh hơn Ấn Độ-VN,
do đó VN cần thêm HK.
Tuy Hoa Kỳ có thừa
khả năng để bảo vệ biển
Đông, nhưng nếu VN chỉ đi với HK
thì có thể sẽ bị HK sử dụng
như một tiền đồn của họ trong
tương lai. Mối tương quan không cân xứng
(tựa như với TQ) nên dễ bị lép vế
trong các cuộc thương thảo song phương,
và khi có tranh chấp ở biển Đông
thì chưa chắc gì HK đã chịu can thiệp
để bênh vực đồng minh.
Kinh nghiệm cho thấy khi TQ
dùng vũ lực chiếm đảo Vành Khăn
từ Phi Luật Tân vào cuối năm 1998, bộ
trưởng quốc phòng Mercado của Phi đã
kêu gọi HK can thiệp vì hai bên có hiệp
ước liên minh quân sự, nhưng chánh quyền
Clinton từ chối với lý do là hiệp ước
không áp dụng cho các vùng lãnh hải
đó. Một liên minh quân sự tay ba
"VAM" (Việt-Ấn-Mỹ) sẽ làm cho VN
cân xứng hơn, biển Đông dễ được
bảo vệ hơn, VN ít bị lệ thuộc nặng
nề hơn vào một cường quốc.
Muốn được vậy
thì VN phải tích cực và chủ động
trong việc vận động để thành
hình liên minh VAM này. Vì đồng cảnh
ngộ nên VN có thể dễ dàng trong việc
vận động Ấn Độ, nhưng có thể
gặp khó khăn đối với HK, vì việc
TQ chiếm TS chưa phải là vấn đề
đe dọa đến an ninh quốc gia của họ,
và họ đang có nhiều liên hệ quyền
lợi với TQ hơn là VN.
Le
Minh Nguyen
from: robertle@att.net
(NGỌC YẾN
chuyển)