SU'U TÂ`M 9

Home | VA(N | VA(N [tt] | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | VA(N VUI 6 | VA(N VUI 7 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | Su'u Tâ`m TIN | Su'u Tâ`m TIN [tt] | CHUYÊ.N LA. KHO' TIN | LINKS .. Dê~Thu'o'ng ! | CU'̉'I CHÚT CHO'I

VA(N 1

Thương Hoài Ngàn Năm

 

Thương Hoài Ngàn Năm

(Trích trongTuyển tập truyện ngắn

"Một Đám Cháy Rừng"

của Tường Lam)

 

 

Sau nửa năm bị còng chân, cùm vào song sắt xuyên ngang, còng tay, đêm ngày ăn ngủ tại chỗ, trên chiếc chiếu lác bề ngang tám tấc, nằm trên nền đất, sắp lớp như cá mòi đóng hộp và hằng ngày dân chúng thuộc mật khu Dừa Đỏ, lũ lượt đi vòng quanh vách trại chỉ chỏ, nhìn ngắm chúng tôi như đàn khỉ bị nhốt trong chuồng sở thú. Tôi và tất cả các sĩ quan cấp đại úy thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phục vụ và trình diện tại Quân Khu 4, sau ngày 30 tháng 4-1975 đổi là Quân Khu 9, đều bị tập trung vào hậu cứ Trung đoàn 33 Sư đoàn 21 cũ thuộc tỉnh Cần Thơ, gần sân bay Trà Nóc để tiếp tục học tập cải tạo, một ma thuật của ngôn từ.

 

Nhóm tù gồm 123 người, cấp đại úy thuộc tỉnh Trà Vinh, hai tay bị trói thúc ké sau lưng, mỗi toán mười người lần lượt trèo lên đoàn xe GMC có vệ binh ôm AK giương lưỡi lê, ngồi đàng sau áp giải. Trước đó một tuần, tòa án nhân dân mở ra ở sân banh thị xã, đã tuyên án tử hình Đại úy Lương văn Kiệu, Trưởng phòng 3 Tiểu khu, để trả thù cho 9 Hải, tỉnh đội trưởng đã nằm lại bên lề đường trước khi ra lệnh xung phong đánh vào sân bay.

 

Ngày tôi đi tù, vợ và hai con trai nhỏ về trú ngụ với gia đình bên ngoại mấy cháu. Nhà nằm sát lộ cách quận lỵ Càng Long 500 mét, trên lộ trình đoàn xe chở tù đi qua, trong đêm mưa lất phất. Để báo cho gia đình biết, lúc xe lăn bánh tôi xin phép tên bộ đội áp giải rằng tôi bị suyễn nặng, lát nữa đây đoàn xe chạy ngang nhà, tôi quăng chai nầy xuống trong đó có ghi dặn gia đình mua thuốc gởi cho tôi trong lần thăm tới. Tên bộ đội đồng ý, trong lúc đoàn xe nối đuôi nhau dưới cơn mưa lạnh buốt nửa khuya.

 

Ngày xưa Mỵ Châu bứt áo lông ngỗng của mình rải dọc đường vua cha An Dương Vương và mình bôn tẩu để Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng kiếm tìm. Ngày nay, khi trời vừa sáng, vợ tôi lượm được chai thuốc suyễn, đọc thơ, chạy thông báo cho mấy bà đồng cảnh, cùng đón xe đi tìm đến trại tù. Cổng trại khép kín, đứng khóc vài giờ, chị em cùng lủi thủi ra về, thỉnh thoảng quay mặt lại nhìn bên trong mấy hàng rào kẽm gai, chồng mình và bè bạn trang lứa sinh hoạt như một trại súc vật, ăn ngủ, lao động theo tiếng kẻng.

