Tìm Lại Ân Nhân
(Nguyễn Duy An)
Nguyễn Duy An là người
Á châu đầu tiên đảm nhiệm chức
vụ Senior Vice President của National Geographic, tổ chức
văn hoá khoa học lớn nhất thế giới.
Năm 2006, ông là tác giả nhận giải
Chung Kết Viết Về
Nước Mỹ. Bài viết nhân lễ tạ
ơn 2008 kể về chuyến
bay đầu tiên sang Mỹ và "vị ân
nhân số một" mà ông đã cố
công tìm kiếm từ
24 năm qua. Mong sau này, chuyện gặp
lại ân nhân sẽ được ông kể
tiếp.
***
Bà đại sứ Dougan gởi lời nhắn
trong điện thoại muốn gặp tôi tại quán
cà phê Caribou ở góc đường L ... 17
vào lúc 3 giờ chiều Thứ Sáu sau Lễ
Tạ Ơn, để kiểm chứng một vài chi
tiết về một vị ân nhân tôi đang
tìm kiếm từ hơn 20 năm nay vì bà ấy
đã tìm được một vài manh mối.
Tôi quen bà đại sứ Dougan từ cuối
năm 2006, lúc bà ấy chuẩn bị thực hiện
chương trình "Next Gen Awards" cho giới trẻ
ở Việt Nam vào năm 2007, và qua sự quen biết
với ban lãnh đạo của National Geographic,
bà ấy đã mời tôi làm thành
viên trong ban cố vấn của chương
trình. "Cuộc thi NextGen [Next Generation] được
tổ chức hàng năm nhằm khuyến khích,
dẫn dắt, trao thưởng cho thế hệ trẻ
tài năng có ý tưởng sáng tạo
và những đề án thực tiễn trong việc
sử dụng hiệu quả điện thoại di động
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
trong cộng đồng và hơn thế nữa
..."
Bà đại sứ Dougan chỉ muốn tôi
gọi bà là Diana, nhưng vì trong văn bản
chính thức người ta vẫn giới thiệu
bà là "The Honorable Diana Lady Dougan" nên
lúc nào tôi cũng gọi bà là
Ambassador Diana hoặc Ambassador Dougan cho phải phép.
Tôi gọi thế vì bà đã nhận
được tước vị "the permanent rank of
Ambassador" và tôi cũng không biết
cái chức đó trong tiếng Việt là
gì nên "tạm dịch" là đại sứ
mặc dầu bà đã về hưu và cũng
chưa bao giờ làm đại sứ chính thức
của Hoa Kỳ tại bất cứ quốc gia nào
trên thế giới.
Sau khi làm việc chung với nhau một thời
gian, tôi biết bà ta quen rất nhiều nhân
viên kỳ cựu đã từng làm trong
ngành Ngoại Giao nên chính thức nhờ
bà ấy tìm lại một vị ân nhân
đã cho tôi 20 Dollars trên chuyến bay từ
Tokyo tới Seattle vào ngày 1 tháng 8 năm 1984.
Mặc dầu tôi đã ra sức tìm kiếm
từ bao nhiêu năm nay, kể cả việc liên
hệ với một vài người quen biết
đang làm việc ở Bộ Ngoại Giao, nhắn
tin trên internet và bulletin của Bộ Ngoại Giao
Hoa Kỳ nhưng vì tôi chỉ có một
vài chi tiết rất mơ hồ về vị ân
nhân của mình nên cuộc tìm kiếm
đã không mang lại kết quả gì.
Ngoài những chi tiết ở trên, tôi chỉ
biết vị ân nhân ấy tên là Barbara
(tôi đã quá khù khờ nên không
hỏi tên họ) và năm 1984 bà Barbara
đang làm việc trong văn phòng một
tòa đại sứ nào đó của Hoa Kỳ
ở Á Châu ! Khi nghe tôi kể
về câu chuyện hy hữu đã xẩy ra cho
tôi trong ngày đầu tiên đặt chân
tới Mỹ và những cố gắng của
tôi để tìm lại vị ân nhân
đó, bà đại sứ Dougan đã thốt
lên "đúng là mò kim đáy biển"
nhưng cũng hứa sẽ cố gắng hết sức
và hy vọng sẽ tìm được vì
"lòng thành" của tôi.
*
Ngày đó ... Tôi được bầu
làm trưởng đoàn hướng dẫn gần
200 người tỵ nạn Việt Nam từ Galang
và Hong Kong đáp chuyến bay của hãng
Northwest Airlines rời Tokyo sang Seattle bắt đầu cuộc
sống mới trên đất Mỹ. Tôi được
chọn vì "đồng bào" biết
tôi đã từng làm thông dịch
viên cho văn phòng Cao Uỷ ở trại tỵ nạn
Galang, Indonesia.
