Hẹn một ngày
giành lại Hoàng Sa
(Trần Trung Đạo)
Hôm nay tại Việt Nam, những
ngày biểu tình nóng bỏng đã lắng
dịu nhiều, những ngày hồi hộp, đợi
chờ đã qua đi.
Cỗ xe ngựa già nua lại tiếp
tục lăn đôi bánh nặng nề đưa
83 triệu dân Việt Nam chậm chạp đi về
phía trước. Dù sao, đối với những
người Việt Nam có mặt trong các cuộc
biểu tình ngày 9 tháng 12 và những
ngày sau đó tại Hà Nội, Sài
Gòn, sẽ là một ngày khó quên
trong đời. Sau này khi về già,
các bạn trẻ hôm nay ít nhất có một
điều hãnh diện để kể lại cho
con, cho cháu. Ngày 9 tháng 12 năm 2007 cũng sẽ đi vào lịch sử
như là ngày tuổi trẻ đứng lên bảo
vệ chủ quyền đất nước ngay giữa
lòng chế độ độc tài. Mặc dù số người trẻ tham gia biểu
tình còn rất ít so với thế hệ trẻ
tại Việt Nam
nhưng đó là những bước đầu
tích cực. Dăm con én không làm
nên mùa xuân nhưng là tin vui cho chúng
ta biết mùa xuân đang đến.
Tuổi trẻ Việt Nam đã đứng
lên, không nhân danh một ý thức hệ,
một chủ nghĩa nào mà chỉ vì
lòng yêu nước thiêng liêng trong
sáng. Các em đã giảng cho ba vạn
ông bà tiến sĩ, 890 ông bà hội
viên Hội Nhà văn, 493 ông bà đại
biểu Quốc hội thế nào là sự
khác nhau giữa lòng yêu nước thuần
khiết chân thành và yêu nước theo chỉ
thị, nghị quyết. Các em cũng nhắc cho giới
lãnh đạo Đảng biết rằng một
ngàn năm sống trong bóng tối không
làm dân tộc Việt Nam mù mắt thì ba
mươi ba năm trong triết học Mác-Lê
làm sao có thể thui chột đi tình
yêu nước thiết tha trong lòng người
dân và nhất là trong lòng tuổi trẻ
Việt Nam.
Nghĩ đến lịch sử là
nghĩ đến những điều kỳ diệu,
là nghĩ đến sức sống của dân tộc
mình. Đất
nước bốn ngàn năm nhưng vẫn còn
rất trẻ bởi vì lịch sử dân tộc
ta đã, đang và sẽ được viết
từ bàn tay tuổi trẻ.
Không phải chỉ một Phù Đổng
Thiên Vương ngồi trên ngựa sắt, một
Đinh Bộ Lĩnh cờ lau tập trận, một Trần
Quốc Toản phá cường địch báo
hoàng ân mới được gọi là trẻ,
mà bao nhiêu anh hùng dân tộc đã
đóng vai trò quan trọng trong các lãnh vực
chính trị, quân sự quốc gia ngay khi còn
trong tuổi 20. Trần Hưng Đạo mới 27 tuổi
đã đem đại quân ra bảo vệ
biên giới phía bắc và góp phần
quan trọng trong việc đánh bại quân
Nguyên lần thứ nhất. Nguyễn Huệ
đã xuất hiện như lãnh đạo
chính thức của cuộc khởi nghĩa Tây
Sơn khi mới vừa 23 tuổi. Và
còn bao nhiêu nữa, bao nhiêu anh hùng, liệt
sĩ đã âm thầm dâng hiến tuổi
thanh xuân để bảo vệ nắm đất nhuộm
bằng máu và nước mắt của tổ
tiên.
Theo dõi các blog từ trong nước,
tôi được biết nhiều em đã
thét lên trong căm giận “Tần
Cương câm miệng lại !”
