Chữ trinh còn một
chút này !
(Nguyễn Thanh Ty)
Theo Từ điển văn học (bộ mới,
NXB Thế Giới 2004): Cung Giũ Nguyên là một nhà giáo dục,
nhà báo, nhà văn Việt Nam. Ngoài ra ông
còn có tên trong danh sách các nhà
văn thế giới viết văn bằng tiếng
Pháp. Tác phẩm của ông đã
được các nhà xuất bản ở
Pháp, Đức, Canada,
Hoa Kỳ và Việt Nam phát hành. Trong
đó có những tác phẩm được
chú ý nhiều như, về tiếng Việt: Một
người vô dụng, Nhân tình thế
thái, Nợ văn chương, Những ngày
phiêu bạt, Nửa gánh tang bồng, Một chuyến
về…
Về tiếng Pháp, những tác phẩm nổi
tiếng được thế giới biết đến
nhiều vào những năm 1950-1960 như: Le fils de la
Balaine, Le Domaune Maudit, tiểu luận Volontés
d’existence, Le Boujoum, tập thơ Texte Profane …
(Trích Phan song Ngân)
“Trăm năm trong cõi người
ta…”
Thầy Cung Giũ Nguyên đã đi trọn
đoạn đường trăm năm của
“cõi người ta” vào ngày mùng
7 tháng 11 năm 2008, lúc 3giờ15 sáng, tại
nhà riêng, số 60 đường Hoàng văn
Thụ Nha Trang Khánh Hòa, một cách thanh thản,
nhẹ nhàng.
Thầy sinh ngày 28 tháng 4 năm 1909 tại
Minh Hương, Thừa Thiên, Huế. Sau khi “nợ
tang bồng trăng trắng vỗ tay reo” Thầy
đã bách niên viên mãn tuổi trời
ban. Thầy đã rũ sạch bụi
trần ai để về nơi “Nước Nhược”
sau khi lưu lại cho hậu thế, nhất là
đám môn sinh của Thầy, một gia tài
văn học quí hiếm và nhiều lưu luyến
tiếc thương. Về tài năng
và sự cống hiến của Thầy đối với
xã hội, sách vở trong nước lẫn
ngoài nước trên thế giới, người
ta đã ca ngợi Thầy quá nhiều rồi.
Tôi chỉ là một học trò nhỏ
của Thầy từ niên khóa 1955-1956, trường
tư thục Tương
Lai, lớp Đệ Thất, học Pháp văn chỉ
có một năm với Thầy, chia vẹc bờ
“être” chưa sạch nước cản. Qua năm sau, học Thầy Nguyễn Bá Mậu.
Tới năm Đệ Tam, vào trường Võ
Tánh, học Thầy Bửu Cân. Cho nên hôm
nay, tưởng nhớ đến Thầy, tôi chỉ
có vài mẩu kỷ niệm nho nhỏ mà
tôi vẫn ghi nhớ trong lòng mãi không
quên, xin kể lại đây như một nén
tâm hương thắp lên để tiễn
đưa Thầy đến nơi an nghỉ vĩnh hằng.
Hôm đó đang giữa giờ học,
nhân viên văn phòng mang đến cho Thầy
một bưu kiện. Thầy mở ra xem. Đó
là những tờ quảng cáo cho cuốn
sách của Thầy vừa mới in xong tại
Pháp. Tờ quảng cáo in nhiều màu sắc
rất đẹp trên giấy láng.
Bọn nhóc chúng tôi thấy đẹp
nhao nhao lên xin. Thầy vừa cười vừa
phát cho mỗi đứa một tờ với lời
dặn dò:
- Giấy dầy lắm đó ! Các con
không dùng được đâu!
Chúng tôi không hiểu ý
Thầy nói. Mặc
dù chúng tôi không đọc được
những gì in trên đó, nhưng tờ giấy
láng có nhiều màu sắc xanh đỏ rất
đẹp vẫn được chúng tôi trân
trọng mang về nhà dán trên vách,
trước bàn học để dành khoe với
mấy đứa bạn học trong xóm, khác
trường, một cách hãnh diện:
- Tờ quảng cáo sách của Thầy tao,
Thầy Cung Giũ Nguyên viết truyện bằng tiếng
Tây, in tận bên Tây đó mầy !
Người ta học tiếng Tây bỏ vào
bụng, còn tôi học tiếng Tây lại bỏ
vào “vò”. Cho nên câu vè dân
gian của xóm tôi thường dùng để
chế diễu mấy anh học trò dốt như
tôi, rất thấm thía:
“Tiếng Tây anh bỏ trong
vò,
Đến khi Tây hỏi lại
mò không ra !”
