NGỌN RAU LÁ CỎ
(Nguyên Nhung)
Ngày còn bé, gia
đình tôi sống rất đạm bạc
vì cuộc phân ly Nam Bắc làm tiêu tan sự
nghiệp của cha mẹ tôi. Khi vào Nam, để an ủi lũ con bằng lòng với nỗi
thiếu thốn hằng ngày, mẹ tôi thường
bảo: "Đói
ăn rau, đau uống thuốc, thịt cá
hương hoa, dưa cà căn bản". Câu nói ấy nhập vào
tâm hồn chị em tôi như nét mực
tím in trên trang giấy trắng, khi lớn khôn
dù cơm gà cá gỏi ngon đến
đâu, vẫn thòm thèm hương vị những
bữa cơm rau thời thơ bé.
Bản tính mẹ tôi hay lo xa, dành dụm
tằn tiện đề phòng khi trái gió trở
trời các con vẫn có cái ăn
cái mặc, nên không bỏ phí món
gì. Trước tiên là củi gạo,mắm muối, mỗi lần đi
bán hàng về mẹ tôi lại mua thêm một
ít, sau này khi lâm vào cảnh khó
khăn như mẹ tôi, tôi cũng tính
toán y hệt mẹ. Trên cái giàn bếp bồ
hóng giăng giăng, mẹ tôi lèn đủ
thứ lương thực phơi khô như đường
tán, khoai khô, củ cải, xu hào để
ngâm tương, cá khô, tép khô
phòng khi mưa gió vẫn có thứ
đưa được miếng cơm vào bụng.
Ngoài mé hiên là vại tương vại
cà, cũng nhờ cái vại tương nhiều
chất đạm này thay cho thịt cá
, khi lớn lên đọc sách vở mới
biết dù cơm rau thanh đạm, nhưng mẹ
tôi nuôi các con từ tấm bé it khi ốm
đau bịnh tật.
Quanh khu vườn rộng vuông vức ấy
không có chỗ nào thừa để phải
thiếu rau ăn kể cả khi
mùa hè nắng khô rang không một giọt
mưạ Chiều nào nơi cái giếng trong vắt
dưới lòng đá ong, chị em tôi thi nhau
kéo nước tưới rau, trẻ con cũng vất
vả như người lớn. Nhờ vậy
trời oi ả thì đã có tô canh hoa
lý ở sân trước làm mát mẻ.
Đang đi ở ngoài nắng chang chang,
bước vào sân trước có giàn hoa
thiên lý tự nhiên thấy cái nóng dịu
hẳn đi. Giàn thiên lý
lá xanh biêng biếc che kín khoảng sân
đất, được tưới tắm đầy
đủ nên cho hoa quanh năm để mẹ tôi
nấu canh hoa lý với tôm khô.
Hoa thiên lý màu ưng ửng vàng
có mùi thơm dìu dịu, không nồng
nàn như các loại hoa khác, hoa ra nụ từng
chùm từ thân dây, lá thiên lý thuộc
loại lá đơn, chi chít như lá hoa
bông giấỵ Hoa có hình dáng đơn
sơ xoè ra năm cánh như ngôi sao mùa
Sinh nhật, nhưng có duyên lạ lùng,
nhìn nó người ta hình dung ra cái đẹp
của một cô thôn nữ đoan trang, hiền
lành, quanh năm ngày tháng không cần
đến phấn son tô điểm.
Những buổi chiều ở nhà
quê thật êm ả, chỉ có bụi chuối
bên hè xào xạc. Dưới giàn hoa thiên lý là một
mảnh sân đất pha cát,
nên khi trời mưa, mảnh sân như một tờ
giấy thấm hút hết nước, khi cơn
mưa tạnh, sân lại khô rang, khi nắng
lên soi qua giàn hoa lý những cái bóng
nắng nhảy muá trên nền đất rất
vui mắt. Ở cái sân đất cát
này là nơi chị em tôi ngồi chơi
ô quan, nhảy dây với lũ
trẻ con hàng xóm, chí choé cãi nhau
vui đáo để. Không phải
hôm nào mảnh sân cũng ồn ào,
ngược lại có những ngày mẹ tôi
đi bán hàng xa chưa về, tôi tha thẩn
chơi một mình trước nhà chờ mẹ.