 

Mấy tháng trước đây, bạn tôi đại úy cảnh sát T.B.X. ra toà án nhân dân, đặc biệt nhóm ở sân banh, chánh quyền mới bắt buộc dân thị xã mỗi gia đình phải cử một người đi tham dự phiên tòa xét xử những sĩ quan ngụy (!) ác ôn, mang nhiều nợ máu với nhân dân và cách mạng. Trước một ngày phiên tòa khai mạc, chị T.B.X. cùng đứa con trai duy nhứt, hai mẹ con đến phòng giam, bịt khăn tang quỳ lạy, tế sống chồng mình vì ngày mai ra tòa thế nào cũng lãnh án tử hình. Một phép lạ, anh chỉ lãnh mười lăm năm khổ sai, mãn hạn tù, anh trở về xum họp gia đình và mang theo chứng bịnh mãn tính chửi đời không mệt mỏi. Đại úy K. Trưởng Phòng 3 và Thiếu úy P. Phân chi khu Trưởng lãnh án tử hình.

 

Sau năm 1975 nỗi khổ ải, đọa đày, chết chóc, đòn thù nghiệt ngã của người xâm lăng chiến thắng phương Bắc, giáng xuống toàn thể dân miền Nam không bút mực nào tả xiết, đôi khi cứ tưởng tượng như trong tiểu thuyết hoặc các tuồng cải lương. Nợ máu, nợ mủ nào khi chiến đấu bảo vệ miền Nam đối với kẻ thù xâm lược phương Bắc, câm nín, nuốt hận vào lòng !

 

Gần một năm ở trại tù nầy, chúng tôi học tập mười bài căn bản, do Ba Song, chính ủy sư đoàn, lên lớp. Trong đó tôi còn nhớ tên một bài học “Đế Quốc Mỹ -con đỉa hai vòi- một vòi hút máu dân bản xứ, một vòi hút máu dân thuộc địa”. Ngôn ngữ đấu tố tuyên truyền hoàn chỉnh tuyệt vời với những tội ác tưởng tượng.

 

Ngày xưa, nàng Kiều đã học gảy khúc “Đoạn Trường” báo hiệu nỗi bi-lụy vào thân với mười lăm năm lưu lạc, thanh y hai lượt thanh lâu ba lần. Đọc trong rừng danh tác văn chương quốc tế, lãng đãng triền miên trong tôi, nhứt là trong những năm tháng tù đày, cuốn “Papillon”, người tù khổ sai, cuộc đời thật của Henry Charrière, những đày ải, nghiệt ngã khổ đau trên bước đường vượt ngục, lênh đênh trên biển nắng mưa, gió bão một mình, đói khát trên chiếc bè bằng nhiều bao bột mì khâu lại, đựng những trái dừa khô ... đã tố cáo cho thế giới biết rằng những trại tù khổ sai trên quần đảo Saint Joseph, với những phòng giam cấm cố cực kỳ dã man, ít người tù nào sống sót sau khi thọ án quá 6 tháng ở thuộc địa xứ Guyane của Pháp. Quần đảo ngục tù man rợ nầy đã làm cho nước Pháp và nhân dân của họ phải cúi đầu xấu hổ.

 

Nhập trại được ba tháng, đại úy Tến, quê Long Xuyên vượt trại bị bắt lại. Sau mấy ngày nhục hình, được mớm cung, anh Tến đã ký nhận mục đích vượt trại về hợp tác với lực lượng Hòa Hảo chống lại chính quyền Cộng Sản. Phiên tòa quân sự quân Khu 9 mở ra trong trại đã tuyên án tử hình, anh Tến bị trói thúc ké, dẫn ra khu vườn cách trại hai trăm thước, mấy loạt AK dòn tan đã kết liễu đời anh Tến và đồng thời những loạt đạn đó cũng bắn thẳng vào tâm can trên hai ngàn trại viên chúng tôi bị giam cầm chẳng biết ngày nào ra với rào kẽm gai và họng súng canh giữ đêm ngày.

 

Đoàn tù các tỉnh miền Tây, tập trung về đây, biên chế, xáo trộn. Tôi nằm cạnh Hoài, tiểu đoàn phó thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh. Hoài nhỏ hơn tôi ba tuổi, ngoại hình dễ nhìn, tánh tình vui vẻ, từ tốn và lịch sự. Hoài độc thân, người mẹ ngoài thất tuần, tóc trắng phau, không vắng mặt một lần thăm nuôi nào.