Vâng, sự phẫn nộ là điều
đúng nhưng nghĩ cho cùng các lời
tuyên bố đầy trịch thượng của Tần
Cương mới đây:"Trung Quốc có chủ
quyền không thể tranh cãi đối với
các quần đảo và vùng biển lân
cận ở khu vực biển Nam Trung Hoa" chỉ có
giá trị với giới lãnh đạo Đảng
mà thôi. Những lời phát biểu
ngông cuồng, nước lớn đó chẳng
những không có một giá trị gì
đối với dân tộc Việt Nam mà chỉ làm sục
sôi thêm lòng yêu nước và tinh thần
đoàn kết của nhân dân Việt Nam. Một
nhóm nhỏ người đang nắm quyền cai trị dân tộc Việt Nam bằng súng đạn
và nhà tù hôm nay không đại diện
cho 83 triệu dân Việt Nam. Hoàng Sa, Trường
Sa là đảo Việt Nam, là biển Việt
Nam, là đất Việt Nam của hàng ngàn
năm trước và sẽ của nhiều ngàn
năm sau.
Như số phận một nước nhỏ,
dân tộc chúng ta đã phải chịu đựng
rất nhiều hy sinh xương máu trong hàng
trăm cuộc chiến bảo vệ đất nước
qua các thời Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần
để chống lại các triều đại phong
kiến Trung Hoa nói riêng và các thế lực
xâm lăng từ phương Bắc nói chung
đông hơn gấp nhiều lần, nhưng tổ
tiên chúng ta luôn luôn thắng những trận
cuối cùng và quyết định. Vinh dự biết
bao khi được sinh ra trên một đất
nước, nơi đó tên gọi của mỗi
ngọn núi, mỗi con sông, mỗi gò đất
cũng gợi lại trong lòng chúng ta niềm
hãnh diện. Nhiều trăm năm qua đi nhưng
tiếng thét của quân Nam anh hùng ở Chi
Lăng, Bạch Đằng, Chương Dương, Ngọc
Hồi, Đống Đa như vẫn còn nghe. Lời
hịch của Hưng Đạo
Vương: “Ta thường tới bữa
quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột
đau như cắt, nước mắt đầm
đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt,
lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu
cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ,
nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện
xin làm ” hay của vua Quang Trung: “Đánh cho để dài
tóc, đánh cho để đen răng,
đánh cho nó chích luân bất phản,
đánh cho nó phiến giáp bất
hoàn” như vẫn
còn vang lên trong mỗi tâm hồn Việt Nam.
Sau bao nhiêu thăng trầm vận nước, Việt
Nam
vẫn còn là một dân tộc như Thượng tướng Trần Quang Khải
dặn dò: “Thái
bình nên gắng sức, non nước đấy
ngàn thu”. Lãnh đạo cộng
sản Trung Quốc không biết điều
đó. Họ không thuộc sử
Việt Nam
đã đành mà cũng không thuộc sử
của chính nước họ.
Trung Quốc có nhiều lý do để khinh
thường giới lãnh đạo cộng sản Việt
Nam, những đàn em phản trắc, thuở bần
hàn đã từng sống dưới sự che chở
của đàn anh Trung Quốc, đã được
Trung Quốc trang bị cho từng khẩu súng trường,
được nuôi dưỡng bằng túi
lương khô ngay trong thời kỳ hàng chục
triệu dân Trung Quốc phải chết đói
đầy đường, chẳng những thế, miền
Bắc Việt Nam còn được bảo vệ bằng
hàng trăm nghìn quân Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình đã
oán trách trong buổi tiếp Lê Duẩn
ngày 13 tháng 4 năm 1966: "Phải chăng vì chúng tôi
quá nhiệt tình đã làm cho các
đồng chí nghi ngờ ? Hiện nay chúng tôi đã có 130
ngàn người tại Việt Nam. Công trình
quân sự tại vùng đông bắc cũng
như các công trình đường xe lửa là các đề án
mà chúng tôi đã đề xướng,
và ngoài ra, chúng tôi đã gởi nhiều
ngàn quân sang biên giới. Chúng
tôi cũng đã thảo luận khả năng
liên hiệp quân sự bất cứ khi nào chiến
tranh bùng nổ. Các đồng chí nghi
ngờ phải chăng vì chúng tôi đã
quá nhiệt tình ?… Các công trình trên các đảo
phía đông bắc đã hoàn tất.
