NGƯỜI CON DÂU CỦA
NƯỚC MỸ
(Lưu Hồng Phúc)
LGT: Bài viết vô cùng cảm
động sau đây của quả phụ một sĩ
quan QLVNCH, kể về một mối tình thời chiến
tranh Việt Nam
giữa chị ruột của tác giả với một
người lính Mỹ, đã hy sinh trong cuộc
chiến. Hơn ba mươi năm sau, tưởng nhớ
công ơn người anh rể đã hy sinh cho
quê hương, tác giả ghé thăm bức
tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ
trong chiến tranh Việt Nam ... Không ngờ, tại
đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của
người anh rể cũng đến viếng thăm
con, và qua câu chuyện, tác giả đã
giúp ông bà nội người Mỹ tìm
thấy người con dâu Việt và đứa
cháu nội chưa từng biết mặt ...
*
Tháng tư thường cho tôi
nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ
đó ta làm thân mất nước không
nhà và nhớ vì trước đó
có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ
còn tìm lại được. Giữa
lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị
bạn rủ theo đoàn nguời về thủ
đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh
Đào nở và nhất là đi thăm bức
tường đá đen, ghi lại tên tuổi của
hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp
chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để
bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi
đó là một dịp may đến thật
tình cờ.
Tôi vẫn thường nghe nói
về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc
Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ
đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm
lòng vì cả hai, được nhìn những
cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ
ước mơ và đến tận nơi bức
tường đá đen để tìm tên một
người đã là điều tôi mong muốn
từ lâu. Thế nên tôi thu
xếp hành trang vôi vã đi ngay.
Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn
đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ
đô. Con đường Ohio
chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực
rỡ một màu hồng phơn phớt trắng.
Hơi lạnh đầy trong không khí của một
mùa đông dài còn sót lại,
vương qua mùa xuân, đọng trên những
cánh hoa dọc theo con đường
Constitution dẫn đến bức
tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.
Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu.
Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một
khoảng không gian quanh những con đường chạy
dọc theo công viên. Hoa Anh
Đào thật đây rồi, những cánh
hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ
được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm
cảm mến những kiếm sĩ của xứ
Phù tang, cô đơn vung đường
gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh,
thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước
mắt tôi đây. Tôi tách ra
khỏi nhóm người đi bộ một mình
dưới những tàn cây.
Tôi vẫn thích được
đi một mình để nhớ về những
ngày tháng đã dần qua.
Ngày xưa chưa mất miền Nam gia
đình tôi đã có một cuộc sống
ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người
lính trận, mỗi lần về phép thường
hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố
vấn trong đơn vị. Hai người cùng
làm việc, cùng chung sở
thích và ý nguyện nên rất thân
nhau. Thuở ấy tôi không biết nhiều về
đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời
anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người
lính Mỹ ấy đến từ một vùng
quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài
cái vẻ bên ngoài rất tài tử,
râu ria xồm xoàm vì những ngày
tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp
cắt tiả thì Mike Wright thật nhân hậu
và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với
tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của
nguời Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu
tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp
đất nước tôi, hòa nhập vào
đời sống người dân bản xứ,
tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh
chàng
râu tia xồm xoàm Mike chiếm được cảm
tình của gia đình, nhất là bà chị
lớn chưa chồng của chúng tôi ngay.
Chuyện tình của một người
lính viễn chinh từ một đất nước
xa xôi với người con gái Việt Nam
còn nguyên nền nếp gia phong diễn ra thật
êm đềm hạnh phúc với một
đám cưới đậm chất phương
Đông. Chị tôi khăn
đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng
áo dài khăn đóng. Trông
họ cũng thật vừa đôi.
Từ đó tôi không còn cô
đơn trông ngóng hằng đêm mà
có cả chị tôi là kẻ đồng
tình, đồng cảnh. Chúng
tôi đã có những ngày đợi chờ
trong lo lắng, đã có những ngày
đoàn viên trong hạnh phúc. Những
tháng tươi vui của một thời son trẻ
tưởng như không bao giờ dứt cho đến
một ngày kia. Tôi
không quên được cái ngày người
chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích
thân đến báo cho tôi biết là chồng
tôi và đơn vị của chàng không về
nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ
thương đang là anh rể của tôi cũng
cùng chung số phận. Một đơn vị oai
hùng, thiện chiến, tưởng như là
không bao giờ thua trận đã nằm lại
đâu đó trên vùng đất Hạ
Lào của mùa hè khói lửa. Tôi
và người chị, ngày ấy thực sự
bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất
là khi chị tôi biết được rằng
mình vừa khó ở, chưa thông báo cho
Mike biết về đứa con vừa thành hình
trong bụng chị.
