Thương
Hoài Ngàn Năm
(Trích trongTuyển tập truyện
ngắn
"Một Đám Cháy
Rừng"
của Tường Lam)
Sau nửa năm bị còng chân, cùm
vào song sắt xuyên ngang, còng tay, đêm
ngày ăn ngủ tại chỗ, trên chiếc chiếu
lác bề ngang tám tấc, nằm trên nền
đất, sắp lớp như cá mòi
đóng hộp và hằng ngày dân
chúng thuộc mật khu Dừa Đỏ, lũ lượt
đi vòng quanh vách trại chỉ chỏ,
nhìn ngắm chúng tôi như đàn khỉ
bị nhốt trong chuồng sở thú. Tôi và
tất cả các sĩ quan cấp đại úy
thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phục
vụ và trình diện tại Quân Khu 4, sau
ngày 30 tháng 4-1975 đổi là Quân Khu 9,
đều bị tập trung vào hậu cứ Trung
đoàn 33 Sư đoàn 21 cũ thuộc tỉnh
Cần Thơ, gần sân bay Trà Nóc để
tiếp tục học tập cải tạo, một ma thuật
của ngôn từ.
Nhóm tù gồm 123 người, cấp đại
úy thuộc tỉnh Trà Vinh, hai tay bị trói
thúc ké sau lưng, mỗi toán mười
người lần lượt trèo lên
đoàn xe GMC có vệ binh ôm AK giương
lưỡi lê, ngồi đàng sau áp giải.
Trước đó một tuần, tòa án
nhân dân mở ra ở sân banh thị xã,
đã tuyên án tử hình Đại
úy Lương văn Kiệu, Trưởng phòng 3
Tiểu khu, để trả thù cho 9 Hải, tỉnh
đội trưởng đã nằm lại bên lề
đường trước khi ra lệnh xung phong
đánh vào sân bay.
Ngày tôi đi tù, vợ
và hai con trai nhỏ về trú ngụ với gia
đình bên ngoại mấy cháu. Nhà nằm sát lộ cách
quận lỵ Càng Long 500 mét, trên lộ
trình đoàn xe chở tù
đi qua, trong đêm mưa lất phất. Để
báo cho gia đình biết, lúc xe
lăn bánh tôi xin phép tên bộ đội
áp giải rằng tôi bị suyễn nặng,
lát nữa đây đoàn xe chạy ngang
nhà, tôi quăng chai nầy xuống trong
đó có ghi dặn gia đình mua thuốc gởi
cho tôi trong lần thăm tới. Tên bộ đội
đồng ý, trong lúc đoàn xe
nối đuôi nhau dưới cơn mưa lạnh buốt
nửa khuya.
Ngày xưa Mỵ Châu bứt áo lông
ngỗng của mình rải dọc đường vua
cha An Dương Vương và mình bôn tẩu
để Trọng Thủy theo dấu
lông ngỗng kiếm tìm. Ngày nay, khi trời vừa
sáng, vợ tôi lượm được chai thuốc
suyễn, đọc thơ, chạy thông báo cho mấy
bà đồng cảnh, cùng đón xe đi tìm đến trại tù. Cổng
trại khép kín, đứng khóc vài giờ,
chị em cùng lủi thủi ra về, thỉnh thoảng
quay mặt lại nhìn bên trong mấy hàng
rào kẽm gai, chồng mình và bè bạn
trang lứa sinh hoạt như một trại súc vật,
ăn ngủ, lao động theo tiếng kẻng.
Mấy tháng trước đây, bạn
tôi đại úy cảnh sát T.B.X. ra toà
án nhân dân, đặc biệt nhóm ở
sân banh, chánh quyền mới bắt buộc
dân thị xã mỗi gia đình phải cử
một người đi tham dự phiên tòa
xét xử những sĩ quan ngụy (!) ác ôn,
mang nhiều nợ máu với nhân dân và
cách mạng. Trước một ngày phiên
tòa khai mạc, chị T.B.X. cùng đứa con trai
duy nhứt, hai mẹ con đến phòng giam, bịt
khăn tang quỳ lạy, tế sống chồng mình
vì ngày mai ra tòa thế nào cũng
lãnh án tử hình. Một phép lạ, anh
chỉ lãnh mười lăm năm khổ sai,
mãn hạn tù, anh trở về xum họp gia
đình và mang theo chứng bịnh
mãn tính chửi đời không mệt mỏi.