Hai bên cũng đã thảo luận
các công trình dọc bờ biển sẽ
được quân đội Trung Quốc thực hiện.
Vừa qua, đồng chí Văn Tiến Dũng
đã đề nghị rằng sau khi hoàn tất
các công trình vùng đông bắc,
quân đội chúng tôi sẽ giúp xây
các trạm tên lửa trong vùng trung
châu…"
Mặc dù với nhiều tỉ đô-la cộng
với máu xương đổ xuống miền Bắc
Việt Nam, Trung Quốc cũng biết khuynh hướng
thân Liên Xô trong hàng ngũ lãnh đạo
cộng sản Việt Nam mạnh hơn phe thân Trung Quốc,
và ngày cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt
cũng là ngày anh đi đường anh tôi
đường tôi, nên họ đã dựa
vào công hàm của Phạm Văn Đồng
quyết định chiếm Hoàng Sa trước để
làm điểm tựa chiến lược ngoài
biển Đông sau này.
Cuộc chiến tranh ngắn mà Đặng Tiểu
Bình gọi là “dạy cho Việt Nam bài
học” vào tháng Giêng năm 1979
đã để lại vô số thiệt hại
cho cả hai bên. Cũng giống như khi Mỹ
bàng quan đứng nhìn hải quân Trung Quốc
đổ bộ Hoàng Sa, và Liên Xô,
ngoài việc kết án lấy lệ theo thủ tục
ngoại giao hay vài giúp đỡ thông tin
lén lút, gần 700 ngàn quân Liên Xô
dọc biên giới phía bắc Tân Cương
đã không bắn một viên đạn
dù chỉ bắn lên trời. Trên bình diện
yêu nước, người Việt có mọi
lý do chính đáng để đứng
lên bảo vệ lãnh thổ của cha ông
và đã thật sự dạy cho quân xâm
lăng một bài học
đích đáng thay vì học bài học
của Đặng Tiểu Bình. Ngay cả
Tân Hoa xã cũng phải thừa nhận Quân
Giải phóng Nhân dân Trung Hoa đã chiến
đấu một cách tệ hại. Tuy nhiên
xét về mặt nguyên nhân của cuộc chiến,
không phải tự nhiên mà họ Đặng
xua quân sang đánh nước ta. Nợ máu xương, tham vọng
và những tranh chấp quyền lực trong khối cộng
sản đã được
trả bằng thân xác của tuổi trẻ Việt
Nam
và cả tuổi trẻ Trung Hoa vô tội. Một lần nữa, “lá cờ vẻ
vang của Đảng” đã nhuộm bằng
máu và cắm bằng xương của hàng
chục ngàn thanh niên và đồng bào Việt
Nam
sống dọc vùng biên giới phía Bắc.
Có người thắc mắc, tại sao từ
nhiều năm nay, lúc nào ông Lê Dũng
hay các phát ngôn viên khác của Bộ
Ngoại giao Việt Nam vẫn cứ lặp đi lặp
lại chỉ một lời phản đối giống
nhau: “Việt Nam có đầy đủ bằng
chứng lịch sử và cơ sở pháp
lý để khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa”. Mặc dù sự
xâm phạm chủ quyền Việt Nam lần này
nghiêm trọng hơn nhiều nhưng ông Lê Dũng
một lần nữa cũng chỉ thay đổi
ngày tháng trên một tờ thông cáo
báo chí đã viết từ hơn hai
mươi năm trước. Thế những khẩu hiệu
đầy tính xách động như
“Sông có thể cạn núi có thể
mòn” hay “Dù đốt cháy cả dải
Trường Sơn” v.v… đâu hết rồi.
