PHẤT PHƠ HAI
DẢI YẾM ĐÀO ...
(ĐÀO ĐỨC NHUẬN)
Trước khi dùng
xú-chiêng như người phụ nữ
Tây Phương, người phụ nữ
Việt Nam đã biết dùng cái
yếm để che kín bộ nhũ hoa. Nói như thế không
có nghĩa là cái yếm chỉ có
công dụng như cái xú-chiêng của
người Tây Phương mà thực
sự công dụng của nó còn
rộng rãi hơn nhiều. Trong lúc cái
xú-chiêng chỉ dùng để che kín
và nâng đỡ bộ nhũ hoa thì
cái yếm của người phụ
nữ Việt Nam đôi khi còn có
thể dùng thay thế cho cái áo
cụt "ra
đường đi đâu gần
gần mà chỉ bận yếm thì
cũng chẳng ai rầy" (1) hoặc, hơn thế
nữa, “mùa
nóng nực những người làm
việc khó nhọc chỉ mặc yếm
che ngực, đủ kín đáo, không
mặc áo”. (2)
Về hình thức, cái yếm
của người phụ nữ Việt Nam
trông thật đơn giản. Có lẽ,
tùy theo sở thích cá nhân hay truyền
thống địa phương mà hình
thức của cái yếm có thể
khác nhau đôi chút.
Theo Lê Văn Đức và Lê Ngọc
Trụ trong Tự Điển Việt Nam (q.I,
trang 669) chiếc yếm được
định nghĩa như sau: “Yếm: Miếng vải hình tam
giác dùng che ngực : Cô
kia mặc yếm hoa tằm, Chồng
cô đi lính cô nằm với ai. CD”. Theo
Trần Ỷ trong bài “Quê Rích Quê
Rang”, chiếc yếm được
mô tả “là
một tấm vải đen hay màu
hồng, gần như hình tam giác, có
dải cột choàng ra sau cổ và sau
eo”.(3)
Theo Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong
Đất Lề Quê Thói, “Yếm mặc
để che kín ngực là mảnh vải
vuông, một góc may cổ xẻ,
cổ thìa, hay cổ xây, có dải
bọc treo lên cổ, hai góc đối
nhau vắt sang hai bên sườn may dải
rộng quấn vòng sau lưng ra đàng
trước bụng, thường quấn
chặt không để cho vú ngóc
lên phô trương đường cong nét
gợi, không để cho rung rinh, dún
dẩy, vươn ra quá cỡ.” (4)
Theo Anh Thy trong bài Nghìn Năm Dải
Yếm Bắc Cầu, “Cái yếm đó
có cấu tạo khá đơn giản.
Một mảnh vải hình thoi khoét tròn
một đầu, được gắn
dải lụa để buộc lại sau
cổ và lưng”.
Hai ông Lê Văn Đức và Lê
Ngọc Trụ là người Nam, ông
Trần Ỷ người miền Trung,
ông Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu và
ông Anh Thy là người Bắc. Như
vậy, có lẽ cái yếm của
người miền Trung và người
miền Nam có hình dáng gần
giống như hình tam giác khoét cổ
ở đỉnh. ; trong lúc
đó cái yếm cuả người
phụ nữ miền Bắc lại có
hình dáng gần giống như hình
vuông hay hình thoi và cổ yếm
được khoét ở một góc.
Như ông Trần Ỷ đã nói
trong bài vừa dẫn, “Yếm vừa che
ngực vừa là món trang sức
của các cô đang độ xuân
thì, nhờ màu sắc, nhất là
cái cổ yếm là một công
trình tuyệt xảo của các cô gái
khéo tay : đường
viền chạy chân rết, luồn
được vào trong là cả một
công phu.”(5) :
Nhác trông cái yếm
cũng xinh
Khen ai khéo dệt ra hình hoa
mai
Khen người khâu yếm
cũng tài
Cổ thêu con nhạn có hai
đường viền
Cổ thì em ngả màu
hiên
Thắt lưng mùi huyền,
dải yếm cũng xinh
Khen ai khâu yếm cho mình
Đường lên
đường xuống ra hình lưng ong
Yếm này em ngả màu
hồng
Yếm này nhuộm
mất mấy công hỡi nàng ?