Đại úy K. Trưởng Phòng 3 và Thiếu
úy P. Phân chi khu Trưởng lãnh án tử hình.
Sau năm 1975 nỗi khổ ải, đọa
đày, chết chóc, đòn thù nghiệt
ngã của người xâm lăng chiến thắng
phương Bắc, giáng xuống toàn thể
dân miền Nam không bút mực nào tả
xiết, đôi khi cứ tưởng tượng
như trong tiểu thuyết hoặc các tuồng cải
lương. Nợ máu, nợ mủ nào khi chiến
đấu bảo vệ miền Nam đối với kẻ
thù xâm lược phương Bắc, câm
nín, nuốt hận vào lòng !
Gần một năm ở trại tù nầy,
chúng tôi học tập mười bài căn
bản, do Ba Song, chính ủy sư đoàn,
lên lớp. Trong đó tôi
còn nhớ tên một bài học “Đế
Quốc Mỹ -con đỉa hai vòi- một vòi
hút máu dân bản xứ, một vòi
hút máu dân thuộc địa”. Ngôn ngữ đấu tố tuyên truyền
hoàn chỉnh tuyệt vời với những tội
ác tưởng tượng.
Ngày xưa, nàng Kiều đã học gảy
khúc “Đoạn Trường” báo hiệu
nỗi bi-lụy vào thân với mười lăm
năm lưu lạc, thanh y hai lượt thanh lâu ba lần.
Đọc trong rừng danh tác văn chương quốc
tế, lãng đãng triền miên trong tôi,
nhứt là trong những năm tháng tù
đày, cuốn “Papillon”, người tù
khổ sai, cuộc đời thật của Henry
Charrière, những đày ải, nghiệt ngã
khổ đau trên bước đường vượt
ngục, lênh đênh trên biển nắng
mưa, gió bão một mình, đói
khát trên chiếc bè bằng nhiều bao bột
mì khâu lại, đựng những trái dừa
khô ... đã tố cáo cho thế giới biết
rằng những trại tù khổ sai trên quần
đảo Saint Joseph, với những phòng giam cấm
cố cực kỳ dã man, ít người tù
nào sống sót sau khi thọ án quá 6
tháng ở thuộc địa xứ Guyane của
Pháp. Quần đảo ngục tù
man rợ nầy đã làm cho nước
Pháp và nhân dân của họ phải
cúi đầu xấu hổ.
Nhập trại được ba
tháng, đại úy Tến, quê Long Xuyên
vượt trại bị bắt lại. Sau mấy ngày nhục hình,
được mớm cung, anh Tến đã ký nhận
mục đích vượt trại về hợp
tác với lực lượng Hòa Hảo chống
lại chính quyền Cộng Sản. Phiên tòa
quân sự quân Khu 9 mở ra trong trại
đã tuyên án tử hình, anh Tến bị
trói thúc ké, dẫn ra khu vườn cách
trại hai trăm thước, mấy loạt AK dòn
tan đã kết liễu đời anh Tến và
đồng thời những loạt đạn đó
cũng bắn thẳng vào tâm can trên hai
ngàn trại viên chúng tôi bị giam cầm
chẳng biết ngày nào ra với rào kẽm
gai và họng súng canh giữ đêm ngày.
Đoàn tù các tỉnh miền
Tây, tập trung về đây, biên chế,
xáo trộn. Tôi nằm cạnh Hoài, tiểu
đoàn phó thuộc Sư đoàn 21 Bộ
Binh. Hoài nhỏ hơn tôi ba tuổi,
ngoại hình dễ nhìn, tánh tình vui vẻ,
từ tốn và lịch sự. Hoài độc
thân, người mẹ ngoài thất tuần,
tóc trắng phau, không vắng mặt một lần
thăm nuôi nào.
Trong nỗi khổ đau khốn cùng, con người
dễ gần gũi nhau hơn. Tôi
và Hoài trở nên đôi bạn thân
không mấy chốc, ăn ngủ, lao
động, đêm ngày đều có nhau. Duy có một điều Hoài rất
kín đáo. Ít nói về mình.