 

Trong nỗi khổ đau khốn cùng, con người dễ gần gũi nhau hơn. Tôi và Hoài trở nên đôi bạn thân không mấy chốc, ăn ngủ, lao động, đêm ngày đều có nhau. Duy có một điều Hoài rất kín đáo. Ít nói về mình. Thân nhau là thế, gần nửa năm bên nhau tôi chỉ biết láng máng Hoài có người yêu Công Tằng Tôn Nữ Diễm Phựơng, em gái tiểu đoàn trưởng của Hoài, Tôn Thất Long, gia đình gốc Huế vào Sàigòn sống đã lâu.

 

Tết đến, buồn thân phận tù đày xa nhà. Lần lên lớp cuối năm trong hội trường lớn, cựu huấn luyện viên đại học chiến tranh chính trị Đà Lạt đại diện tù nhân chúc tết cán bộ chỉ huy trại với câu kết: “Hy vọng những ngày tới: Nhựt tân, nhựt nhựt tân, hựu nhựt tân” chớ đừng như những ngày đã qua, “Tà huy, tà tà huy, hựu tà huy”. Hơn ba năm sau anh bị siết cổ chết trong connex nửa đêm về sáng tại trại Vườn Đào Cai Lậy.

 

Anh bị bức tử vì có bạn tù ăng-ten báo lại với Hai Sanh, sĩ quan an ninh, trại trưởng Trung tá Trần Thâu: ”Nếu lấy được chánh quyền trở lại, phải giết hết một triệu đảng viên Cộng Sản”. Câu nói để đời khí phách của anh hùng Đại úy Quách Dược Thanh.

 

Sau đó là ngày trọng đại, đám tù ôm nhau rơi nước mắt chia tay, vì số lớn tù nhân lùa xuống tàu đày ra Bắc. Cả ngàn người ngồi sắp lớp khít nhau như cá mòi hộp, ăn sống mì gói và tiêu tiểu tại chỗ vào những thùng ny-lon. Tắm thì một vòi nước cứu hỏa từ trên nắp sàn tàu xịt xuống. Đàn tù lóp ngóp như một chuột chù, loi ngoi trong cống rãnh.

 

Biến một người thường trở thành người có tư cách đàng hoàng, thật khó khăn và cần khoảng thời gian lâu dài, nhiều năm, nhưng biến con người xuống hàng súc vật thì thật dễ dàng chỉ cần đôi ba ngày. Người cộng sản có biệt tài nầy, chỉ cần sinh hoạt đôi ba ngày trên chuyến tàu, đày tù biệt xứ không biết ngày về. Cách đối xử cùng hung cực ác mà Thủ tướng Phạm văn Đồng, người làm thủ tướng lâu đời nhứt trên thế giới, với hàm răng vẩu như hàng cừ sạt lở bên bờ đê sông Hồng, đã vỗ ngực tự xưng "lương tri của loài người".

 

Tôi và Hoài may mắn còn ở lại, sau đó bị chuyển xuống Cà Mau vùng Hòn Đá Bạc, sông Đốc Vàm phát sậy, đào đất, làm trại, cất nhà, phá rừng, làm ruộng, đốn tràm cung cấp cho các nơi xây dựng, làm chất đốt và cán bộ kiểm lâm tha hồ buôn bán, tiền bỏ vào túi riêng.

 

Dân chúng cho biết từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa có dấu chân người đặt tới bờ lung Ngọc Hoàng, không biết Ngọc Hoàng có xót thương hay không mà đoàn tù mỗi khi đi phát sậy làm ruộng trở về, mâm cơm trải tấm ny-lon trên nền đất, ê hề cá lóc, cá trê, cá rô đôi khi có cả rùa, rắn, canh chua cá chiên, kho, rùa rang muối và cháo rắn hổ nấu đậu xanh. Trời đẻ trời nuôi và đoàn tù chúng tôi khỏe mạnh. Đặc biệt, không ai bị rắn cắn dù rắn chui dưới gầm giường và làm ổ trong túi quần áo treo trên đầu nằm.