Sau khi miền Nam
lọt vào tay phương Bắc
là một quãng đời địa ngục trần
gian đến với chúng tôi. Nhất là chị
với đứa con lai đã hứng chịu trăm
đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu,
khinh khi cũng như phân biệt đối xử của
người cai trị mới. Chị
tôi bị hành hạ, bị lăng
nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại
gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực
chất là tước đoạt hết nhân phẩm
con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng
cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn
răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn
nên người. Có một điều
làm tôi lạ lùng là tình yêu của
chị dành cho anh hơn hẳn những thường
tình. Chị luôn nhắc tới
anh với những lời yêu thương trang trọng,
với sự bùi ngùi thương tiếc của
một người góa phụ tưởng nhớ
thương chồng. Chị không
đòi hỏi gì ở anh cũng như đất
nước anh. Khi chương trình tái định
cư những người con lai bắt đầu,
tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm.
Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ
vì còn nặng lòng với mảnh đất
được sinh ra và đứa cháu tôi cũng
vui vẻ vâng theo lời mẹ. Tôi không giống và cũng không
chịu đựng được như chị.
Tôi chọn ra đi để đưa các con
tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh
đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm
cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt
sóng đươc bình an. Tôi đã chọn
tự do hay là chết và chân thành cầu
xin đó là một sự chọn
lựa
đúng đắn và may mắn nhất trong đời
...
Cứ mải suy nghĩ và đi theo
con đường hoa, tôi đến trước bức
tường đá đen tự bao giờ. Con
đường dần xuống thấp để những
dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ
chồng người Mỹ trắng đã già lắm,
run rẩy dắt tay nhau bước
lên bực thang. Mắt người
đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà vừa mới
khóc. Gặp nhau trên bực thang đầu
tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi
lớn:
- Ông bà từ đâu tới.
- Chúng tôi từ Ohio, còn cô.
- Thưa ông bà tôi từ Texas.
Người đàn ông râu
dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ
hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười
hỏi lại.
-Tôi muốn hỏi cô người nước
nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.
-Thưa ông tôi là người Việt Nam.
Bỗng nhiên tôi thấy
gương bặt người đàn bà dường
như đổi sắc.
Hình như một sự giận dữ bất
ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố
bước lên bậc thang ngắn tiến về
phía trước. Tôi ngạc
nhiên nhìn ông già chờ đợi một
lời giải thích về cử chỉ bất
thường của bà. Chắc
có một điều gì không ổn vì
tôi biết đa số người Mỹ thường
lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều
khó chịu trong lòng. Như
đoán được ý nghĩ của tôi
ông buồn rầu giải thích.
- Cô đừng buồn với thái độ
của vợ tôi. Bà ấy đang buồn
rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy
nhất ở Việt Nam,
nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ
tôi lại xúc động, không
ngăn được cảm xúc nên có những
cử chỉ bất thường.
Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống
chiếc ghế đá bên lối đi, đang run
rẩy cố chống hai tay lên
đùi, mắt vô hồn nhìn vào
quãng không gian phía trước. Nếu tôi
mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào
chắc gì tôi còn giữ được
bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt
rào niềm thương xót để nói với
ông rằng tôi thông cảm tâm tình của
những bà mẹ mất con cho một dân tộc
họ không hề mảy may biết tới. Trong lúc
xúc động tôi cũng nói với ông
là chính tôi và gia đình tôi
cũng
mất mát rất nhiều trong cuộc chiến chống
cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn
hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả
quê hương, tổ quốc. Ông già Mỹ
luôn luôn lặp đi lặp lại rằng
tôi biết, chúng tôi biết, rồi xin
phép tôi chạy đến săn sóc cho
bà đã ngồi xuồng ghế đá
cách đó không xa lắm. Ông nói lớn,
chào từ giã khi tôi đi lần xuống
phía dưới để dò tìm những
hàng chữ mang tên người anh rể ngoại
chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt
Nam.