Thân nhau là thế, gần nửa năm bên
nhau tôi chỉ biết láng máng Hoài
có người yêu Công Tằng Tôn Nữ
Diễm Phựơng, em gái tiểu đoàn
trưởng của Hoài, Tôn Thất Long, gia
đình gốc Huế vào Sàigòn sống
đã lâu.
Tết đến, buồn thân phận
tù đày xa nhà. Lần lên lớp cuối năm trong hội
trường lớn, cựu huấn luyện viên đại
học chiến tranh chính trị Đà Lạt
đại diện tù nhân chúc tết cán
bộ chỉ huy trại với câu kết: “Hy vọng
những ngày tới: Nhựt tân, nhựt nhựt
tân, hựu nhựt tân” chớ đừng
như những ngày đã qua, “Tà huy,
tà tà huy, hựu tà huy”. Hơn ba năm
sau anh bị siết cổ chết trong connex nửa
đêm về sáng tại trại Vườn
Đào Cai Lậy.
Anh bị bức tử vì có bạn tù
ăng-ten báo lại với Hai Sanh, sĩ quan an ninh, trại
trưởng Trung tá Trần Thâu: ”Nếu lấy
được chánh quyền trở lại, phải
giết hết một triệu đảng viên Cộng
Sản”. Câu nói để đời khí
phách của anh hùng Đại úy Quách
Dược Thanh.
Sau đó là ngày trọng đại,
đám tù ôm nhau rơi nước mắt chia
tay, vì số lớn tù nhân lùa xuống
tàu đày ra Bắc. Cả ngàn người
ngồi sắp lớp khít nhau như cá mòi hộp,
ăn sống mì gói và tiêu tiểu tại
chỗ vào những thùng ny-lon. Tắm
thì một vòi nước cứu hỏa từ
trên nắp sàn tàu xịt xuống.
Đàn tù lóp ngóp như một lũ chuột chù, loi ngoi trong cống
rãnh.
Biến một người thường
trở thành người có tư cách
đàng hoàng, thật khó khăn và cần
khoảng thời gian lâu dài, nhiều năm,
nhưng biến con người xuống hàng súc vật
thì thật dễ dàng chỉ cần đôi
ba ngày. Người
cộng sản có biệt tài nầy, chỉ cần
sinh hoạt đôi ba ngày trên chuyến
tàu, đày tù biệt xứ không biết
ngày về. Cách đối xử cùng
hung cực ác mà Thủ tướng Phạm
văn Đồng, người làm thủ tướng
lâu đời nhứt trên thế giới,
với hàm răng vẩu như hàng cừ sạt
lở bên bờ đê sông Hồng, đã
vỗ ngực tự xưng "lương tri của
loài người".
Tôi và Hoài may mắn còn ở lại,
sau đó bị chuyển xuống Cà Mau vùng
Hòn Đá Bạc, sông Đốc Vàm
phát sậy, đào đất, làm trại, cất
nhà, phá rừng, làm ruộng, đốn
tràm cung cấp cho các nơi xây dựng,
làm chất đốt và cán bộ kiểm
lâm tha hồ buôn bán, tiền bỏ vào
túi riêng.
Dân chúng cho biết từ tạo thiên lập
địa đến giờ chưa có dấu
chân người đặt tới bờ lung Ngọc
Hoàng, không biết Ngọc Hoàng có
xót thương hay không mà đoàn
tù mỗi khi đi phát sậy làm ruộng trở
về, mâm cơm trải tấm ny-lon trên nền
đất, ê hề cá lóc, cá trê,
cá rô đôi khi có cả rùa, rắn,
canh chua cá chiên, kho, rùa rang muối và
cháo rắn hổ nấu đậu xanh. Trời đẻ trời nuôi và
đoàn tù chúng tôi khỏe mạnh.
Đặc biệt, không ai bị rắn
cắn dù rắn chui dưới gầm giường
và làm ổ trong túi quần áo treo
trên đầu nằm.
Chúng tôi câu được một con
cá rô mề đóng phèn vàng
nghín, cân nặng một ký rưỡi,
không ăn, rọng đến kỳ thăm nuôi
mang ra cho thân nhân làm tin và anh bạn của
tôi Nghê Thành Thân, đại úy thiết
giáp, cắm câu một đêm trúng gần
một phần ba thùng phuy cá trê vàng.