 

Chúng tôi câu được một con cá rô mề đóng phèn vàng nghín, cân nặng một ký rưỡi, không ăn, rọng đến kỳ thăm nuôi mang ra cho thân nhân làm tin và anh bạn của tôi Nghê Thành Thân, đại úy thiết giáp, cắm câu một đêm trúng gần một phần ba thùng phuy cá trê vàng.

 

Một đoàn khoảng một trăm tù di chuyển bằng mấy chiếc “pon-tong” làm đà cầu nổi công binh, xuống xã Khánh Hưng ở dọc bờ kinh để hằng ngày vào rừng ngập nước đốn tràm gom thành đống to như trấu ở các nhà máy xay lúa. Chúng tôi chia thành tổ mười người xin vào tạm trú nhà dân do cán bộ chỉ định.

- Thưa bác, do cán bộ chỉ định, chúng cháu xin phép tạm trú nhà bác để đi lao động.

Nhổ một bãi cổ trầu vào cái gáo dừa đã lên nước mun ô, quay mặt đi hướng khác. Bác chủ nhà nói giọng lạnh lùng:

- Nhà tôi nhỏ hẹp lắm ! Không có chỗ cho mấy chú ở đâu ! Phải chi ngày xưa lính Sư đoàn 21 trong chiến dịch Làm Cỏ U-Minh đừng đốt nhà tôi sáu lần thì gia đình tôi đâu có ở trong căn nhà trống trước trống sau như chuồng vịt nầy. Tùy mấy chú, tôi không đuổi xua ai hết !

 

Đêm đó chúng tôi trùm ny-lon, ngủ ngồi ngoài sân dưới cơn mưa rỉ rả trọn đêm. Sáng ra ai cũng mặt mũi phờ vì thiếu ngủ và chuyền miệng cho nhau nghe đừng bao giờ cho cư dân đây biết lý lịch trước đây đã phục vụ Sư đoàn 21.

 

Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi hồi làm tư lịnh Sư đoàn 21 với chiến dịch Làm Cỏ U-Minh, lập nhiều căn cứ hỏa lực để từ đây bung quân ra tiêu diệt lực lượng cũng như hậu cần của Việt Cộng đồng thời gom dân ở trong vùng do quốc gia kiểm soát, cắt đứt mọi liên lạc, tiếp tế, tách rời cá (Việt Cộng) ra khỏi nước (dân chúng). Trên đường bình định đã đốt nhà dân nhiều lần gây căm phẫn trong lòng dân cao độ.

 

Trên “sạt” thuyết trình chiến dịch Làm Cỏ U-Minh thành công, trình diễn bằng cách mời Tổng Thống Thiệu dự tiệc đêm Giáng Sinh ở căn cứ Hòa Bình. Đêm đó binh sĩ Sư đoàn 21 đã thấm thía bài hát “đêm đông lạnh lẽo chúa sinh ra đời” run rẩy bên gốc đước, bờ tràm ... Lực lượng bung ra bán kính trên 20 km ngừa pháo kích, để Tổng Thống, Tư Lịnh cùng số lớn quan chức Sàigòn lả lướt trên sàn nhảy, rượu mềm môi và gái đẹp, biệt đoàn văn nghệ trung ương đã được hàng đoàn trực thăng UH-1B không vận đầy đủ và hoàn tất từ ngày hôm trước. Một sao được gắn thêm lên bâu áo trận, chức tư lịnh quân đoàn đi kèm với mồ hôi, bệnh tật, tử sĩ ... của sư đoàn và hàng ngàn nhà dân U-Minh bị đốt đi, dựng lại nhiều lần. Tiếng pháo đêm đêm từ mấy căn cứ hỏa lực bắn đi cũng là nhịp đập đau lòng của con tim người dân trong vùng lửa đạn chiến tranh tàn khốc mà mạng người tựa như cỏ rác ngoài đồng.

 

Toán lao động của chúng tôi đã hội ý trước, sau khi số tràm đốn, nạp đủ chỉ tiêu, anh em chúng tôi ai cũng bè về một bó tràm khô lớn. Tắm rửa, cơm nước xong, chúng tôi cưa gần hai thước khối củi tràm, chất thành cự bên đầu song nhà, để gia đình bác Ba và chúng tôi cùng dùng. Hôm sau, toán chúng tôi được phép vào nằm ở hàng ba nhà trú mưa.