Chính cái lúc gặp Tây ngoài
đường hỏi chuyện, miệng cứ lúng
ba lúng búng, nói chữ được chữ
mất, cứ như đang ngậm hột thị,
thì tôi mới hiểu ra những lời giảng
dạy và câu nói của Thầy năm
xưa, lúc học vỡ lòng tiếng Tây.
Và cũng hiểu được thêm rằng
“être” không chỉ có nghĩa
“thì là mà” mà còn nhiều
nghĩa thâm sâu, triết lý của cuộc
đời như “hiện hữu” của Sartre,
như “bản ngã” của giáo lý
nhà Phật … mà lúc ấy chúng
tôi chỉ nghe như vịt nghe sấm.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một cuộc
đổi đời, một nền văn hóa mới,
“văn hóa xã hội chủ nghĩa”
được áp đặt lên miền Nam, tất
cả những giáo chức ở Nha Trang (và
có lẽ khắp miền Nam !) được lệnh
cơm bầu, nước giỏ đến trường
Tiểu Học Tân Phước để học tập
ba ngày về đường lối chủ
trương của “Nhà nước cách mạng”.
Số giáo chức Nha Trang chạy
vào Sài Gòn khá nhiều. Số
còn lại chỉ chừng hơn vài trăm, ngồi
im phăng phắc để nghe cán bộ giáo dục
thuyết giảng về “sự ưu việt” của
“văn hóa xã hội chủ nghĩa”.
Mấy cán bộ ngồi trên bàn chủ
tọa, súng lục xề xệ bên hông,
phía sau lưng có ba anh “thầy giáo ngụy”
đang lăng xăng hầu trà pha nước.
Không biết họ moi ở đâu ra mấy
cuốn “Đồi thông hai mộ”, “Minh
tâm Bửu giám”…cứ nhá lên,
nhá xuống, vừa cười nham nhở vừa
phê phán:
- Đấy ! Cái thứ
văn hóa đồi trụy của Mỹ Ngụy
như thế đấy !
Một trong ba cán bộ cộng sản ngồi
bên trên có ông Cung Giũ Phú, ở
ngoài Bắc mới vô, đang nắm giữ chức
Giám đốc Khu Triển lãm 2/4 tại Nha Trang,
em ruột của Thầy Cung Giũ Nguyên. Phía dưới đám “ngụy
giáo”, Thầy Cung Giũ Nguyên ngồi
hàng đầu. Suốt ba ngày, Thầy vẫn
ung dung tự tại, thái độ điềm
nhiên, ngồi yên lặng, miệng vẫn ngậm
pipe, lơ đảng nghe lời giáo huấn của kẻ
thắng trận.
Tôi ngồi sau lưng Thầy, lòng cứ bồn
chồn, tâm trạng vừa ngao ngán vừa thắc
thỏm không yên. Ngao ngán cho sự
đời, kẻ vô học được thời nhảy
bàn độc thì ít, mà cho ba anh
“giáo ngụy” điếu đóm sau
lưng thì nhiều.
Kết thúc ba ngày “cải tạo tư
tưởng”, làm bản “thu hoạch”
để tổng kết thành tích học tập,
“Ban Giảng huấn” mời Thầy Cung Giũ
Nguyên đại diện cho học viên khóa học,
lên phát biểu ý kiến. Tôi tự hỏi
không biết Thầy mình sẽ nói cái
gì bây giờ ? Nói theo chăng ? - Không được
! Nói nghịch lại để phản ứng chăng ? - Lại càng khó. Sẽ
“có vấn đề” ngay !
Trong lúc tôi đang lúng túng tìm
cách để tự trả lời thì Thầy
ung dung đứng dậy tại chỗ, chứ không
bước lên phía trên, và vẫn cứ
bằng một giọng cố hữu, vừa trầm vừa
chậm rãi, Thầy thong thả nói rõ từng
tiếng:
- Trong ba ngày nay các ông đã
nói quá nhiều rồi, quá đủ rồi,
chúng tôi đâu còn có gì để
nói nữa !
Nói xong, Thầy ngồi xuống
và tiếp tục ngậm ống tẩu, thở
khói. Tự dưng
tôi nghe hả hê trong dạ và chợt nhớ
đến lời của Thầy Nguyễn Duy Nhường
dạy Việt văn: “ Nghề dạy
học có ba điều đáng hãnh diện.
Đó là “Bần hàn bất năng
di, phú quí bất năng dâm, uy vũ bất
năng khuất.” Thầy
Cung Giũ Nguyên của tôi đang thể hiện
điều thứ ba một cách tự nhiên
như ông đang hút ống vố.