Một đoàn khoảng một trăm tù
di chuyển bằng mấy chiếc “pon-tong”
làm đà cầu nổi công binh, xuống
xã Khánh Hưng ở dọc bờ kinh để
hằng ngày vào rừng ngập nước đốn
tràm gom thành đống to như trấu ở
các nhà máy xay lúa. Chúng tôi chia
thành tổ mười người xin vào tạm
trú nhà dân do cán bộ chỉ định.
- Thưa bác, do cán bộ chỉ định,
chúng cháu xin phép tạm trú nhà
bác để đi lao động.
Nhổ một bãi cổ trầu
vào cái gáo dừa đã lên nước
mun ô, quay mặt đi hướng khác. Bác chủ nhà nói giọng
lạnh lùng:
- Nhà tôi nhỏ hẹp lắm
! Không có chỗ cho mấy chú ở đâu ! Phải chi ngày xưa
lính Sư đoàn 21 trong chiến dịch Làm
Cỏ U-Minh đừng đốt nhà tôi sáu
lần thì gia đình tôi đâu có ở
trong căn nhà trống trước trống sau như
chuồng vịt nầy. Tùy mấy chú, tôi
không đuổi xua ai hết !
Đêm đó chúng tôi
trùm ny-lon, ngủ ngồi ngoài sân dưới
cơn mưa rỉ rả trọn đêm. Sáng ra ai cũng mặt mũi bơ phờ vì thiếu ngủ và
chuyền miệng cho nhau nghe đừng bao giờ cho
cư dân đây biết lý lịch trước
đây đã phục vụ Sư đoàn 21.
Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi hồi làm
tư lịnh Sư đoàn 21 với chiến dịch
Làm Cỏ U-Minh, lập nhiều căn cứ hỏa lực
để từ đây bung quân ra tiêu diệt
lực lượng cũng như hậu cần của Việt
Cộng đồng thời gom dân ở trong vùng
do quốc gia kiểm soát, cắt đứt mọi
liên lạc, tiếp tế, tách rời cá (Việt
Cộng) ra khỏi nước (dân chúng). Trên đường bình định
đã đốt nhà dân nhiều lần gây
căm phẫn trong lòng dân cao độ.
Trên “sạt” thuyết trình chiến
dịch Làm Cỏ U-Minh thành công, trình diễn
bằng cách mời Tổng Thống Thiệu dự tiệc
đêm Giáng Sinh ở căn cứ Hòa
Bình. Đêm đó binh sĩ Sư
đoàn 21 đã thấm thía bài hát
“đêm đông lạnh lẽo chúa sinh ra
đời” run rẩy bên gốc đước, bờ
tràm ... Lực lượng bung ra bán kính
trên 20 km ngừa pháo kích, để Tổng
Thống, Tư Lịnh cùng số lớn quan chức
Sàigòn lả lướt trên sàn nhảy,
rượu mềm môi và gái đẹp, biệt
đoàn văn nghệ trung ương đã
được hàng đoàn trực thăng UH-1B
không vận đầy đủ và hoàn tất
từ ngày hôm trước. Một
sao được gắn thêm lên bâu áo trận,
chức tư lịnh quân đoàn đi kèm với
mồ hôi, bệnh tật, tử sĩ ... của
sư đoàn và hàng ngàn nhà dân
U-Minh bị đốt đi, dựng lại nhiều lần.
Tiếng pháo đêm đêm từ mấy
căn cứ hỏa lực bắn đi cũng là nhịp
đập đau lòng của con tim
người dân trong vùng lửa đạn chiến
tranh tàn khốc mà mạng người tựa
như cỏ rác ngoài đồng.
Toán lao động của
chúng tôi đã hội ý trước, sau
khi số tràm đốn, nạp đủ chỉ
tiêu, anh em chúng tôi ai cũng bè về một
bó tràm khô lớn. Tắm rửa,
cơm nước xong, chúng tôi cưa gần hai
thước khối củi tràm, chất thành cự
bên đầu song nhà, để gia đình
bác Ba và chúng tôi cùng dùng. Hôm sau, toán chúng tôi được
phép vào nằm ở hàng ba nhà trú
mưa.