 

Còn ở chung với bác Ba chủ nhà, cô con gái thứ sáu tuổi ngoài hai mươi, đảng viên, thơ ký văn phòng Ủy Ban Nhân Dân Xã Khánh Hưng, mỗi ngày sáng đi chiều về bằng xuồng ba lá. Cậu con trai mười bốn tuổi đẹt ngắt, không có trường đi học, mỗi sáng ra đồng với mẹ. Hôm nào trời mưa dầm, đi ruộng về, cậu vắt áo cho ráo, mặc quần đùi còn rỏ nước, leo lên giàn bếp ngồi hơ cho ấm và hong cho đồ khô vì bộ thứ hai có nhiều chỗ vá còn ướt, phải vắt ngang qua cây sào trúc.

 

Tôi mở ba-lô lấy ra một quần tây dài, vải “sạt-kin”, li còn bén ngót, một áo sơ mi dài tay màu xám của nhạc gia tôi gởi cho trong chuyến thăm nuôi vừa rồi, mặc đi lao động, tôi biếu cho cậu ta. Mặc bộ đồ mới, cậu chạy vào buồng, mừng rỡ khoe với mẹ. Bác Ba bước ra, tay lau nước mắt, khóc ngỏ lời cám ơn tôi. Đêm đó cả toán mừng vui phơi phới, chúng tôi được phép vào nhà ngủ không còn sợ những cơn mưa nửa đêm mà mấy ngày qua chúng tôi ngồi bó gối, co ro, ướt mẹp như chuột lột.

 

Sáu chiếc võng ny-lon được giăng chằng qua mấy hàng cột, một bạn nằm dưới khuôn bếp. Be và Châu Rép nằm trên tấm đệm phủ lên bồ lúa, tôi với chiếc chiếu hẹp khổ, trải lên mặt đất có lót tấm ny-lon màu bánh lá rau mơ, khoảng cách giữa bộ ván và tấm vách ngăn, bằng gỗ còng non. Được chỗ ngủ yên bề, anh em nói cười mừng vui ra mặt. Đêm ấy tôi ngủ sớm, nửa đêm nằm mơ thấy mình được thả, giang tay ôm cả vợ và hai con trai vào lòng. Trong mơ màng tôi nghe trời đang mưa, giựt mình thức dậy ướt sũng một bên đầu ... mông con heo nái chủ nhà đang sề vào mùng tôi, nước tuôn xối xả một trận mưa to, khai ngấy, gần năm phút mới tạnh. Tôi không giận, áo quần mùng mền ướt nhẹp khai mùi nước đái heo, chỉ tiếc một điều trong mơ chưa hôn được vợ con.

 

Châu Rép, người quận Tịnh Biên, gốc Khờ Me, hư một mắt, vết thương lớn ở quai hàm dưới, hủng vào vì mất xương, đại đội trưởng biệt kích, trận mạc gan lì, tánh tình hiền hòa, chất phác. Buổi chiều cơm nước xong, cả toán đứng ngồi trước hiên nhà tán gẫu, bỗng hai con chó chạy bám, đuổi nhau và đứng lại làm tình vội vã trứơc sân. Anh chó đực hơi nhỏ con, hai chân trước phủ lên mông người bạn tình, đít lắc hùng hổ liên hồi, lia lịa nhưng không trúng mục tiêu, giá nếu chị chó biết rùn thấp xuống một tí giúp đỡ ... sự đời sẽ đẹp như mơ.

Châu Rép giậm cẳng, tức mình phán một câu:

- Rặp tao là rrồi rrồi ! (gặp tao là rồi rồi)

Anh em cười bò lăn, Cô Sáu đỏ mặt, nguýt một cái, ngoe ngoảy bước nhanh vào trong. Câu chuyện trên, chiều hôm đó được phổ biến đi khắp đội và cũng từ hôm đó Châu Rép đi đâu, gặp bất cứ anh em nào trong đội, đều được chào bằng câu: "Rặp tao là rrồi rrồi".