Trò chơi trẻ con của tôi là một
cái que tre nhặt được, rồi cứ thế
ngồi phệt xuống ngạch cửa và bắt
đầu vẽ những cái mặt người
méo mó, tuỳ theo óc tưởng
tượng của một đứa trẻ con.
Đâu có gì để chơi ngoài
một cái que nhọn với khoảng sân đất
nhẵn thín, vẽ rồi lại xoá, xoá rồi
lại vẽ, trong đầu tôi là hình ảnh
một bà tiên, một cô dâu khăn
áo lượt là, bà hoàng hậu, cô
công chuá trong những chuyện cổ tích. Lần
lượt những nhân vật thần tiên huyền
diệu nằm đầy trên mảnh sân con
trước nhà, không có trò chơi ấy
chắc tôi phát khóc lên được khi
bóng chiều đổ xuống căn nhà nhập
nhoà bóng tối mà chờ mãi mẹ
tôi vẫn chưa về. Chị tôi lo nấu
cơm chiều, đứa trẻ con lên mười ở
nhà quê cũng biết lo như người lớn,
cũng biết cắp rổ ra vườn hái đọt
đậu xào tỏi, thêm vài con cá
khô nướng là mâm cơm đã
tươm tất rồi. Sau này khi rời xa chốn
cũ, trong ký ức của tôi vẫn thoảng lại
mùi cá khô nướng bay tản mác trong
khu vườn khoai sắn xanh um của những ngày
bé dại.
Mảnh vườn ấy có nhiều thứ rau
để mẹ con tôi sống qua ngày với mắm
muối dưa cà, bây giờ ngồi nhớ lại
tôi dám cho là những món sơn hào hải
vị cuộc đời dễ tìm để ăn hơn những món rau quanh vườn
của mẹ con tôi hồi ấy. Chẳng hạn mẹ
tôi trồng đậu đen nhưng không phải
để lấy hạt nấu chè, mà cái
chính là đọt đậu đen xào tỏi
bùi bùi thơm ngon không
chê vào đâu được. Giàn mướp
trĩu quả ăn không hết mẹ tôi còn
mang ra chợ bán, nhưng đọt mướp
hương xào tỏi thì dám chắc ít
người được thưởng thức, vì cả
giàn mướp may ra mới bẻ được một
nắm tay, khi xào tóp lại chỉ còn một
dĩa, chị em tranh nhau gắp quên cả phần cho
mẹ.
Bây giờ ở quê người, rau cỏ
tuy không phải cao lương mỹ vị mà vẫn
khó tìm, ăn để mà ăn chứ
tìm ra mùi “hương đồng cỏ nội”
trong những lá rau ngoài chợ không bao giờ
có, người xa quê nhấm cọng rau trong miệng
tìm lại mùi hương quê lại càng
khó tìm hơn nữa.
* * *
Ít lâu sau, chiến tranh lại bò
vào cái miền quê nghèo ấy, mọi
người sợ tên bay đạn lạc nên lại
lần lượt bỏ đi, gia đình tôi chuyển
về miền Tây vì nơi ấy đất
lành chim đậu. Ngày về miền Tây chị
em tôi như lạc vào một khung cảnh
khác, con người miền Nam cũng khác, đồng
ruộng bao la bát ngát, sông nước
mênh mông với bao nhiêu cây cầu lớn
nhỏ, những ngôi nhà lợp ngói
đã sậm màu với nắng mưa. Nhiều
con đường còn lổn nhổn đất
và đá, khi trời mưa sình bùn
bám chặt vào tà áo dài lốm
đốm như hoa.
Năm ấy tôi đã bước vào
ngưỡng cửa Trung Học, làm thân được
ngay với con nhỏ bạn người Cần Thơ học
chung lớp. Nhà nó cũng
nghèo, căn nhà của cha mẹ nó là
căn nhà lợp ngói âm dương, thấp
và tối, buổi chiều thường âm u
mùi khói nhang. Tuy nhà cửa ẩm thấp cũ
kỹ nhưng sau nhà lại có được một
mảnh sân vuông rất mát mẻ, trồng một
cây vú sữa tím tàn che rợp khoảng
sân sau, xung quanh sân là những chậu
sành lớn bé đã sứt vành mẻ
miệng với thời gian, trồng đủ loại rau
thơm đủ dùng trên mâm cơm hằng
ngày.