Còn ở chung với bác Ba
chủ nhà, cô con gái thứ sáu tuổi
ngoài hai mươi, đảng viên, thơ ký
văn phòng Ủy Ban Nhân Dân Xã Khánh
Hưng, mỗi ngày sáng đi chiều về bằng
xuồng ba lá. Cậu con trai mười bốn tuổi
đẹt ngắt, không có trường đi học,
mỗi sáng ra đồng với mẹ. Hôm
nào trời mưa dầm, đi ruộng về, cậu
vắt áo cho ráo, mặc quần đùi
còn rỏ nước, leo lên
giàn bếp ngồi hơ cho ấm và hong cho đồ
khô vì bộ thứ hai có nhiều chỗ
vá còn ướt, phải vắt ngang qua cây
sào trúc.
Tôi mở ba-lô lấy ra một quần
tây dài, vải “sạt-kin”, li còn
bén ngót, một áo sơ mi dài tay
màu xám của nhạc gia tôi gởi cho trong
chuyến thăm nuôi vừa rồi, mặc đi lao động, tôi biếu cho cậu ta. Mặc bộ đồ mới, cậu chạy
vào buồng, mừng rỡ khoe với mẹ.
Bác Ba bước ra, tay lau nước
mắt, khóc ngỏ lời cám ơn tôi. Đêm đó cả toán mừng vui
phơi phới, chúng tôi được phép
vào nhà ngủ không còn sợ những
cơn mưa nửa đêm mà mấy ngày qua
chúng tôi ngồi bó gối, co ro, ướt mẹp
như chuột lột.
Sáu chiếc võng ny-lon được
giăng chằng qua mấy hàng cột, một bạn
nằm dưới khuôn bếp. Be và Châu Rép nằm
trên tấm đệm phủ lên bồ lúa,
tôi với chiếc chiếu hẹp khổ, trải
lên mặt đất có lót tấm ny-lon
màu bánh lá rau mơ, khoảng cách giữa
bộ ván và tấm vách ngăn, bằng gỗ
còng non. Được
chỗ ngủ yên bề, anh em nói cười mừng
vui ra mặt. Đêm ấy tôi ngủ sớm,
nửa đêm nằm mơ thấy mình được
thả, giang tay ôm cả vợ
và hai con trai vào lòng. Trong mơ màng
tôi nghe trời đang mưa, giựt mình thức
dậy ướt sũng một bên đầu ...
mông con heo nái chủ nhà đang sề
vào mùng tôi, nước tuôn xối xả
một trận mưa to, khai ngấy, gần năm
phút mới tạnh. Tôi không giận,
áo quần mùng mền ướt nhẹp khai
mùi nước đái heo, chỉ tiếc một
điều trong mơ chưa hôn được vợ
con.
Châu Rép, người quận Tịnh
Biên, gốc Khờ Me, hư một mắt, vết
thương lớn ở quai hàm dưới, hủng
vào vì mất xương, đại đội
trưởng biệt kích, trận mạc gan lì,
tánh tình hiền hòa, chất phác. Buổi chiều cơm nước xong, cả
toán đứng ngồi trước hiên nhà
tán gẫu, bỗng hai con chó chạy bám,
đuổi nhau và đứng lại làm tình
vội vã trứơc sân. Anh
chó đực hơi nhỏ con, hai chân trước
phủ lên mông người bạn tình,
đít lắc hùng hổ liên hồi, lia lịa
nhưng không trúng mục tiêu, giá nếu
chị chó biết rùn thấp xuống một
tí giúp đỡ ... sự đời sẽ đẹp
như mơ.
Châu Rép giậm cẳng, tức mình
phán một câu:
- Rặp tao là rrồi
rrồi ! (gặp tao là rồi rồi)
Anh em cười bò
lăn, Cô Sáu đỏ mặt, nguýt một
cái, ngoe ngoảy bước nhanh vào trong. Câu
chuyện trên, chiều hôm đó được
phổ biến đi khắp đội và cũng từ
hôm đó Châu Rép đi đâu, gặp
bất cứ anh em nào trong đội, đều
được chào bằng câu: "Rặp tao
là rrồi rrồi".