Nhưng nghĩ cho cùng nếu không
nói như thế, ông Lê Dũng cũng chẳng
biết nói gì khác. Tâm trạng của
các cấp lãnh đạo Đảng đối
với Trung Quốc giống như trong câu hát “Tôi
xin người cứ gian dối nhưng xin người
đừng lìa xa tôi” mà một độc
giả talawas có lần ví dụ, thì làm
sao dám nói khác hơn.
Sau khi Liên Xô sụp đổ,
Đảng Cộng sản Trung Quốc là chỗ dựa
duy nhất và cũng là cuối cùng của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Quan hệ giữa hai đảng sau khi
bình thường hóa ngày 6 tháng 11 năm
1991 đến nay không khác bao nhiêu so với thời
kỳ ông Phạm Văn Đồng ký công
hàm nhượng hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa nửa thế kỷ trước. Không còn đường thoát, giới
lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam lại
tìm về nương náu dưới chiếc
bóng của đàn anh Trung Quốc. Các chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam,
từ các đổi mới kinh tế, xã hội
cho đến các quan điểm chính trị,
tư tưởng gần như rập khuôn Trung Quốc.
Các lãnh đạo Đảng cũng
ý thức rằng học lóm không bao giờ
giỏi hơn thầy. Họ cũng biết rằng
giới lãnh đạo Trung Quốc không còn
tin tưởng họ như thời Điện Biên Phủ
và cũng không bao giờ tha thứ cho tâm phản
trắc của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhưng nếu tách ra khỏi quỹ đạo Trung
Quốc và mở rộng quan hệ mật thiết về
kinh tế chính trị với các nước
dân chủ phương Tây, không sớm
thì muộn Đảng Cộng sản sẽ mất
đi vai trò lãnh đạo đất nước.
Đó là điều tối kỵ của
Đảng. Lãnh
đạo Đảng chọn hy sinh quyền lợi
dân tộc như họ đã làm nhưng nhất
định không hy sinh quyền lợi Đảng.
Đầu óc của giới
lãnh đạo cộng sản Trung Quốc là
đầu óc thiên triều. Họ xem các nước nhỏ chung quanh, trong đó có Việt Nam
là chư hầu truyền thống của họ. Họ
luôn lợi dụng sự suy yếu nội bộ hay sự
cô thế của các quốc gia láng giềng
để thực hiện âm mưu xâm lược.
Có giọt nước nào của nhân loại
nhỏ xuống cho Nội Mông ?
Tây Tạng thỉnh thoảng còn được
nhắc chỉ vì đức độ của Đức
Đạt Lai Lạt Ma, nhưng một mai khi ngài
viên tịch, số phận của Tây Tạng cũng
sẽ rơi vào quên lãng. Trong cuộc tranh chấp
chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc
ngoài miệng luôn nhấn mạnh đến việc
“đối thoại nhằm duy trì ổn định
ở biển Nam Trung Hoa và vì quyền lợi
toàn diện đôi bên” và nghiêm
khắc trách cứ Việt Nam đã tạo ra bất
ổn, nhưng lịch sử cho thấy Trung Quốc mới là cha
đẻ của chiến lược tạo ra sự bất
ổn thường trực không phải chỉ
vùng Đông Nam Á mà bất cứ nơi
nào trên thế giới, nhằm phục vụ cho
lợi ích của Trung Quốc.
Trung Quốc không muốn bị bất ổn
nhưng lại hay chủ động tạo ra sự bất
ổn cho các nước khác. Tháng 4 năm
2005, lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật
bản liệt kê biến cố tàn sát Nam
Kinh năm 1937 như một tai nạn rủi ro, nhà cầm
quyền Trung Quốc đã khuyến khích
hàng chục ngàn thanh niên sinh viên Trung Quốc
biểu tình suốt 3 tuần lễ trước
tòa đại sứ Nhật. Mục đích thật
sự của các cuộc biểu tình chống Nhật
là chỉ nhằm ngăn cản cố gắng của
Nhật để trở thành hội viên thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp
quốc.