Chỉ có ba cha con bạn tôi sống ở
căn nhà ấy, không thấy bóng dáng
bà mẹ. Sau hỏi ra mới biết, ông già
của bạn làm công nhân chạy xe hủ
lô cho ty công chánh, lương không đủ
nuôi con ăn học, má của bạn phải ở
nhà quê, trông coi mảnh vườn và
chăn nuôi thêm để phụ chồng nuôi
hai đứa con đi học. Cuối tuần nào ba của
bạn tôi cũng về thăm nhà ở trong
quê, khi trở ra ông mang theo những
thức ăn đủ cho cả tuần, kèm theo rất
nhiều rau xanh rất lạ.
Đám con trong nhà thường gọi
« tía » mình là « ông già
Ba Tri », bởi vì khi không có xị rượu
trên mâm cơm, ông ít nói, tính
hơi cộc nên lũ nhỏ đứa nào cũng
sợ. Thói quen cố hữu của gia đình bạn
là khi dọn cơm, dù không cao lương mỹ
vị nhưng bao giờ cũng dành riêng một
chén cơm trắng với chút thức ăn, một
đôi đũa vắt ngang trên miệng
chén, và một chung rượu
đế đặt bên cạnh. Trước khi ăn
cơm, « ông già Ba Tri » chắp tay xá xá ba
cái vào khoảng không chắc để mời
ông bà hay những người khuất mày khuất
mặt về dùng bữa, sau đó ông mới
rót rượu cho mình và nhâm nhi cái
đầu cá trong tô canh chua.
Cái đặc biệt nữa
trên mâm cơm nhà bạn tôi là rổ
rau tươi, không bữa nào thiếu, bởi
vì nó rất hạp cho món cá kho mà
người miền Nam
gọi là kho mẳn.
Những khúc cá trong cái nồi
lõng bõng nước, người ta có thể
thả thêm mấy khúc cà tím, hay mấy
khoanh bầu cũng được, nổi lềnh bềnh
trên nồi cá là những lát ớt xắt
khúc trông rất bắt mắt, một nhúm
rau răm cũng chẳng sao. Cái rổ rau kia gồm
có ít giá mập tròn trắng phếu, rồi
thì cần nước, lá sầu đâu, rau dấp
cá, rau đắng, lá mơ, lá lụa , rau dừa,
rau tiá tô, kinh giới, rau răm, húng lủi,
bông súng, cả nhà ăn rau như thỏ
ăn cỏ, khi xong bữa cơm thường rổ rau cũng
hết ...
Tôi gọi «ông già Ba Tri
» ba của bạn tôi là bác Ba. Tuy mặt mũi trông khó
đăm đăm vậy nhưng bác Ba lại rộng
rãi miếng ăn, hễ đến chơi gặp bữa
cơm ông điệu nghệ kêu ăn
bậy ba hột cho vui. Nhờ vậy tôi
còn biết thêm vài món canh chua rất ngon
như vỏ trái cóc nấu cá lóc hay với
thịt nạc, chua rất thanh như ở miền Bắc
có món cá quả nấu quả sấu chua.
Lươn vàng nấu canh chua cơm mẻ
và hoa chuối, không thể thay thế vào
đó quả me chua vì nó không
đúng vị. Xoài rụng trong vườn
bác Ba gái phơi khô để dành, trời
mưa lâm thâm mà nấu với khô đuối,
thả rau ngò om và ớt trái, ăn cũng hết
xảy ! Bác Ba ăn cơm rất
ít, thư thả nhấp rượu, vừa nhâm
nhi cái đầu cá, tay ngắt mấy cọng
rau mà hôm nào cũng làm láng cái xị
rượu rồi đi ngủ. . .
Tuy đến chơi nhà bạn
hà rầm, nhưng tôi vẫn cón ngán
« ông già Ba Tri » nhà nó vì
tính cộc cằn bất chợt như sấm chớp
trong cơn mưa giông mùa hạ. Bác Ba có một tính tốt,
bình thường rất nóng nảy và khi
nói hay đệm theo một câu chửi thề
vô tội vạ, nhưng khi ngồi vào mâm
cơm, sau vài chung rượu tuyệt đối
không bao giờ bác Ba rầy rà các con,
vì ông nói « trời đánh còn
tránh bữa ăn » mà...