Khi xưa lụa hãy còn vàng
Khen ai khéo nhuộm cho nàng,
nàng ơi !
Về các loại vải may yếm
còn tùy chủ nhân của chiếc
yếm (giàu nghèo, già trẻ), tùy theo
môi trường sử dụng yếm.
Yếm mặc ở nhà hay khi đi lao
động được may bằng vải
ta hay vải trúc bâu. Vào những ngày
hội hè đình đám người
ta thường mặc yếm màu, con
nhà khá giả mặc yếm vóc,
yếm nhiễu là những loại
vải quý đắt tiền:
Hỡi cô yếm
thắm lòa lòa
Yếm nhiễu, yếm
vóc hay là trúc bâu ?
Hay là lụa bạch bên Tàủ
Người cắt cũng
khéo, người khâu cũng tài ...
Về màu sắc, còn tùy theo
sở thích cá nhân hay còn tùy theo
môi trường sinh hoạt. Thông
thường người ta thường
mặc yếm trắng hay yếm nâu
trong nhũng lúc ở nhà hay làm
việc ngoài đồng áng. Những
người đứng tuổi vẫn
dùng hai màu này là chính dù ở
trong bất kỳ môi trường sinh hoạt
nào. Khi tham dự các cuộc hội
hè đình đám, phần lớn
phụ nữ trẻ tuổi thích mặc
yếm màu.
Cô kia yếm
trắng lòa lòa
Lại đây đập
đất trồng cà với anh ...
Ngoài chiếc yếm trắng hay
yếm nâu thường may bằng loại
vải ta mặc ở nhà hay trong những
lúc lao động, những chiếc
yếm màu cũng được may
bằng các loại vải kể trên
nhưng cũng có khi được may
bằng những loại vải đắt
tiền hơn và thường
được dùng trong các dịp Tết
nhất, giỗ chạp hay trong các
cuộc hội hè đình đám:
* Con cò lặn lội
bờ ao
Phất phơ hai dải
yếm đào gió bay
* Hỡi cô áo trắng
yếm hồng
Đi trong đám hội, có
chồng hay chưa ?
* Hỡi cô yếm
thắm răng đen
Muốn lên mạn
ngược ngồi thuyền cùng anh !
* Chùa này chẳng có
Bụt ru
Mà đem chuông khánh treo
chùa hồ sen ?
Thấy cô yếm
đỏ, răng đen
Nam mô di Phật lại quên
mất chùa !
Cái yếm làm tăng độ
duyên dáng của người phụ nữ
nên cái yếm cũng có thể
là một trong những điều
kiện tạo nên nét đẹp, nét
duyên dáng của người phụ nữ
để người con trai lựa chọn
ý trung nhân:
Một thương tóc bỏ
đuôi gà
Hai thương ăn
nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm
đồng tiền
Bốn thương răng lánh
hạt huyền kém thua
Năm thương cổ
yếm đeo bùa …
Tuy hình thức của cái yếm
trông có vẻ đơn giản, nhưng vì
công dụng của nó mà nó hóa ra
quyến rũ khác thường. Mê
cái yếm chính là mê con
người mặc yếm. Hơn thế
nữa, có những cách mặc
yếm nó làm cho người nhìn
cũng phải ngất ngây vì sự
kín đáo nửa vời của nó. Theo
tác giả Anh Thy, “Người
phụ nữ khi làm lụng, nhất là
trong bóng râm, dù là vào thời
kỳ Hùng Vương hay đầu thế
kỷ XX, vẫn thường mặc
váy-yếm với hai tay và lưng
để trần. Trời nắng thì
thêm cái áo ngắn có xẻ tà hai
bên hông gọi là áo cánh. Áo có
đính cúc nhưng khi mặc thường
không cài, vừa để cho mát,
vừa để hở cái yếm
làm duyên.”