Mặc dù được xem như là
lãnh tụ của khối được gọi
là thế giới thứ ba sau hội nghị Bandung
1955, Trung Quốc chẳng những không giúp đỡ
được gì cho các quốc gia nghèo
khó vừa bước ra khỏi thời kỳ thực
dân bóc lột nhưng đã trực tiếp
gây ra không biết bao nhiêu đau thương
tang tóc bằng việc nuôi dưỡng các
phong trào Maoist, các chế độ độc
tài khát máu như Pol Pot, Kim Nhật Thành
cai trị các dân tộc bất hạnh bằng
dao, búa và phòng hơi ngạt. Tội
ác của giới lãnh đạo Đảng Cộng
sản Trung Quốc đối với nhân dân
các nước thuộc thế giới thứ ba
nghiêm trọng không kém gì tội ác của
Hitler đối với dân Do Thái.
Giới lãnh đạo Đảng Cộng sản
Việt Nam quá lo cho nồi cơm riêng của họ
đến nỗi quên rằng Trung Quốc cũng
có nhiều thách thức kinh tế xã hội
và hạn chế chính trị nội bộ cần
phải vượt qua để có thể duy trì
tốc độ phát triển kinh tế hiện nay
và tiếp tục cạnh tranh với Mỹ, Nhật,
Đức. Kỹ thuật quân sự của Trung Quốc
đã tiến xa so với thời kỳ chiến tranh
với Việt Nam tháng Giêng 1979, nhưng điều
kiện kinh tế toàn cầu ngày nay cũng
đã làm cho các cường quốc phụ
thuộc vào nhau nhiều hơn so với 30 năm
trước. Ngoài ra, các vấn đề môi
sinh, ô nhiễm, khan hiếm năng lượng đang
là những mối đe dọa trầm trọng tại
Trung Quốc và ảnh hưởng lớn đến
cán cân thương mại quốc gia trong
tương lai gần. Cộng đồng châu Âu
và Mỹ trước đây đã từng
ngăn cấm việc nhập cảng hải sản từ
Trung Quốc vì lý do vệ sinh và an toàn thực phẩm. Chỉ riêng
năm 2007, hải sản từ Trung Quốc đã bị
cơ quan kiểm nghiệm thực phẩm Mỹ từ chối
43 lần so với chỉ 1 lần từ Thái Lan. Trung Quốc cũng đang phải đối
phó với việc phe thân dân chủ vừa thắng
lớn trong nghị viện Hồng Kông và người
dân trong phần lãnh thổ quan trọng này
có khả năng thực hiện quyền phổ
thông đầu phiếu dân chủ triệt để
vào năm 2012.