Không biết một hôm « ma
đưa lối quỷ dẫn đường » chi
mà tôi lại tự nhiên buột miệng hỏi
xin bác Ba thử chơi một chút rượu
đế sủi tăm trong cái xị rượu của
bác. Tự nhiên
bác Ba cười ha hả khiến tôi giựt nảy
mình, còn nhỏ bạn thì lấm lét
nhìn ông già nó đang ngoác miệng
ra cười :
- Thiệt hông mậy ?
Tôi làm gan gật đầu, khiến
bác Ba càng thích chí, giống hệt
ông Tản Đà quê tôi bảo «
rượu ngon phải có bạn hiền »,
nhưng tôi đâu phải bạn nhậu của
bác Ba, thỉnh thoảng ở nhà mẹ tôi
cho uống một ly rượu bách nhật ngọt lịm
thơm mùi thuốc Bắc. Đó là thứ
rượu nếp than khi làm thành cơm rượu,
mẹ tôi cho vào đấy vài thang thuốc Bắc,
đổ thêm chục lít rượu trắng rồi
chôn cái khạp rượu xuống lòng đất,
đúng trăm ngày mới mang lên. Rượu
này được gọi là rượu bách
nhật, dành cho phụ nữ sau khi sinh nở để
ăn cho ngon cơm, lấy sữa cho con bú
. Công nhận mẹ tôi là người phụ
nữ đảm đang, lập nghiệp ở
đâu là bà nghĩ ngay đến việc phải
làm gì để kiếm tiền lo cho các con,
sau này người miền Nam cũng biết mua cao hổ
cốt cuả mẹ tôi để trị phong thấp,
mua rượu bách nhật cho phụ nữ uống
sau khi sinh nở, thứ rượu này đối với
những con sâu rượu như bác Ba, chỉ
là thứ chè ngọt cuả đàn bà
con gái.
Cha mẹ ơi ! Lỡ đâm
lao thì phải theo lao, tôi yên chí cái
món rượu trắng « quốc hồn quốc
lủi » cuả bác Ba ngon như rượu
bách nhật cuả mẹ tôi, nên hùng dũng
cầm cái chung rượu cuả bác đưa
mà làm một hớp nhớ đời vì
nó cay xè tới cuống họng. Thấy tôi
nhăn mặt sau khi làm thử hớp rượu
đế , bác Ba cười khà khà
thích chí, nói huyên thuyên khác với
vẻ im lìm hằng ngày, hôm ấy lũ nhỏ
cũng nói cười thoải mái.
Bác Ba làm việc cực nhọc,nên khi về nhà thường cau
có khó chịu với các con, kể cả mấy
đưá bạn đến chơi không
đúng lúc. Nhưng từ hôm
tôi làm gan xin hớp rượu cuả bác
thì hễ mỗi khi gặp, tôi lại được
bác ban cho một nụ cười thân thiện.
Sau này khi lớn khôn hơn, tôi mới nghĩ
ra cái chân lý ở đời, hễ người
ta thích gì mà mình cũng làm như
cùng một sở thích thì lấy được
cảm tình cuả người ta dễ ợt, huống
chi uống rượu một mình như bác Ba
đang thiếu người « chén chú
chén anh » mà lai rai kể chuyện đời
nữa.
Năm ấy cận Tết Âm lịch, bác
Ba gái tát đìa lấy cá bán Tết.
Khi thuỷ triều lên, nước từ sông
đổ vào mấy cái mương xung quanh
vườn, cá tôm cũng theo nhau bơi vô rồi
kẹt lại, sinh sôi nảy nở ra trong cái
đìa đầy bông súng. Bác Ba kéo
lũ con về phụ việc, và cũng
là dịp ăn Tết sớm với bà con lối
xóm mà tụi nhỏ ít khi được gặp
kể từ ngày ra tỉnh học. Vì thế
ngoài số tôm cá chọn lọc đem ra chợ
bán lấy tiền sắm sửa ăn Tết,
còn lại bao nhiêu phơi khô để
dành ăn dần trong năm, bác Ba gái
còn làm một nồi mắm kho thật bĩ
bàng, cho chồng con ăn thoải mái,
đãi luôn những nhà lối xóm đến
giúp tát đìa hôm đó nữa.