 

Châu Rép và Be là cặp bài trùng, ăn ngủ đi đứng tâm tình luôn ở bên nhau. Be là sĩ quan tùy viên của Đại tá Hoàng Đức Ninh, anh ruột Hoàng Đức Nhã bà con cô cậu với Tổng Thống Thiệu, Tư lệnh Biệt khu 44. Giữ chức vụ nầy để sẵn sàng được vinh thăng cấp tướng.

 

Be cho biết, trước đây thường dùng trực thăng sang Nam Vang ăn sáng với tư lịnh, lúc về đầy “sam-so-nite” vàng lá ! Buôn lậu kiểu nầy đố cha thằng nào dám đến gần, ký giả nào dám hó hé nói chi đến an-ninh quân đội, quân cảnh nữa, tất cả chỉ như quân khuyển thôi, có dám ngửi được gì đâu !

 

Qua kẽ hở của “bân-cơ”-hầm làm việc và chốn ăn ngủ của tư lịnh. Đắp bằng bao cát chống pháo kích, Be rình xem đã đời cảnh tư lịnh “vũ đuôi múa lân” với cô đào nhan sắc, có nghệ danh “cải lương chi bảo”, mông quay về phía sau.

 

Những trận đánh ghen đập bể kiếng xe, khói súng mù trời của bà vợ lai Pháp, may mắn lần nào vị tư lịnh biệt khu 44 cũng đều an toàn thoát nạn vì nắm vững binh pháp Tôn Tử: "dĩ đào vi thượng".

 

Cô Sáu, đảng viên, thơ ký ủy ban xã, khoái Be ra mặt. Theo lời Châu Rép tường thuật với điều kiện chúng tôi phải thề không ai được nói lại cho Be biết, mỗi đêm Châu Rép vén mùng ... mặc kệ muỗi cắn, để nghe ngóng và quan sát vì Be vừa rón rén mò vào buồng cô Sáu, cố gắng nhiều nhưng chẳng thấy được gì, một phần vì đêm tối, một phần vì mắt bị thương tật. Riêng tiếng chuyển mình của giường ngủ Cô Sáu bện bằng những cây tràm suông, kết lại với nhau, tiếng râm ran kẽo kẹt nhiều lần trong đêm và có lúc vẫn “chuyển mình lên hăm hở”, cho đến khi gà vỗ cánh, cất đầu, rộn ràng gáy sáng.

 

Ngày đoàn tù chúng tôi rời khu rừng tràm, rời xóm dân nghèo đáng thương tội nghiệp, cả hai chế độ làm cho đời sống khốn đốn cơ hàn, cái xã Khánh Hưng quanh năm ngập nước đỏ bầm, màu lá tràm mục lưu lại nhiều đời, chia tay trong cảm động và nước mắt. Nhà có ba con vịt xiêm mái, mập ú bước theo điệu Limbo rock không muốn nổi, bác Ba chủ nhà ra lịnh mần thịt hết, đãi đoàn tù tình nghĩa, tạm trú trong nhà mấy tháng qua, với đôi mắt đỏ hoe vì khóc suốt ngày hôm đó.

 

Riêng tôi cảm động và còn nhớ mãi đến bây giờ vì tình cảm yêu thương, mến phục người tù cùng mấy miếng huyết vịt hòa với nếp, to tròn, day, bùi bùi, béo ngậy trong nồi cà-ry, khoai lang tím, nước cốt dừa ... ngon không tả thế nào được.

 

Xin gởi đến bác Ba lời tri ơn tận đáy lòng, kéo tay ra phía sau hè, bác nói với tôi:

- Nếu lúc nào được thả, chú Ba không chê xóm nghèo nàn nầy, chú dẫn thím và mấy đứa nhỏ về đây ở, tôi kêu sắp nhỏ cất cho chú thím một cái nhà và cho không chú năm công ruộng để sống.

 

Bị lính quốc gia đốt nhà nhiều lần, bây giờ cho đất cất nhà cho người tù-lính quốc gia - để tối lửa tắt đèn có nhau trong tình chòm xóm. Bác Ba ơi ! Người đàn bà nghèo của xã Khánh Hưng, khu rừng tràm quanh năm ngập nước màu đỏ bầm, tôi biết tìm đâu hơn tấm lòng bao la nhân ái sánh cho bằng.