Châu Rép và
Be là cặp bài trùng, ăn ngủ đi
đứng tâm tình luôn ở bên nhau. Be
là sĩ quan tùy viên của Đại tá
Hoàng Đức Ninh, anh ruột Hoàng Đức
Nhã bà con cô cậu với Tổng Thống
Thiệu, Tư lệnh Biệt khu 44. Giữ chức vụ
nầy để sẵn sàng được vinh
thăng cấp tướng.
Be cho biết, trước
đây thường dùng trực thăng sang Nam
Vang ăn sáng với tư lịnh, lúc về
đầy “sam-so-nite” vàng lá ! Buôn lậu
kiểu nầy đố cha thằng nào dám đến
gần, ký giả nào dám hó hé
nói chi đến an-ninh quân đội, quân cảnh
nữa, tất cả chỉ như quân khuyển
thôi, có dám ngửi được gì
đâu !
Qua kẽ hở của
“bân-cơ”-hầm làm việc và chốn
ăn ngủ của tư lịnh. Đắp bằng bao
cát chống pháo kích, Be rình xem
đã đời cảnh tư lịnh “vũ
đuôi múa lân” với cô đào
nhan sắc, có nghệ danh “cải lương chi
bảo”, mông quay về phía sau.
Những trận
đánh ghen đập bể kiếng xe, khói
súng mù trời của bà vợ lai Pháp,
may mắn lần nào vị tư lịnh biệt khu
44 cũng đều an toàn thoát nạn vì nắm
vững binh pháp Tôn Tử: "dĩ đào
vi thượng".
Cô Sáu, đảng
viên, thơ ký ủy ban xã, khoái Be ra mặt.
Theo lời Châu Rép tường thuật với
điều kiện chúng tôi phải thề
không ai được nói lại cho Be biết, mỗi
đêm Châu Rép vén mùng ... mặc kệ
muỗi cắn, để nghe ngóng và quan sát
vì Be vừa rón rén mò vào buồng
cô Sáu, cố gắng nhiều nhưng chẳng thấy
được gì, một phần vì đêm tối,
một phần vì mắt bị thương tật.
Riêng tiếng chuyển mình của giường ngủ
Cô Sáu bện bằng những cây tràm
suông, kết lại với nhau, tiếng râm ran kẽo
kẹt nhiều lần trong đêm và có
lúc vẫn “chuyển mình lên hăm hở”,
cho đến khi gà vỗ cánh, cất đầu,
rộn ràng gáy sáng.
Ngày đoàn
tù chúng tôi rời khu rừng tràm, rời
xóm dân nghèo đáng thương tội
nghiệp, cả hai chế độ làm cho đời
sống khốn đốn cơ hàn, cái xã
Khánh Hưng quanh năm ngập nước đỏ
bầm, màu lá tràm mục lưu lại nhiều
đời, chia tay trong cảm động và nước
mắt. Nhà có ba con vịt xiêm mái, mập
ú bước theo điệu Limbo rock không muốn
nổi, bác Ba chủ nhà ra lịnh mần thịt
hết, đãi đoàn tù tình nghĩa, tạm
trú trong nhà mấy tháng qua, với
đôi mắt đỏ hoe vì khóc suốt
ngày hôm đó.
Riêng tôi cảm
động và còn nhớ mãi đến
bây giờ vì tình cảm yêu thương,
mến phục người tù cùng mấy miếng
huyết vịt hòa với nếp, to tròn, day,
bùi bùi, béo ngậy trong nồi cà-ry,
khoai lang tím, nước cốt dừa ... ngon không
tả thế nào được.
Xin gởi đến
bác Ba lời tri ơn tận đáy lòng,
kéo tay ra phía sau hè, bác nói với
tôi:
- Nếu lúc nào
được thả, chú Ba không chê xóm
nghèo nàn nầy, chú dẫn thím và mấy
đứa nhỏ về đây ở, tôi kêu sắp
nhỏ cất cho chú thím một cái nhà
và cho không chú năm công ruộng để
sống.
Bị lính quốc
gia đốt nhà nhiều lần, bây giờ cho
đất cất nhà cho người tù-lính
quốc gia - để tối lửa tắt đèn
có nhau trong tình chòm xóm. Bác Ba ơi
! Người đàn bà nghèo của xã
Khánh Hưng, khu rừng tràm quanh năm ngập
nước màu đỏ bầm, tôi biết
tìm đâu hơn tấm lòng bao la nhân ái
sánh cho bằng.