Quốc gia nào cũng cần ổn
định để phát triển nhưng Trung Quốc
cần ổn định hơn bất cứ quốc gia
nào khác trong vùng. Để làm dịu các căng thẳng
trong cuộc tranh chấp về lãnh hải với Nhật
Bản, Trung Quốc, qua chuyến viếng thăm của Bộ
trưởng Ngoại giao Nhật Bản Masahiko Komura đầu
tháng 12 năm 2007, đã đồng ý mở
rộng các hợp tác kinh tế và tiếp tục
đàm phán về khu vực khai thác khí
đốt mà cả hai nước đang tranh chấp
chủ quyền. Mặc dù viện trợ 2 tỉ
đô-la hàng năm để nuôi dưỡng
chế độ độc tài Kim Chính Nhất
nhưng chính Trung Quốc lại là một trong những
nước lo lắng nhất khi họ Kim ra lệnh thử
đầu đạn hạt nhân vào tháng 7
năm 2006 và lần nữa vào tháng 10 năm
2006, bất chấp lời can gián của Bắc Kinh. Lần đầu tiên trong lịch sử,
Trung Quốc đã nhiệt tình ký vào
quyết nghị Liên hiệp quốc nhằm trừng
phạt Bắc Hàn. Nhiều
nhà phân tích còn cho rằng qua việc thử đầu
đạn nguyên tử, Bắc Hàn không chỉ
nhắm vào Mỹ, Nhật mà còn để
chứng tỏ sự độc lập đối với
Trung Quốc. Nếu chiến tranh Nam Bắc
Hàn lần nữa xảy ra, ngoài làn
sóng tỵ nạn khổng lồ sẽ tràn ngập
biên giới phía đông bắc Trung Quốc, hạ
tầng kinh tế gầy dựng bấy lâu nay sẽ
sụp đổ và có thể cả toàn bộ
thượng tầng kiến trúc chính trị
Trung Quốc cũng sẽ tiêu vong theo.
Trở lại với vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa. Lịch sử đã
chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt
Nam nhưng trong bối cảnh chính trị kinh tế
quân sự hiện nay, việc lấy lại Hoàng
Sa và những đảo đã mất của
Trường Sa, trong thực tế, là một điều
ngoài khả năng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Điều
kiện để chiếm ưu thế trong mọi cuộc
đàm phán song phương, ngoài bằng chứng,
tài liệu, còn là khả năng làm cho
đối phương nể sợ hay kính trọng.
Cả hai vị thế đó lãnh
đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đều
không có được.
Các xung đột biên giới giữa Trung
Quốc và các nước láng giềng, từ
các nước nhỏ như Tây Tạng, Nội
Mông cho đến các nước lớn như
Liên Xô, Ấn Độ cho thấy, một khi Trung
Quốc đã nuốt vào thì khó nhả
ra và họ chỉ chịu đàm phán sau khi
biết rằng mình không thể thắng bằng
võ lực. Việt Nam và Trung Quốc, có thể
20 năm, 50 năm hay 100 năm nữa, rồi cũng phải
giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa bằng
súng đạn. Nhưng để thắng Trung Quốc,
Việt Nam phải lớn
mạnh thật nhanh và để lớn mạnh nhanh
thì chọn lựa đầu tiên của Việt Nam
là bước
ra khỏi cỗ xe cộng sản
già nua lỗi thời hiện nay. Chuyến tàu mới
có thể làm cho không ít người Việt
cảm thấy khó khăn, bỡ ngỡ ban đầu
nhưng chắc chắn đầy triển vọng
tương lai.
Không ai chối cãi rằng Việt Nam
đã có những phát triển nhất định
về kinh tế trong hai chục năm qua, nhưng với
những thành tựu giới hạn đang có,
còn rất lâu, hay có thể không bao giờ
Việt Nam có thể buộc Trung Quốc bước
vào bàn hội nghị song phương hay đa
phương bằng thái độ tương
kính và bình đẳng. Một Việt Nam
văn minh, dân chủ, đoàn kết với một
nền kinh tế cường thịnh, một quân
đội trang bị bằng kỹ thuật chiến tranh
tiên tiến là những phương tiện hữu
hiệu trong đàm phán để giành lại
Hoàng Sa, Trường Sa từ tay Trung Quốc.
Lãnh đạo Đảng có
thể lý luận rằng Trung Quốc vẫn
phát triển kinh tế với tốc độ nhanh mặc
dù cũng nằm dưới sự lãnh đạo
tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Trung Quốc, một đất nước
hơn một tỉ dân, với hàng trăm chủng
tộc, sắc dân, giọng nói, các khu tự
trị, nhiều vùng bị xâm lăng chỉ chờ
cơ hội để đòi độc lập, việc
duy trì một chế độ trung ương tập
quyền có thể còn giải thích được.