 

Chúng tôi nối đuôi nhau đi bộ thảnh thơi dọc theo bờ kinh, ba-lô, nồi niêu, soong chảo, len cuốc, dao rừng ... tôi để trên xuồng do cô Sáu bơi lái, Be ngồi trước mũi xuồng quay mặt nhìn cô Sáu vừa bơi vừa cầm chéo khăn rằn lên lau nước mắt.

 

Bọn chúng tôi di trong yên lặng, cảm động thật tình trước cảnh chia tay của Be và cô Sáu, “tình không biên giới”. Chúng tôi cùng cười ồ lên, khi phía sau, tiếng Châu Rép, giọng người Miên lơ lớ :

- Dớ ! Cô Sáu khóc vì khuya nay không có đồ chơi quay !

 

Sau nầy Be dẫn Châu Rép trốn trại qua Miên đi đường núi Trầu Hà Tiên. Châu Rép bị bắt lại, cùm chân ngày đêm. Biệt giam trong nhà kỷ luật rào bằng nhiều lớp kẽm gai, ăn độn khoai mì chấm nước muối. Cách ly với bạn tù. Riêng Be, nghe mấy vệ binh nói lại, ngoan cố bỏ chạy nên bị bắn chìm xuống dòng sông.

 

Bè bạn, nhất là bạn tù cùng trại, đã định cư trên các quốc gia khắp thế giới, cả bạn bè còn lại trong nước, ai biết được tin tức gì về Đại úy Be, sĩ quan tùy viên của Tư lịnh Biệt Khu 44, người tình của cô Sáu, đảng viên, thơ ký Ủy Ban Nhân Dân Xã Khánh Hưng-Cà Mau sống chết thế nào xin liên lạc với tác giả, số điện thoại, email có ghi sau bìa sách, muôn vàn cảm tạ !

 

Riêng Châu Rép, tác giả chúc mừng anh cùng gia đình đã định cư tại Hoa Kỳ và có một thắc mắc: không biết sức khỏe anh thế nào, khi hồi tưởng lại ngày tháng tù đày năm xưa anh từng hiên ngang tuyên bố "gặp tao là rồi rồi". Đồng thời tôi còn giữ chữ tín với anh, lời thề năm xưa bên bồ lúa, chúng mình từng ngồi rình, tay se sẽ đập muỗi liên tục, lúc Be vừa rón rén bò vào buồng cô Sáu. Tôi chưa hề nói lại với Be vì cho tới bây giờ gần ba chục năm qua, tôi có gặp Be lần nào đâu ! Châu Rép ơi !

 

Sáng hôm đó, đoàn tù tập hợp đi đốn tràm, dao rừng giắt bên hông, hai lon gô thức ăn và nước trà đựng trong túi, mang hông bên kia, lội xuống kinh, nước ngập bụng với “nỗi buồn ướt dái” mang vào rừng lạnh run lẩy bẩy.

 

Trước giờ xuất phát, có lịnh mỗi toán để lại nhà hai người, nhận công việc khác. Tôi và Hoài ở lại, nhập với mấy toán kia, chúng tôi gồm mười người mang theo leng đào đất và một cần xé vôi bột, một cán bộ địa phương và hai du kích mang súng đi kèm. Chúng tôi đi trên bờ đê, qua cánh đồng, xuyên qua mép rừng đước mỏng, ngập nước đến đầu gối. Nửa giờ sau, tập họp lại trên bãi cát bùn xám, cạnh mé biển nghe tên cán bộ lên lớp:

- Sáng sớm hôm nay có hai chục xác chết thuộc thành phần phản động vượt biên để ăn bơ thừa sữa cặn của bọn tư bản, đế quốc. Các anh được phân công đào huyệt chôn mấy xác nầy, mỗi người đào hai hố, chôn hai xác, nhớ rải vôi bột lên xác chết trước khi lấp đất, khỏa bằng mặt, tuyệt đối không đắp núm.