Hôm đó tôi cũng được
đi theo bạn về quê cho biết rõ cảnh sống
của người dân quê miền Nam.Từ tỉnh
đón xe Lam về quê bạn cách thị
xã khoảng hai chục cây số, đó
là một cái vườn không lớn lắm
nằm sâu cách quốc lộ vài công
vườn, phải đi theo một con đường
đất rất trơn trợt khi trời mưa, vườn
này cách vườn nhà kia bằng những
cái mương đào và trồng nhiều dừa
nước mát rượi, khác với lối trồng
tre trúc bao quanh vườn như người miền
Đông Nam phần.Trong vườn trồng được
mấy chục gốc dừa, lợi tức chính cuả
gia đình, chen trong vườn dừa là
mãng cầu, ổi, quýt, mận, bưởi nằm
dọc theo những bờ mương, những ngày cuối
tuần về quê, bác Ba trai cũng không
được hở tay chút nào vì vẫn phải
múc bùn đắp lên những gốc cây.
Cây trái tuy không nhiều nhưng mỗi
mùa bác Ba gái đều có trái
cây đem bán ngoài chợ mua thức ăn gửi cho chồng con ở ngoài tỉnh.
So với cái khoảnh sân sau trồng chen chúc những loại rau sống
ăn kèm trong bữa cơm ở ngoài thị
xã, vườn rau ở nhà quê xum xuê
đầy đủ hơn nhiều. Tát đià
xong, số cá tôm năm đó trúng lớn
nên bữa mắm kho hôm ấy thật phủ
phê, bao nhiêu cá lóc, tôm càng
, lươn vàng béo ngậy. Hôm ấy
là đại tiệc của nhà bạn tôi,
vì ngoài một số tôm cá nướng
lửa than, còn bao nhiêu trút hết vào nồi
mắm, bác Ba gái luôn tay xào xả cho
thơm để đổ vào nồi mắm nấu
tiếp, nước mắm kho đục lờ lờ
như nước bùn mà thơm hết biết !
Ăn mắm
thì phải có rau, vì vậy mà hôm ấy
tôi được dịp đi khắp khu vườn
đầy bóng mát cây xanh cuả nhà bạn,
nhân tiện tiếp bạn chuẩn bị các
món rau để ăn với nồi mắm kho. Trong
bưã ăn, Bác Ba trai khi ấy mới nhẩn
nha kể về những công dụng dược thảo
trong các thứ rau xanh trong vườn nhà bác
cho tôi và mọi người cùng nghe, thì
ra trước đây đa số ăn rau vì
thói quen, cho thêm ngon miệng chứ ít ai biết
được những vị thuốc trong ngọn rau
lá cỏ, mà ông bà mình thường
cho rằng người mình sống trên đống
thuốc mà không biết.
Rổ rau sống hôm đó còn đầy
đủ hơn rổ rau cuả cha con bác Ba ăn hằng
ngày nữa, rồi khi cầm từng thứ rau
trên tay, bác Ba mới bắt đầu e hèm
để vào chuyện :
« Ngó đây nè !
Trước tiên là rau dấp cá, thứ
này hễ mọc mạnh rồi là cỏ
không lên nổi với nó, tên của
nó gọi là ngư tinh thảo,
ai đau khổ về bịnh trĩ là biết đến
công dụng cuả dấp cá. Đàn bà
ăn thường da dẻ mịn màng, con nít
đau ban, lên trái lấy nước uống, hay
xoa lên mình cũng liền lặn, viêm ruột
, kinh nguyệt hổng đều ăn thường
xuyên cũng có kết quả. »
Mấy người đàn ông lối
xóm cười rộ lên :
« Đàn ông ăn được
không anh Ba ? »
Bác Ba trai hôm nay cũng vui hơn thường
ngày, chắc vì « rượu ngon mà lại
có bạn hiền », nên vui vẻ gật
gù bứt một cọng tiá tô giơ lên
giải thích tiếp:
« Còn lá tiá tô hay gọi
là tử tô thì công dụng lại hay
hơn nữa, chữa nhức đầu, cảm sốt rất
hiệu nghiệm »
Nghe bác Ba nói tới đây tôi liền
xen vô :
« Hèn chi ở nhà mỗi khi bị cảm,
mẹ cháu cũng hay nấu cháo trắng rồi
đập thêm cái trứng gà, thêm một
nắm tiá tô với hành lá, ăn xong
toát mồ hôi là khỏi bịnh.»