Cách đây mấy năm, tôi nhận
được một tape Video do Trung tâm CGN gửi tặng.
Tôi không còn nhớ rõ là cuốn
băng thu hình về buổi lễ trao học bổng
cho học sinh, sinh viên nghèo ở Nha Trang-Khánh
Hòa hay là buổi họp mặt đầu
xuân của toàn thể Thầy, Cô giáo
còn lại quê nhà. Tôi ngồi coi cuốn
băng mà lòng cứ ngậm ngùi khi thấy
lại hình ảnh của những người Thầy
thân thương của mình giờ đây sao mà .. mặc dù
các Thầy Cô vẫn cười nói, vẫn
vui vẻ ..
Có Thầy vẫn còn tráng
kiện lắm, bước đi vẫn còn mạnh mẽ,
lưng vẫn còn thẳng dù tuổi đời
ai cũng đã quá bảy mươi. Hình ảnh cứ lần lượt
chạy qua, sao trong thâm tâm tôi vẫn không
thể nào quên được hình ảnh Từ
Hải của Cụ Nguyễn Du:
“Bó thân về với triều
đình,
Hàng thần lơ
láo phận mình ra chi.”
Nhưng đến đoạn Thầy Cung Giũ
Nguyên được mời lên phát biểu,
tôi đưa tay bấm âm lượng
lớn hơn lên và chú ý lắng nghe.
Lâu lắm, kể từ ngày ấy, cái
ngày mà “trời đất nổi cơn
gió bụi”, tôi đã không có dịp
nào gặp được Thầy nữa để
nhìn lại cái cười nửa miệng của
Thầy, nghe lại giọng nói “thâm trầm”
của Thầy mà theo nhiều bậc trưởng
thượng trong làng “nhà giáo” kể
lại là “đêm nằm nghĩ lại
nát bầm lá gan”. Kể ra cũng
đã ba mươi ba năm. Một
phần ba đời người.
Tôi nhìn miệng Thầy nói, vẫn
cái cười nửa miệng, vẫn cái giọng
trầm trầm, nhưng đôi mắt hình như
đã lờ đục sau đôi kính trắng.
Thầy nói rất ngắn, gọn:
- Hôm nay, trước các Thầy giáo,
Cô giáo tôi xin nói về chữ trinh của
nàng Kiều.
Bên dưới, tiếng các Thầy,
Cô giáo cười rộ lên vui vẻ. Thầy lặng đi một chút
cho tiếng cười lắng xuống rồi tiếp tục:
- Nàng Kiều sau mười lăm năm lưu
lạc một kiếp phong trần, khi cả nhà
được đoàn viên, Kim Trong xin nối lại
tơ duyên, Kiều đã than rằng: “Chữ trinh còn một
chút này !” . Các Thầy,
Cô giáo có biết chữ trinh này nghĩa
là gì không ?
Nghe đến đây, bỗng dưng nước
mắt tôi trào ra, không kịp ngăn lạị
Một nỗi xúc động mãnh liệt vỡ
òa trong tôi giống như dòng thác ngầm
âm ỷ bấy lâu nay giờ bỗng được
khơi nguồn. Dòng nước mạnh
mẽ chảy tràn trề lênh láng trong đối
mắt tôi. Hình ảnh của Thầy Nguyên
nhập nhòa trước màn ảnh ti vi không rõ nét. Tôi cứ
để mặc cho nước mắt tôi tự do
tuôn chảy. Tôi khóc to thành
tiếng một cách ngọt ngào. Lâu lắm
rồi tôi không khóc được. Nước mắt tôi đã khô cạn
từ lâu.
Cám ơn Thầy Cung Giũ Nguyên. Cám
ơn Thầy đã điểm đúng tâm
huyệt của con. Cám ơn Thầy đã
giúp con có thể khóc, có thể cười
trở lại để còn đủ nghị lực
đối diện với cuộc đời đầy
nghiệt ngã, đau thương.
- Vâng, Thưa Thầy, con hiểu. Con nguyện theo lời Thầy mà mãi mãi giữ
gìn tấm lòng trinh này.
Hôm nay Thầy đã giã từ cõi
tạm, “cõi người ta”, nơi Thầy
đã đến, để trở về lại
quê hương vĩnh hằng. Con xin dâng nén
tâm hương và mượn mấy lời
thơ của B/s Tâm Minh
Lê đình Thám
để tiễn đưa Thầy lên đường:
“ Trăm năm trước thì ta chưa
có
Trăm năm sau có lại hoàn
không
Cuộc đời sắc sắc
không không
Trăm
năm còn lại tấm lòng từ bi.”
Nguyễn Thanh Ty
Boston 10/11/2008
(Bai Chuyen)