Mà ngay cái yếm cũng chỉ
để che kín phần ngực,
phần lưng vẫn để
trống và đôi khi cái yếm
còn được cắt hẹp lại
để hở hai bên sườn
trông thật hấp dẫn. Câu ca dao
dưới đây chắc đã
được sáng tác trong khoảng
thời gian người đàn ông
Việt Nam còn đóng khố khi làm
việc ngoài đồng áng:
Đàn ông đóng
khố đuôi lươn
Đàn bà mặc yếm
hở lườn mới xinh !
Vào cái thuở thật xa xưa
đó, cái thuở chưa có cái xú
chiêng ngự trị trên cặp nhũ hoa
của người phụ nữ Việt Nam
mà chỉ có cái yếm trắng,
yếm đào . . . đã có biết
bao nhiêu chàng trai chết mê chết
mệt vì những cái yếm
đó nhỉ ? Ngay cả
những anh đồ, tức những
ông thầy dạy chữ nho ngày xưa
cũng phải lụy vì cái yếm của
những cô nàng thôn nữ
:
Yếm thắm mà
nhuộm hoa nương
Cái răng hạt đỗ
làm tương anh đồ !
Yếm thắm mà vã
nước hồ
Vã đi vã lại anh
đồ yêu đương !
Cái yếm đã đẹp
và gợi tình thì cái dải
yếm nào có kém gì. Hình ảnh của đôi
dải yếm phất phơ trong gió sao
mà quyến rũ, sao mà đa tình
đến thế:
Con cò lặn lội
bờ ao
Phất phơ hai dải
yếm đào gió bay !
Con cò ở đây là hình ảnh
tảo tần của người phụ
nữ Việt Nam.
Ngoài cái công dụng buộc
miếng vải yếm vào phần
ngực của người phụ nữ,
có người còn dùng dải yếm
để buộc cái túi vải nho
nhỏ đựng dăm bảy khẩu trầu
hay đựng mấy đồng tiền
để dành:
Trầu em
têm tối hôm qua
Cất trong
dải yếm mở ra mời chàng !
Hay:
Trầu
đã có đây, cau đã có
đây,
Nhân duyên
chưa định trầu này ai ăn
Trầu
này, trầu túi trầu khăn
Cùng
trầu dải yếm anh ăn trầu
nào ?
Hay:
Tiền
buộc dải yếm bo bo
Trao cho thầy
bói đâm lo vào mình !
Thông
thường, người phụ nữ
tự chọn vải, chọn màu rồi
tự cắt may lấy cái yếm
để dùng. Thế nhưng, đôi khi
chiếc yếm cũng được
sản xuất hàng loạt để đem
bày bán. Và từ đây, chiếc
yếm đã là một tặng phẩm
hết sức thân tình để
trở thành những kỷ vật
rất được trân trọng của
người phụ nữ.
Có thể
các bậc phụ huynh chọn một
chiếc yếm có giá để
làm quà cho cô con gái trước ngày
vu quy:
Con lạy cha hai
lạy một quỳ
Lạy mẹ
bốn lạy con đi lấy chồng
Mẹ sắm
cho con cái yếm nhất phẩm
hồng
Thắt lưng
đũi tím, bộ nhẫn đồng
con đeo tay
Có thể là
một chàng trai mua một chiếc
yếm để tặng người
yêu:
Anh mua cho em cái
yếm hoa chanh
Ra
đường bạn hỏi, nói của anh cho
nàng !
Có một
chàng trai khen một cô gái mặc
chiếc yếm thắm bé bé xinh xinh.
Chàng khen “người cắt cũng khéo,
người khâu cũng tài”.
“Người” ở đây chưa
xác định là ai. Thế nhưng, ngay
mấy câu tiếp chàng lại xác
định chính chàng đã thêu nhạn,
thêu hoa trên chiếc yếm:
Hỡi cô
yếm thắm lòa lòa
Yếm
nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu
?