Bác Ba gật đầu nhìn tôi rất
cảm tình :
« Cái con Bắc Kỳ « con »
này cái chi nó cũng biết, cứ "mẹ
cháu, mẹ cháu" là biết liền
hà, nó còn biết nhậu nữa nghe bà
con. Con nhà nghèo đâu có thuốc men chi,
hễ bịnh thì cạo gió, giác hơi xong
rồi làm tô cháo nóng tiá tô,
hành lá là hết bịnh (e hèm). Còn
đây là rau má (bác lại cầm cọng
rau má bỏ vô miệng nhai chóp chép),
bà con mình cũng xem thường loại rau
này vì nó cũng mọc tràn lan như cỏ,
người Tàu gọi là Tích tuyết thảo
hay Liên tiền thảo, chữa nóng sốt,
lên sởi, ói ra máu, kiết lỵ, ỉa chảy,
táo bón, đái rát , thống
kinh, bạch đới. Nghe nói mỗi ngày chỉ
cần ăn vài cọng thôi là cũng đỡ
được chứng phong thấp, không cần
ăn nhiều vì rau má lạnh, ăn nhiều
quá bị mất hồng huyết cầu, phàm
cái chi cũng vậy, không nên lạm dụng
. . ."
Có tiếng cười khúc khích trong
đám đàn bà con gái, ở nhà
quê hễ nghe ai nói cái gì lạ là
cười. Bác Ba trai chỉ đám xả
lên phơi phới một màu xanh mát mắt
trồng bên vệ rào:
"Trồng cây xả ở xung
quanh rào là cũng có ý rồi
đó, trước là khử không cho mấy
con rắn bén mảng vô vườn, sau là khi
nấu mắm như bữa nay thì phải có xả
mới dậy được mùi mắm. Sách thuốc người
ta gọi là Chu Cam Cun, giúp tiêu hoá,
ói mửa, đầy bụng. Còn cái
đám rau ngót xanh rờn kia người Bắc hảo
ăn hơn người Nam, họ nấu canh với
giò sống , xem như một món canh ăn thường
xuyên, rau này trị ban sởi, mát phổi,
bí tiểu tiện, thông huyết nên
đàn bà mới sanh cũng ăn được.”
Mọi người cùng ồ lên vì sự
thông thái của bác Ba, ngạc nhiên
không hiểu người đàn ông quê
mùa này có vẻ am hiểu về thuốc men
mà lại không làm ông thầy thuốc Nam. Bác
Ba được dịp khoe tiếp:
" Tui
đi ta bà khắp nơi, đói ăn rau, đau
uống thuốc nên vì vậy mà biết
chút chút để dành khi cần xài, lỡ
lúc ngặt nghèo cũng qua cơn khốn
khó. Cho nên hễ đến nhà ai thấy
có loại rau lạ, xin về làm giống rồi
lan tràn ra khắp vườn. Miền
Nam
hay um lươn với lá cách, rau ngổ, mấy
thứ lá này kết hợp với lươn
mà thành thứ thức ăn bổ
âm, rất tốt. Ông Lâm ngữ Đường
viết sách nói phàm cái gì ăn
được tự nhiên mà bổ dưỡng
cho cơ thể, tốt hơn ba cái thứ thuốc
bào chế uống nhiều chỉ hại gan, nát
phổi thêm"
A hà, bây giờ khi bác Ba chạy
qua ông Lâm ngữ Đường thì bà
con cùng ngớ ra nhìn bác như Thánh sống. Ông Lâm ngữ
Đường là ai thì họ không biết,
nhưng nội cái tên Trung Hoa là đủ sức
cho họ thán phục rồi. Bác Ba chỉ
những vồng cây lá lốt mọc xanh tốt
ven bờ rào rồi nói:
"Đó, thuốc nằm khơi khơi ra
đó mà ai hễ đau lưng, thấp khớp
cũng đi tìm thuốc, nó cho uống ba
cái thuốc hạt dưa độc thấy bà
ra mà ai cũng khen là thuốc tiên, uống
vô một viên bách bịnh tiêu tan, có
mà tiêu tán đường ra nghĩa địa
luôn đó. Lá lốt nhiếu chất
vôi, chủ trị thấp khớp, đau xương,
đau lưng, tiêu hoá kém, đầy hơi,
đau bụng, sưng phù ăn
thường là có kết quả, ví nó
là thứ quy trong thuốc Bắc cũng được.