Tất cả chúng tôi được
lên máy bay trước những hành khách
bình thường, và ngồi gần hết
phía cuối máy bay, nhưng cho tới khi máy
bay chuẩn bị cất cánh, bà con ta vẫn
cãi nhau chí chóe vì chỗ ngồi lộn
xộn, kẻ thích gần cửa sổ, người
khác lại muốn gần lối đi hay dăm ba
người bạn muốn được ngồi bên
nhau ... Nhân viên phi hành đoàn, sau nhiều
lần cố gắng vẫn không ổn định
được tình hình, đã nhờ
tôi dùng hệ thống âm thanh trên máy
bay nói tiếng Việt giúp họ giải quyết
vấn đề. Tôi cầm máy nói vài lời
xin lỗi hành khách trên máy bay bằng tiếng
Anh, rồi nói lớn bằng tiếng Việt:
- Tôi xin tất cả mọi người ngồi
xuống ghế, cài dây an
toàn. Ai không muốn ngồi tại
chỗ của mình, xin bước lên đây,
tôi sẽ dẫn ra đi chuyến sau. Chúng ta không thể đánh mất
danh dự của người Việt Nam chỉ vì một
chỗ ngồi trên máy bay.
Như một phép lạ, cả mấy trăm
người đều im bặt, chỉ còn nghe tiếng
lách cách cài dây an
toàn ... Tất cả hành khách trên
máy bay và phi hành đoàn đều trố
mắt ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi
nói cám ơn rồi trở về chỗ ngồi.
Trớ trêu thay, chỗ ngồi của tôi
đã bị chiếm mất ! Mấy
cô chiêu đãi viên cũng đi lên
đi xuống, nhìn trước ngó sau nhưng
không tìm thấy ghế trống nào ở phần
dành cho người tỵ nạn nên đành
dẫn tôi lên ngồi một ghế trống ở
phía trên, bên cạnh một phụ nữ trung
niên với một gương mặt rất phúc
hậu ... Sau khi tôi cài dây an toàn, bà
ta vừa bắt tay tôi vừa nói:
- Tôi là Barbara. Anh bạn trẻ tên gì ?
- Tôi là Nguyễn
Duy-An.
Bà ta lặp lại
tên tôi vài lần rồi hỏi tôi xem
bà ấy phát âm có đúng không.
Tôi thành thật nói không. Bà ấy
cười lớn:
- Tiếng Việt Nam
khó đọc quá. Tôi chịu thua. Thôi, cứ
gọi là "anh bạn trẻ" nhé.
- Tuỳ bà.
- Cám ơn. Mà
này, anh bạn trẻ đang làm việc cho Cao Uỷ
Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, phải không ?
- Dạ không. Tôi
chỉ là một người tỵ nạn đang
trên đường đi định cư tại Mỹ.
- Thế hả ? Tôi
thấy trên áo anh có in phù hiệu
Liên Hiệp Quốc và mấy chữ UNHCR (United
Nations High Commissioner for Refugees).
- Đây chỉ
là món quà của Cao Uỷ cho những người
làm việc thiện nguyện trong trại tỵ nạn
thôi.
- Mà này, anh bạn
trẻ... Lúc nãy anh nói gì mà tất
cả đều im lặng tuân theo vậy ? Mấy
người tiếp viên hàng không sắp xếp
cả tiếng đồng hồ không xong, còn anh
chỉ nói một câu thì mọi việc đều
êm. Anh bạn trẻ giỏi quá.
- Tôi có tài
giỏi gì đâu. Tôi chỉ nhắc cho họ
đừng làm mất danh dự dân tộc của
mình vì tranh dành chỗ ngồi trên
máy bay.
Chúng tôi còn
nói nhiều chuyện trong suốt chuyến bay
dài qua đêm, và tôi được biết
bà Barbara là nhân viên ngoại giao làm
việc ở Á Châu đang trên đường
về Mỹ nghỉ hè. Vừa tới Seattle, trước
khi xuống máy bay, bà Barbara trao cho tôi một
tờ giấy 20 Dollars, nói nhỏ:
- Cứ cầm lấy,
đừng ngại nhé anh bạn trẻ. Đường
về Miền Đông còn dài, biết
đâu anh cần một ít để mua đồ
ăn thức uống trong lúc chờ đổi chuyến
bay.
Tôi chưa kịp
nói lời cám ơn thì bà ấy
đã bước vội ra phía trước
như sợ tôi sẽ từ chối.
Tôi theo đoàn
người tỵ nạn đi ra theo lối dành
riêng để xếp hàng làm thủ tục
giấy tờ định cư. Tôi là trưởng
đoàn nên phải đứng ở cửa
giúp "điểm danh" và "nhận diện"
từng người vì có nhiều người
trùng tên, trùng họ và danh sách
đánh máy lại không có dấu tiếng
Việt.