Hay là lụa
bạch bên Tàu ?
Người
cắt cũng khéo, người khâu
cũng tài !
Một
đàng anh thêu nên nhạn
Hai đàng anh
mạng nên hoa
Yếm
ấy anh để trong nhà
Khen ai mở
khóa đem ra cho nàng !
“Khen” thì ai
khen ? Và “ai” ở đây là ai ?
“Yếm ấy anh để trong
nhà” và chắc là “anh”
đã cất kỹ lắm, có thể
là trong rương và chìa khóa “anh”
giữ. Vậy thì “ai” có
thể “mở khóa đem ra cho
nàng” ? Còn ai trồng khoai đất
này nữa chứ ? Chính chàng đã
tự khen mình tạo nên chiếc
yếm xinh đẹp và chàng đã
tự tay mang ra tặng cho nàng. Và chàng
lại tự khen cái hành động
tỏ tình tha thiết của mình. Khéo
thật !
Và cũng từ
cái việc tặng yếm này,
chúng ta còn bắt gặp một
bài ca dao thật ngộ. Bài ca dao như thế
này:
- Hoa cúc vàng
nở ra hoa cúc tím
Em có
chồng rồi, em trả yếm cho anh !
- Hoa cúc
vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm em em
mặc, yếm gì anh anh đòi !
Đây là
một khúc ca đối đáp giữa
một người nam và một
người nữ. Chúng ta thử minh
xác xem đây là một cuộc
trả yếm hay là một cuộc
đòi yếm.Vì đây là một
khúc ca được thể hiện trong
một buổi hát đối đáp
nào đó nên nội dung đích
thực của nó chỉ là một giả
thiết. Tuy nhiên, dù chỉ là một
giả thiết thì giả thiết đó
cũng phải phản ảnh được tâm
tình chung của quần chúng thì
mới được quần chúng lưu
truyền cho tới ngày nay.
Chúng ta sẽ
không bàn đến câu 1 và câu 3,
vì 2 câu này chỉ là câu đưa
đẩy thuộc thể phú trong nghệ
thuật cấu tạo một bài ca dao.
Quả thực nó không liên quan gì
đến câu 2 và câu 4, và vì
vậy, dù hoa cúc vàng có nở ra
bất kỳ loại hoa gì gì đi
nữa thì nó cũng không làm thay
đổi ý nghĩa đích thực
của câu 2 và câu 4.
Có 2 giả thiết:
Giả thiết 1:
Nếu cô gái hát trước thì
đây là trường hợp xin trả
yếm. Ta có thể nói xuôi ý
câu này như sau: Đây là chiếc
yếm anh tặng em khi chúng mình yêu
nhau, nhưng nay vì duyên nợ không
thành, bây giờ em đã có
chồng, nên em xin trả chiếc yếm
này cho anh . Và chàng trai đã trả
lời một cách dịu dàng: Quả
là anh có tặng em chiếc yếm
đó, thế nhưng bây giờ em
đã mặc nó và vì vậy
bây giờ nó là của em. Nó
đâu còn là của anh nữa mà
bảo anh đòi !
Giả thiết 2:
Nếu người con trai hát trước
thì đây lại là đòi yếm.
Lời người con trai thật cương
quyết: Ngày trước tôi có cho
cô một cái yếm. Nay cô đã
có chồng cô phải trả lại cái
yếm đó cho tôi. Cô gái
đốp chát lại một cách đanh
đá: Này, tôi bảo cho mà biết,
yếm tôi đang mặc thì nó
phải là yếm của tôi chứ
yếm gì của anh mà anh lại đòi !
Vô duyên !