Riêng còn một thứ rau mà hễ Bắc Kỳ
ăn bún riêu không có nó là
không được, đó là cây kinh giới
...."
Mấy người đang cắm cúi ăn cùng "ồ" lên một
lượt. Bác Ba hứng chí tiếp:
"Bà con mình ở trong quê không biết
tới thứ rau này, nó cay cay nồng nồng
mà hay thượng hạng, cảm sốt nhức
đầu, cảm cúm , viêm họng
muốn ói chỉ cần bứt một nắm ăn
là thấy khoẻ."
Rồi bác xoay qua đùa với tôi:
"Ê, Bắc Kỳ con, có phải
"trên trời có đám mây xanh, ở
giữa có cây kinh giới, xung quanh Bắc Kỳ"
không nhỏ ?"
Mọi người lại cười ồ
lên, ai cũng ngó tôi như người
hành tinh khác, nhưng sao mặt mũi cũng dễ
thương y chang mấy đứa con gái Nam Kỳ.
"Rau muống xào tỏi mà ăn
với rau kinh giới thì mới đúng điệu
con cá gỗ. Nhưng ăn bún
riêu mà lại ăn rau muống chẻ với rau
kinh giới nữa thì con trai Nam Kỳ đi theo con
gái Bắc ráo trọi. Không nói đến
công dụng về thuốc, mà nội hương
vị của các thứ rau thôi cũng thấy nó
ngon rồi..."
Ai cũng trố mắt lên nhìn
bác Ba một cách thán phục. Đúng lúc đó thì
hai con "ky ky" nhà bác Ba
dành nhau mẩu xương cá, ủng oẳng
dưới gầm bàn, bác Ba trai lại cười
chỉ vào cái nhúm lá mơ ở trong rổ.
Mọi người lại trố mắt lên chờ
đợi, mấy cái miệng đều la lên:
“Trời ! Lá
thúi địt, hôi muốn chết.” Rồi họ cười ầm ĩ lên
như phát hiện điều gì thú vị lắm.
Bác Ba lại nheo mắt nhìn tôi:
"Ậy, thứ lá này là mấy con
cẩu nhà tao chạy cong đuôi, nhưng nói
đến công dụng cuả nó thì đệ
nhất hạng trong các thứ rau, vì nếu biết
dùng thì rất tốt cho người yếu tỳ
yếu vị. Mỗi ngày chịu khó ăn
chơi vài lá có thể ngừa được
nhiều chứng bịnh thông thường như
sình hơi, kiết lỵ, sỏi thận, bí tiểu,
thấp khớp, ăn không tiêu, đi cầu ra
máu, viêm bao tử, viêm ruột."
Nghe bác Ba nói tới đây
thì ai cũng vội tìm một lá giơ
lên ngắm nghiá.
Màu lá phơn phớt nâu tím, một mặt
xanh, lông tơ mịn phủ trên thân lá mềm,
ai biết được nó là vị thuốc
quý như vậy mà lại hằng hà sa số, không cần trồng cũng mọc.
Người Bắc khi đánh chén “nai đồng
quê” nhất định không thể thiếu
lá mơ, nhà thuyền chài ăn gỏi
cá mà không có lá mơ xem như thiếu
tất cả, còn như bác Ba kẹt lắm
có miếng thịt ba rọi luộc, quấn với
lá mơ mà chấm mắm nêm, nhậu với
xị rượu không có gì ngon hơn.
Riêng bác Ba gái muà hè khi rảnh rỗi,
bứt hằng rổ rồi đem phơi khô, bắt
đầu tháng năm khi sắp bước vào
muà mưa, trời nắng hạn con nít nổi
rôm, sẩy đầy người, khó ngủ, chỉ
cần sao lên rồi nấu nước uống,
mình mẩy lành trơn, mát rượi.