Mặc dầu máy
bay đáp xuống phi trường Seattle lúc 10 giờ
sáng nhưng mãi tới quá trưa tôi mới
bước ra khỏi văn phòng của sở thuế
vụ và di trú vì tôi là người
cuối cùng trong đoàn.
Tôi bị trễ chuyến
bay về Pittsburgh !
Nhân viên hãng
United Airlines bảo tôi ngồi chờ họ sắp xếp
cho đi chuyến sau. Tôi đến ngồi ở
dãy ghế gần mấy cái máy bán thuốc
lá, bánh kẹo, nước uống ... ngắm
ông đi qua bà đi lại. Tôi đói lắm
vì lúc đó đã hơn 3 giờ chiều.
Tôi để ý thấy người ta bỏ tiền
vào máy, kéo một cái nhẹ để
mua nước, kẹo sô-cô-la và có khi
còn được thối lại mấy đồng
tiền cắc. Tôi chờ lúc vắng người,
rụt rè bỏ tờ giấy 20 Dollars bà Barbara
cho sáng nay để mua thử mấy thỏi kẹo
sô-cô-la nhưng máy không nhận.
Tôi mua thử loon
nước Coca-Cola cũng không được. Tôi
vừa đẩy tiền vào, máy lại đẩy
ra.
Vừa đói vừa
khát, tôi ngồi "chửi thầm" con mẹ
Mỹ già chơi đểu mình, giả ân giả
nghĩa cho mình đồng bạc giả ! Tôi chờ
tới lúc có một cụ già tới mua thuốc
lá, dò giẫm lại gần chìa tờ giấy
20 Dollars hỏi:
- Nhờ ông xem
đây có phải là tiền "thật"
hay không ?
- Thật chứ. Sao cậu
hỏi ngớ ngẩn thế ?
- Tôi bỏ vào
máy mua kẹo không được, mua nước
nó cũng không nhận.
Cụ ấy cười
lớn rồi giải thích:
- Cái máy
này chỉ nhận tiền cắc hay giấy $1 hoặc
$5 thôi.Để tôi giúp cho. Lần đầu
tới Mỹ hả ? Cậu cần gì ?
- Tôi là người
tỵ nạn Việt Nam hôm nay đi định cư
ở Pittsburgh. Tôi tới đây từ sáng
nhưng bị trễ chuyến bay. Tôi chỉ muốn
mua ít kẹo Sô-co-la và loon nước Coca-Cola
cho đỡ đói.
Ông cụ chẳng
nói gì, bỏ tiền vào máy mua 3 thỏi
kẹo Sô-cô-la và một lon nước trao cho
tôi. Tôi đưa tiền ông ta không chịu
lấy, chỉ cười cười bảo tôi:
- Có mấy chục
xu thôi, đừng bận tâm. Nếu còn chờ
lâu, cậu đi ra phía ngoài kia mua bánh
mì mà ăn. Tôi phải chạy cho kịp chuyến
bay. Chúc cậu may mắn.
Ông cụ đi rồi
tôi mới hối hận đã trách oan
bà Barbara. Chính lúc đó, tôi nhận
ra giá trị đích thực của tấm
lòng của bà ấy khi trao tờ giấy 20
Dollars cho một người xa lạ, và tôi cũng
thấu hiểu ý nghĩa của câu nói "một miếng
khi đói bằng một gói khi no !"
*
Đã bao nhiêu
năm qua rồi, tôi vẫn miệt mài tìm kiếm
vị ân nhân SỐ MỘT của tôi trên
đường đi định cư tại Mỹ. Với
tôi bây giờ, tờ giấy bạc 20 Dollars của
bà Barbara đáng giá gấp trăm gấp
ngàn lần giá trị đích thực của
nó trên thị trường tài chánh.
Tôi đã an
cư lạc nghiệp nơi vùng đất mới
và chỉ ước mơ được một lần
kính cẩn nói lời cám ơn tới
bà Barbara. Chính bà đã dạy cho
tôi biết chia sẻ những gì mình có
với những người kém may mắn dù quen
biết hay không. Đó cũng chính là
tâm tình của tôi mỗi lần mừng Lễ
Tạ Ơn (Thanksgiving).
Tôi hy vọng
mùa Lễ Tạ Ơn năm nay bà đại sứ
Dougan sẽ giúp tôi tìm lại được
vị ân nhân tên là Barbara, một người
đã từng làm việc trong văn phòng một
tòa đại sứ nào đó của Hoa Kỳ
ở Á Châu năm 1984. Tôi cầu xin được
một lần mời bà đến thăm gia
đình và nói cho bà biết rằng tất
cả những gì tôi có được
hôm nay cũng không giá trị bằng tờ giấy
bạc 20 Dollars bà ấy đã cho tôi trên
chuyến bay đưa tôi đến định cư
nơi vùng đất mới Hoa Kỳ.
Nguyễn Duy-An
Thanksgiving
2008
(Bai Chuyen)