 

Chúng tôi nhìn thấy mấy chục xác chết nằm rải rác, áo quần tả tơi, da đã căng bóng, mùi tanh hôi phảng phất, đàn ruồi nhặng vo ve bay lên đáp xuống.

 

Tôi và Hoài nhận bốn xác cuối cùng đàng xa, gần con lạch nhỏ, mở từ nguồn nước trong rừng đước mỏng chảy ra. Hoài nhận hai xác đàn ông quay ngược đầu, phần tôi một xác đàn ông và một xác phụ nữ. Xác đàn ông được sóng biển đưa xa lên bãi cát, xác phụ nữ mặc áo trắng đã bật nút lòi một bên vai còn mang áo nịt ngực, quần đen với tư thế nằm ngửa chân còn liếm làn nước biển. Kéo xác thiếu nữ lên cạnh bìa rừng, cài lại nút áo cho người chết, tôi bỗng thấy bên vai phải có hình xâm con chim phượng màu tím thẫm, đuôi xòe, sắc nét rõ ràng dù da đã ngã màu trắng xanh, trơn bóng. Tôi đỡ xác chết, cài khuy áo kín đáo, vuốt lại mái tóc chấm ngang lưng gọn gàng.

 

Suốt thời gian nhìn thấy mấy chục xác chết của đồng bào mình, chạy trốn, để tìm tự do, thoát kiếp đọa đày cộng sản. Trên đường đi tìm sinh lộ chẳng may gặp tai nạn chết, xác trôi dạt vào đây, biết bao con tàu lớn nhỏ chìm đắm ngoài biển khơi với nhung nhúc xác người, làm mồi cho cá. Nào ai kiểm kê được ? Hàng hàng lớp lớp người chịu cảnh xiềng gông, ngục tù trong những trại khổ sai rừng thiêng nước độc, chết lặng lẽ âm thầm như đá núi cây rừng.

 

Tôi mở nắp lon gô hớp một ngụm nước lá tràm sấy khô thay trà, còn âm ấm. Tôi bắt đầu đào hố, nửa giờ sau, tôi đã chôn xong xác người đàn ông. Ngồi trên rễ đước, lấy nón lau mồ hôi trán, Hoài vác xẻng tới, ngồi xuống cạnh bên tôi và hỏi:

- Xong chưa đại ca ?

Tôi lấy trong túi áo miếng đường thẻ nhỏ, bẻ nửa chia cho Hoài và nói:

– Mới chôn được một xác thôi. Hoài xong chưa ?

Vừa nhai đường thẻ vừa trả lời:

– Xong rồi. Lại giúp đại ca đây.

Tôi đưa gô nước tràm cho Hoài:

– Tội nghiệp xác đàng kia là thiếu nữ còn trẻ, tóc ngang lưng và trên vai có xâm hình con chim phượng màu tím ....

 

(Còn Tiếp)

 

***********

 

Kính mời quí vị tìm đọc :

 

Tuyển tập truyện ngắn

Một Đám Cháy Rừng

của Tường Lam

để biết:

 

- Muốn dập tắt một đám cháy rừng người ta chỉ cần một vài cơn mưa.

- Muốn dập tắt một cuộc tình người ta phải cần bao nhiêu nước mắt ?

 

-Tư Lệnh biệt khu 44 dùng trực thăng đi ăn sáng ở đâu ? đựng gì trong samsonite khi trở về ?

 

- Thủ tướng Trần Thiện Khiêm làm gì ?!? sống với ai ? sau khi vợ chết !?

 

- Trần Văn Tới có "đồ chơi" độc nhứt vô nhị mà không một người đàn ông nào trên hành tinh này có được !!!

 

- Người tù cải tạo chôn người tình lót bằng lớp lá khô bên bờ sóng vỗ !!

 

- Trong chừng mực nào đó tác giả đã đưa cuộc chiến VN vào truyện ngắn

“ Về Xã An Trường”

 

- Và nhiều tình tiết ly kỳ độc đáo khác ... sự thật 100% ...

 

Trân Trọng

Tác giả

Tường Lam

E-mail : anho43@hotmail.com

 

 

(MIÊN DU ÐÀLẠT chuyển)

 

website counter