Bưã mắm và rau cuối năm ở
nhà bác Ba năm ấy chắc là bữa
ăn ngon cuối cùng, vì năm sau chiến trận
xảy ra ở đây dữ dội lắm, dân
chúng chạy tản cư ra chợ, lộn đi lộn
về nhiều phen nhưng không ai dám ở
vì ban ngày thì có vẻ bình yên,
nhưng ban đêm tên bay đạn lạc ì
xèo, bác Ba gái đành phải bỏ
vườn chạy ra tỉnh ở luôn với chồng
con. Lâu lâu khi tình hình tạm yên,
bác lại mò về mảnh vườn ở
trong quê của mình, để nhìn các thứ
rau không còn ai chăm sóc, bò quanh bò
quẩn quanh vườn tìm cách tồn tại,
vườn tược rậm rịt y như những
đứa trẻ côi cút không ai ngó ngàng
tới.
Tôi vẫn đến nhà bạn
chơi như những năm trước, khi đó
hai đúa đã lớn bộn mà còn biết
yêu nữa. Bạn
tôi yêu một anh bạn hàng xóm, hai
nhà cách nhau có cái giậu hoa trang mà
cũng viết thư xanh, thư hồng,
tôi lâu lâu làm thơ tình giùm cho
nó, dĩ nhiên cái sân sau nhà bạn chỉ
trồng rau, cho nên thơ cuả tôi không khỏi
có hương vị rau cỏ trong đó. Một
bài thơ mà đối với tôi thuở
đó rất dễ thương, nhớ hoài
đến bây giờ, kể lại chuyện tình
của bạn tôi năm mười bảy tuổi,
đến cũng nhanh mà đi cũng vội, như con
bướm bay từ vườn hàng xóm, đậu
trên những luống cải hoa vàng mùa
Xuân, rồi bay đi đâu không biết.
Tình Đầu
" Năm em mười bảy tuổi
Có anh đi vào đời
Bằng ánh mắt nụ cười
Với muà Xuân lên ngôi
Thương nhau vào muà Xuân
Rồi tình yêu thắm dần
Sách vở đầy thương
nhớ
Tình đẹp như thiên thần
Hai nhà chung một
ngõ
Cách một mảnh vườn sau
Vườn nhà anh bướm lượn
Vườn nhà em trồng rau
Yêu nhau không dám nói
Nhìn nhau không dám cười
Thư tình anh đem dấu
Dưới bụi cây ven rào
Những chiều ra hái rau
Mắt ngó trước nhìn sau
Thư tình trong túi áo
Len lén mình thương nhau
Rồi bỗng dưng một dạo
Thư hồng anh thôi trao
Nụ cười thôi đưa
đón
Gặp nhau anh chẳng chào
Buồn lắm anh biết không
?
Chiều chiều ra vườn sau
Nắng nghiêng qua hàng giậu
Thư hồng anh để đâu ?
Không phiền trách chi nhau
Chỉ buồn cho tình đầu
Mau phai như màu áo
Nghe tim mình đau
đau . . ."
Đó là bài thơ tuổi
học trò khi yêu còn ngây thơ không
có tội, nửa muốn mạo hiểm bước
vào ngưỡng cửa tình yêu, nửa rụt
rè vì sợ cha sợ mẹ. Bạn tôi có một
mối tình đầu thầm lặng như thế
đó, tôi nghĩ tại bác Ba trai rất
nghiêm khắc cho nên anh bạn hàng xóm sợ
rồi rút êm, đi tìm một tình
yêu khác. Vậy mà bạn
tôi nhớ hoài, hễ khi nào chỉ còn
hai đứa ngồi nhắc chuyện cũ, bạn vẫn
nhắc đến anh bạn hàng xóm năm
xưa với nỗi rung động đầu đời
rất dễ thương.
Bác Ba gái vì hoàn cảnh
phải dời quê ra tỉnh, ngày ngày quanh quẩn
ở mảnh sân sau chật chội. Mặc dù sống gần chồng
con nhưng hình như bác không quên
được cây trái và những loại rau
hiền như đất ở mảnh vườn quê
của mình, nhiều khi nghe bác nhắc đến
mà mắt rưng rưng như muốn
khóc. Bao nhiêu cây trái do công lao bác
trồng trọt vẫn cố bám vào đất
để tìm đường sống, trong khi ấy,
chiến tranh đi đến đâu cũng chỉ
để lại sự tàn phá tang thương
cho những mầm xanh và con người hiền
lương luôn thiết tha với ngọn rau, lá
cỏ.
Nguyên Nhung
.2007.
(Bai Chuyen)