Chúng tôi nối
đuôi nhau đi bộ thảnh thơi dọc theo bờ
kinh, ba-lô, nồi niêu, soong chảo, len cuốc, dao
rừng ... tôi để trên xuồng do cô
Sáu bơi lái, Be ngồi trước mũi xuồng
quay mặt nhìn cô Sáu vừa bơi vừa cầm
chéo khăn rằn lên lau nước mắt.
Bọn chúng tôi
di trong yên lặng, cảm động thật tình
trước cảnh chia tay của Be và cô
Sáu, “tình không biên giới”.
Chúng tôi cùng cười ồ lên, khi
phía sau, tiếng Châu Rép, giọng người
Miên lơ lớ :
- Dớ ! Cô Sáu
khóc vì khuya nay không có đồ chơi
quay !
Sau nầy Be dẫn
Châu Rép trốn trại qua Miên đi đường
núi Trầu Hà Tiên. Châu Rép bị bắt
lại, cùm chân ngày đêm. Biệt giam
trong nhà kỷ luật rào bằng nhiều lớp
kẽm gai, ăn độn khoai mì chấm nước
muối. Cách ly với bạn tù. Riêng Be, nghe
mấy vệ binh nói lại, ngoan cố bỏ chạy
nên bị bắn chìm xuống dòng sông.
Bè bạn, nhất
là bạn tù cùng trại, đã định
cư trên các quốc gia khắp thế giới, cả
bạn bè còn lại trong nước, ai biết
được tin tức gì về Đại úy
Be, sĩ quan tùy viên của Tư lịnh Biệt
Khu 44, người tình của cô Sáu, đảng
viên, thơ ký Ủy Ban Nhân Dân Xã
Khánh Hưng-Cà Mau sống chết thế nào
xin liên lạc với tác giả, số điện
thoại, email có ghi sau bìa sách, muôn
vàn cảm tạ !
Riêng Châu
Rép, tác giả chúc mừng anh cùng gia
đình đã định cư tại Hoa Kỳ
và có một thắc mắc: không biết sức
khỏe anh thế nào, khi hồi tưởng lại
ngày tháng tù đày năm xưa anh từng
hiên ngang tuyên bố "gặp tao là rồi rồi".
Đồng thời tôi còn giữ chữ tín
với anh, lời thề năm xưa bên bồ
lúa, chúng mình từng ngồi rình, tay se
sẽ đập muỗi liên tục, lúc Be vừa
rón rén bò vào buồng cô Sáu.
Tôi chưa hề nói lại với Be vì cho tới
bây giờ gần ba chục năm qua, tôi có gặp
Be lần nào đâu ! Châu Rép ơi !
Sáng hôm
đó, đoàn tù tập hợp đi đốn
tràm, dao rừng giắt bên hông, hai lon gô
thức ăn và nước trà đựng trong
túi, mang hông bên kia, lội xuống kinh, nước
ngập bụng với “nỗi buồn ướt
dái” mang vào rừng lạnh run lẩy bẩy.
Trước giờ xuất
phát, có lịnh mỗi toán để lại
nhà hai người, nhận công việc khác.
Tôi và Hoài ở lại, nhập với mấy
toán kia, chúng tôi gồm mười người
mang theo leng đào đất và một cần
xé vôi bột, một cán bộ địa
phương và hai du kích mang súng đi
kèm. Chúng tôi đi trên bờ đê,
qua cánh đồng, xuyên qua mép rừng
đước mỏng, ngập nước đến
đầu gối. Nửa giờ sau, tập họp lại
trên bãi cát bùn xám, cạnh mé biển
nghe tên cán bộ lên lớp:
- Sáng sớm hôm
nay có hai chục xác chết thuộc thành phần
phản động vượt biên để ăn
bơ thừa sữa cặn của bọn tư bản,
đế quốc. Các anh được phân
công đào huyệt chôn mấy xác nầy,
mỗi người đào hai hố, chôn hai
xác, nhớ rải vôi bột lên xác chết
trước khi lấp đất, khỏa bằng mặt,
tuyệt đối không đắp núm.