Xét về
phương diện tâm lý, đã có
can đảm đòi lại cái yếm mà
mình đã cho người mình yêu,
dù rằng người yêu của mình
đã ôm cầm sang thuyền khác,
thì đó là một hành vi không còn
tình nghĩa. Đã không còn tình
nghĩa thì giọng điệu phải gay
gắt. Giọng điệu của chàng trai
đã gay gắt thì giọng điệu
của cô gái cũng phải chua ngoa cho
tương xứng. Cứ xét theo giọng
điệu thì giọng điệu của
câu 2 không thể là giọng
điệu của một người
“đòi nợ” và giọng
điệu của câu 4 không thể
là giọng điệu của một
người “bị đòi nợ”.
Chữ “em” và chữ “anh” trong
câu 2 và trong câu 4 nghe hiền lành,
tràn trề tình cảm. Thử là
giả thiết 2, bài ca dao phải
được chuyển cách xưng hô
như sau:
- Hoa cúc
vàng nở ra hoa cúc tím
Cô có
chồng rồi cô trả yếm cho
tôi
- Hoa cúc
vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm tôi
tôi mặc, yếm gì anh anh đòi !
chứ không
thể là cách xưng hô “anh-em”
“em-anh” tình tứ như thế
được. Vả lại, anh con trai nào lại
chẳng nhớ nằm lòng câu ca dao
này:
Bắc thang
lên hỏi ông trời
Của chàng cho
thiếp liệu đòi được
chăng ?
Bắc thang
lên hỏi ông trăng
Của chàng cho
thiếp nói năng thế nào ?
Cái yếm
nó cũng quái ác lắm. Những
cô gái mặc những chiếc
yếm đào, yếm hồng,
yếm thắm, yếm đỏ . . .
đã làm cho bao chàng trai chết mê
chết mệt như ăn phải bùa mê
thuốc lú, không còn biết
trời trăng mây nước gì
nữa:
Chùa này
chẳng có Bụt ru
Mà đem
chuông khánh treo chùa hồ sen
Thấy cô
yếm đỏ, răng đen
Nam mô di
Phật lại quên mất chùa !
Mà đâu có
phải chỉ làm say mê những chàng trai
dân dã, những anh đồ nhá
chữ thánh hiền, ngay những bậc
tu hành mà lòng trần chưa dứt
đôi khi cũng bị mấy cô yếm
thắm, yếm đào đưa vào
mê lộ:
Ba cô
đội gạo lên chùa
Một cô
yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về
sư ốm tương tư ...
Cái yếm
là vật thiết thân của đàn
bà con gái, thì cái yếm cũng là
vật thân thiết của giới
đàn ông con trai. Gặp cô gái
không cần biết tên họ là
gì, cứ theo màu yếm cô nàng
đang mặc mà gọi, cô nàng cũng
biết là chàng trai đang gọi ai
rồi. Thiệt là kín đáo mà
tình tứ biết bao !
Gặp một
cô mặc yếm trắng, thế
là anh chàng có cớ để chòng
ghẹo :
Hỡi cô
yếm trắng lòa lòa
Sao cô không bảo
mẹ già nhuộm thâm ?
Ước
gì anh được ở gần
Để anh
nhuộm hộ thấm nhuần công
anh !
Sao mà tình
tứ quá vậy ! Sao mà hiền
lành quá vậy ! Chỉ xin được
ở gần để nhuộm hộ
cái yếm lấy công thôi ! Sao anh
chàng này lại khôn thế nhỉ ?
Thế nhưng, theo Nhất Thanh Vũ Văn
Khiếu trong Đất Lề Quê
Thói, thì “thực ra, không ai mặc
yếm nhuộm thâm, nhưng chàng trai
đã mánh lới nói trái vậy
để chòng ghẹo, và để
cô gái dễ có cớ trả
lời.”
Cũng lại cái
“yếm trắng lòa lòa”,
lần này cũng lại bị chọc quê :
Cô kia
yếm trắng lòa lòa
Lại đây
đập đất trồng cà
với anh
Bao giờ
cà chín, cà xanh
Anh cho một
quả để dành mớm cơm !