Nhưng ngay cả trong sự phát triển
nhanh hiện nay của Trung Quốc đã phát sinh
mầm mống của sự phân hóa tương
lai. Việt Nam
hoàn toàn khác với Trung Quốc trong mọi
lãnh vực có thể so sánh. Không có
một lý luận nào đủ tính thuyết
phục để giải thích quyền tồn tại
của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngược
lại, thực tế đất nước ba mươi
hai năm qua đã cho thấy Đảng Cộng sản
tại Việt Nam là chướng ngại lớn nhất
để thăng tiến đất nước.
Khẩu hiệu quen thuộc hiện nay
là đột phá, đột phá tư duy,
đột phá lý luận, đột phá
tư tưởng để đuổi kịp các
nước láng giềng. Nguồn lực chính của mọi
đột phá phải là lòng yêu nước.
Thế nhưng, trong một nước có 600 tờ
báo mà không một tờ nào được
phép đăng dù chỉ mỗi một câu
để nói lên lòng yêu nước của
người dân khi hai phần lãnh thổ quan trọng
của Việt Nam trở thành thành phố cấp
huyện của Trung Quốc, thì làm sao có thể
gọi là đột phá ? Việt Nam có hơn hai triệu người
Việt đang sống ở nước ngoài, tinh hoa
Việt Nam
có mặt trong hầu hết các lãnh vực
và trên khắp thế giới nhưng chưa bao
giờ tổng hợp được. Tất
cả chỉ vì sự tồn tại của Đảng
Cộng sản. Đối với phần lớn
nhân loại, chủ nghĩa cộng sản, với
các đặc tính độc tài, lạc hậu
là một điểm đen đã mờ xa trong
quá khứ loài người nhưng tại Việt
Nam vẫn còn được Đảng tôn vinh
như là ngọn đuốc chỉ đường,
là đỉnh cao của trí tuệ loài
người. Nhắc đến hai chữ
“Cộng sản”, ngay cả những đảng
viên có học chút ít cũng cảm thấy
ngượng ngùng. Một nhà văn,
nhà thơ, nhà biên khảo nào trong nước
được các tổ chức văn hóa,
giáo dục nước ngoài mời sang nghiên
cứu hay giảng dạy, nếu không phải là
đảng viên, điều mà họ luôn
luôn muốn nhấn mạnh một cách hãnh
diện trong phần tiểu sử, trong các buổi phỏng
vấn, rằng họ không phải là đảng
viên cộng sản. Đối với các đảng
viên, khi ra nước ngoài một trong những
điều họ làm họ khó chịu nhất
là bị hỏi ông hay bà có phải
là đảng viên cộng sản hay không,
dường như một câu hỏi như vậy
là một cách xúc phạm đến tư
cách đạo đức của con người họ.
Một thuận lợi mà Việt Nam hơn hẳn
Trung Quốc và đã được chứng nghiệm
nhiều lần trong lịch sử dân tộc,
đó là lòng yêu nước. Trung Quốc là một nước
lớn nhưng thường bị các nước nhỏ
xâm lăng và cai trị nhiều
chục năm, thậm chí hàng trăm năm
như dưới các triều đại Mãn
Thanh. Nếu Việt Nam
có được các điều kiện kinh tế
chính trị, kỹ thuật quân sự
tương xứng, hay cho dù có yếu hơn một
chút so với Trung Quốc, khi chiến tranh giữa hai
nước xảy ra chắc chắn Việt Nam sẽ thắng.
Việc giành lại Hoàng Sa
và các đảo trong quần đảo Trường
Sa là một khả năng, một triển vọng chứ
không phải chỉ là một giấc mơ. Tuy
nhiên, để đạt được mục
tiêu đó, trước hết phải tập
trung sức mạnh dân tộc để dời cỗ
xe ngựa già nua lạc hậu cộng
sản hiện nay sang bên lề lịch sử.
TRẦN TRUNG ÐẠO
(Bai Chuyen)