Tôi biết vần W
sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng
mất một lúc lâu mới tìm thấy
cái tên Mikes Wright, tên người anh rể
tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của
bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn
giản trong một không gian bao la, nhưng thật
hào hùng độ lượng như cuộc
đời anh và đất nước đang cưu
mang chúng tôi đây. Tôi lặng chìm
trong những giấc mơ xưa về một gia
đình hạnh phúc
mà nhớ đến chồng tôi. Tên của
Mikes người ta còn nhớ chứ tên của chồng
tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả
miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi
an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp
mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang
quân đội Biên Hòa. Nhớ đến
giây phút vật vã khóc lóc nhìn
thi hài anh được gắn lon giữa hai
hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt
lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những
nguời lính bồng súng chào chồng
tôi lần cuối khi đưa chàng về với
đất mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng
yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn
tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên
tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ
tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ,
chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ,
nói cười vui vẻ như không cần biết
gì về những niềm đau. Ôi nhân thế
thường mau quên để sống, chỉ có
mình tôi hay đi ngược thời gian về những
dòng sông cũ.
Chúng tôi lại
rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không
gian gần đó. Một đoàn người vừa
đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường
rộn vui lên góc phố. Ở đây người
ta quen mắt với những cái lố lăng của
du khách từ khắp mọi miền trên thế
giới nên chẳng thấy phiền hà.
Đến trưa
lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ
chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một
điều là tôi thấy ông già có
nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ
vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại.
Chắc ông đã giải thích cho bà biết
rằng ai cũng có những nỗi buồn, những
mất mát khác nhau chứ không phải
riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài
hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết
sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại
xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang
Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng
hình dung được gì ngoài những con số
mà tôi đoán rằng đất đai chắc
là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết
chúng tôi còn ở đây thêm vài
ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi
chào từ giã theo dòng người thăm viếng.
Buổi sáng hôm
sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm
trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ.
Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ
theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi
tình cờ bước dần về phía bức
tường đá đen. Trời còn sớm
quá nhưng tôi thấy dưới chân bức
tường thấp thoáng bóng ngươi. Bước
tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra
ông bà già Mỹ hôm qua đang ở
đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống
đưa tay sờ lên những hàng tên như
vuốt ve một vật gì quý giá.
Gặp lại nhau
tôi lên tiếng:
- Chào ông
bà. Ông bà ra đây sớm quá.
Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ
trong khu này ..
Ông ôn tồn giải
thích:
- Chiều nay chúng
tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp
thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.
Bà vẫn không
nói, đưa tay sờ lên phiến đá.
Tôi chắc bà thương yêu người con
và đau đớn lắm khi nhìn lên
hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi
tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy
tay bà đang đặt trên hàng chữ của
vần W. Như có một linh tính báo trước
chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi
ông:
- Con trai của ông
bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở
Việt nam năm nào?
- Con trai tôi tên
là Mikes Wright, Tử trận ở Việt năm
năm 1972. Tên nó đây, ngay đây
này ...
Vừa nói ông vừa
chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất
cái tên mà trước đây tôi
đã đặt tay vào. Chính đó
là tên anh rể của tôi. Cha của đứa
cháu mồ côi mà chị tôi yêu
quý như báu vật của cuộc đời
mình. Tôi đứng lặng người nhìn
ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời
lại có sự tình cờ kỳ diệu đến
thế này. Để chắc chắn mình
không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết
rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
- Anh Mikes của ông
bà rất nhiều râu và vui tính lắm
phải không.
- Cô nói gì
tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy
Mikes còn trẻ lắm nên râu ria mọc
là thường.
Tôi nhìn lại
ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc
mà tôi chợt khám phá ra hôm qua,
là ông trông rất giống Mike ở cái cằm
vuông vức và bộ râu rậm dài.
Ông già bùi ngùi nói tiếp.
- Vợ tôi buồn một
điều là đáng lẽ ra Mikes đã hết
hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ
nhưng vì yêu thương một người con
gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ
thêm một thời hạn nữa và cái thời
hạn đó không bao giờ chấm dứt ...
- Thế ông bà
có biết tin tức gì về người con
gái ấy không.
- Mikes có gởi cho
chúng tôi một tấm hình, thông báo
là đã thành hôn. Lâu quá rồi
nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy
trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ
có thế mà thôi.
Tôi muốn nói với
ông chính tôi là em người con gái
Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm,
vì biết đâu có một anh Mike nào
khác nữa nên chỉ nói với ông:
- Hơn ba mươi
năm trước đây tôi cũng có một
người anh rể tên là Mike Wright, quê
quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết
thế không biết có phải là anh Mikes con của
ông bà không. Tôi từ Texas lên
đây chơi nhưng chính là để
nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần
trên tấm bia đá này.
Ông mở mắt
nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên,
nói với bà tin tức quan trọng đó.
Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm
ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra
thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập
hỏi.
- Tôi chắc là
đúng rồi. Đấy cô coi có cái
tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị
cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi
thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối
cùng.