Chúng tôi
nhìn thấy mấy chục xác chết nằm rải
rác, áo quần tả tơi, da đã căng
bóng, mùi tanh hôi phảng phất, đàn
ruồi nhặng vo ve bay lên đáp xuống.
Tôi và Hoài
nhận bốn xác cuối cùng đàng xa, gần
con lạch nhỏ, mở từ nguồn nước trong rừng
đước mỏng chảy ra. Hoài nhận hai
xác đàn ông quay ngược đầu, phần
tôi một xác đàn ông và một
xác phụ nữ. Xác đàn ông
được sóng biển đưa xa lên
bãi cát, xác phụ nữ mặc áo trắng
đã bật nút lòi một bên vai
còn mang áo nịt ngực, quần đen với
tư thế nằm ngửa chân còn liếm
làn nước biển. Kéo xác thiếu nữ
lên cạnh bìa rừng, cài lại nút
áo cho người chết, tôi bỗng thấy
bên vai phải có hình xâm con chim phượng
màu tím thẫm, đuôi xòe, sắc
nét rõ ràng dù da đã ngã
màu trắng xanh, trơn bóng. Tôi đỡ
xác chết, cài khuy áo kín đáo, vuốt
lại mái tóc chấm ngang lưng gọn
gàng.
Suốt thời gian
nhìn thấy mấy chục xác chết của
đồng bào mình, chạy trốn, để
tìm tự do, thoát kiếp đọa đày
cộng sản. Trên đường đi tìm sinh
lộ chẳng may gặp tai nạn chết, xác
trôi dạt vào đây, biết bao con tàu lớn
nhỏ chìm đắm ngoài biển khơi với
nhung nhúc xác người, làm mồi cho
cá. Nào ai kiểm kê được ? Hàng
hàng lớp lớp người chịu cảnh xiềng
gông, ngục tù trong những trại khổ sai rừng
thiêng nước độc, chết lặng lẽ
âm thầm như đá núi cây rừng.
Tôi mở nắp lon
gô hớp một ngụm nước lá tràm sấy
khô thay trà, còn âm ấm. Tôi bắt
đầu đào hố, nửa giờ sau, tôi
đã chôn xong xác người đàn
ông. Ngồi trên rễ đước, lấy
nón lau mồ hôi trán, Hoài vác xẻng
tới, ngồi xuống cạnh bên tôi và hỏi:
- Xong chưa đại
ca ?
Tôi lấy trong
túi áo miếng đường thẻ nhỏ, bẻ
nửa chia cho Hoài và nói:
– Mới chôn
được một xác thôi. Hoài xong
chưa ?
Vừa nhai đường
thẻ vừa trả lời:
– Xong rồi. Lại
giúp đại ca đây.
Tôi đưa gô
nước tràm cho Hoài:
– Tội nghiệp
xác đàng kia là thiếu nữ còn trẻ,
tóc ngang lưng và trên vai có xâm
hình con chim phượng màu tím ....
(Còn Tiếp)
***********
Kính mời
quí vị tìm đọc :
Tuyển tập
truyện ngắn
Một Đám Cháy Rừng
của Tường Lam
để biết:
- Muốn dập tắt
một đám cháy rừng người ta chỉ
cần một vài cơn mưa.
- Muốn dập tắt
một cuộc tình người ta phải cần bao
nhiêu nước mắt ?
-Tư Lệnh biệt
khu 44 dùng trực thăng đi ăn sáng ở
đâu ? đựng gì trong
samsonite khi trở về ?
- Thủ tướng
Trần Thiện Khiêm làm gì ?!? sống
với ai ? sau khi vợ chết !?
- Trần Văn Tới
có "đồ chơi" độc nhứt
vô nhị mà không một người
đàn ông nào trên hành tinh này
có được !!!
- Người
tù cải tạo chôn người tình
lót bằng lớp lá khô bên bờ
sóng vỗ !!
- Trong chừng mực
nào đó tác giả đã đưa cuộc
chiến VN vào truyện ngắn
“ Về Xã An Trường”
- Và nhiều tình tiết ly kỳ
độc đáo khác ... sự thật 100% ...
Trân Trọng
Tác giả
Tường
Lam
E-mail : anho43@hotmail.com
(MIÊN DU
ÐÀLẠT chuyển)