- Thưa ông bà,
chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng
chị tôi cũng chẳng biết gì hơn
ông bà. Như chính tôi đây chẳng
biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng
tôi và Mikes. Đầu tiên người ta chỉ
thông báo cho chúng tôi là hai người
đã mất tích sau một đợt tấn
công của địch và cả tuần lễ sau
mới tìm thấy xác mang về.
- Thế thì
đúng như cô nói, chắc đúng
là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận
xác Mikes thì đã không mở ra được
nữa vì những điều kiện vệ sinh.
- Nhưng tôi có
một tin quan trọng về anh Mikes, không biết
ông bà có muốn nghe không ?
- Tin gì vậy,
thưa cô. Chúng tôi không còn gì
trên đời này ngoài hình ảnh của
Mikes và những gì liên quan đến đứa
con yêu thương của chúng tôi.
- Chị tôi có một
người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng
không biết vì lúc vừa mới có thai,
chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng
tôi đã không về nữa.
Ông bà liên tục
kêu lên những lời thống thiết, không
rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
- Chúa ơi, thật
thế sao ! Chúa ơi ! Chúa ơi!
- Thật thế thưa
ông bà. Cháu giống Mikes lắm. Nếu
ông bà thấy cháu là nhận ra ngay
thôi.
- Thế bây giờ
cháu ở đâu thưa cô.
- Cháu vẫn
còn ở Việt nam. Vì thương mẹ
nên cháu không về Mỹ theo chính
sách trở về quê cha của những đứa
con lai.
Tôi và ông
bà Wright cùng bước đi như trong cơn
mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi
cho ông bà địa chỉ, số điện thoại
của tôi và nhận lại địa chỉ số
điện thoại của ông bà ở Ohio để
tiện bề liên lạc. Những thông tin ban
đầu mặc dù đã chính xác,
nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh
ngày xưa có phải là của chị
tôi hay không.
Chiều hôm
đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi
đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một
đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi
nhưng ông bà sẽ được nhận lại
một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa
con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt
Nam. Tôi biết chị tôi là một người
đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi
đã đoán không sai vì ba hôm sau khi
tôi còn ở khách sạn thì tiếng
điện thoại lại reo. Lần này ông
bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia
đình đứa con gái gồm con rể và
hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe
van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.
Gặp nhau tại
công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh
và giải thích:
- Vội quá nên
chúng tôi không book được vé
máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes
và chồng con nó ở gần đó cũng
muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách
đây hơn ba mươi năm giờ đã ố
vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn
còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh
như đưa tay chạm vào một phần
quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người
con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên
người chồng râu tia xồm xoàm, đang
đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy
người con gái như ôm ấp chính cuộc
đời cô.
- Đúng là chị
tôi rồi ....
Ông bà Wright mừng
vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn
lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến.
Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng
vui hớn hở. Bà hỏi tôi những chuyến
bay về Việt Nam với những dự định
đi thăm viếng đứa cháu, con của
người con tưởng như đã mất, bỗng
dưng còn để lại trong cuộc đời
này cả một phần huyết nhục. Tôi
thưa với ông bà rằng tôi đã
nói chuyện với chị tôi qua điện thoại.
Chị cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ
này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê
nội cũng như chính chị sẵn sàng về
làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông
bà trong lúc tuổi già đúng như truyền
thống của người Việt nam. Tôi đã
biết tình yêu của chị dành cho Mikes
nên không ngạc nhiên với quyết định
này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải
thích phong tục Việt Nam là người vợ
phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng.
Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi
câu nói làm tôi có cảm tưởng
như đang kể cho ông bà nghe về chuyện
phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối
với ông bà, đất trời là cả một
mùa xuân.
Sau đó một thời
gian dài, tôi lại bận bịu vì phải
lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt
Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng.
Tôi không giấu được xúc động
khi nhìn thấy ông bà lần đầu
tiên gặp lại đứa cháu nội sau
hơn ba mươi năm thương nhớ người
con đã khuất. Ông bà cứ kêu
lên những lời vui mừng vang một góc
sân và làm ngạc nhiên những người
hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự
tò mò.
-Oh my God ! He just looks like his father ! Oh my God !
Bây giờ chị tôi, một người con
gái Việt nam về làm dâu muộn màng
trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp
ở Ohio với đứa con duy
nhất của một cuộc tình nở vội trong
cuộc chiến Việt Nam.
LƯU HỒNG PHÚC
(Lưu Linh Giang Tử sưu tầm
và chuyển)