Này đây
một anh chàng ngồi trên con dò
dọc đang buông lời tình tứ
mời mọc một cô nàng yếm
thắm:
Hỡi cô
yếm thắm răng đen
Muốn
lên mạn ngược ngồi thuyền
cùng anh !
Này đây
một anh chàng lái đò khác đang
buông lời chòng ghẹo dớ
dẩn:
Thuyền anh
đã cạn lại đầy
Mượn
đôi dải yếm làm dây kéo
thuyền
Cái dải
yếm chỉ lớn bằng mút
đũa con mà đòi “mượn ...
làm dây kéo thuyền”. Mượn
gì mà oái oăm thế ! Thế
nhưng cô gái cũng không vừa. Cô
không từ chối thẳng thừng
sợ làm buồn lòng anh chàng lái
đò “tinh nghịch”, cô chỉ
hứa khéo với lời ước ao
không bao giờ thành hiện thực:
Ước
gì dải yếm em to
Để em
buộc lấy mũi đò kéo lên
Ước
gì dải yếm em bền
Để em
buộc lấy kéo lên trên bờ !
Này đây
một anh chàng buông lời đùa
cợt cái kiểu “muốn cho
mình rinh cho người” :
Con cò
lặn lội bờ ao
Hỡi cô
yếm đào lấy chú tôi chăng ?
Hay:
Hỡi cô
yếm đỏ lòm lòm
Lại đây
tôi gả thằng còm cho cô . . .
Nhưng cái anh
chàng dưới đây mới thật
là “tinh nghịch”.
Hỡi cô
yếm thắm đeo bùa
Bác mẹ
có bán anh mua nửa người
Anh mua từ
rốn đến đùi
Từ bụng
đến mặt mặc trời
với em !
Vậy là
cái “yếm thắm” dù có
đeo bùa cũng không quyến rũ
nổi anh chàng “tinh nghịch” !
“Ý tại ngôn ngoại” mà lại !
Này đây
một anh chàng đang buông lời
chòng ghẹo chua ngoa:
Hỡi cô
mặc yếm hoa tằm
Chồng
cô đi lính cô nằm với ai ?
Đây có
thể là một câu hỏi có vẻ
“lần khân” nhưng nó lại có
thể phản ảnh cả một thực
tế lịch sử chua cay của
người phụ nữ Việt Nam trong
những thời chinh chiến. Có
những thời kỳ mà người
đàn ông phải ở trong quân ngũ
suốt cả một quãng đời trai
trẻ “tuổi chưa đến 60
chẳng được về làng cùng
cha mẹ vợ con đoàn tụ...” (Thích
Đại Sán – Hải Ngoại Ký Sự)
Có những
phụ nữ sống trong khắc khoải
chờ chồng thời chinh chiến
thì cũng có những phụ nữ sống
buông thả luông tuồng “chính
chuyên lấy được chín
chồng, vo viên bỏ lọ gánh gồng
đi chơi !...” để rồi bị
người thiên hạ mỉa mai trách móc:
Hỡi cô
yếm thắm bùa đeo
Chồng
cô cô bỏ cô theo chồng
người !
Nữ sĩ
Hồ Xuân Hương có một bài
thơ vịnh “Thiếu nữ ngủ
ngày” vẽ ra một hình ảnh
thiệt ngộ : cô thiếu nữ
“quá giấc nồng” để
gió thổi tụt yếm xuống
đến giữa ngực “yếm
đào trễ xuống dưới
nương long” phơi bày cả bộ
nhũ hoa mát rượi “đôi gò
bồng đảo sương còn
ngậm”, khiến cho anh chàng
“quân tử dùng dằng đi
chẳng dứt ; đi thì cũng dở,
ở không xong !”. Chàng “quân
tử” ở đây còn dùng
dằng, lưỡng lự, “tiến
thoái lưỡng nan”, chứ chàng trai
trong ca dao gặp cảnh này đã sấn
sổ đến ngay không chút e dè.:
Đôi cô
vác gậy chòi đào
Cô lớn,
cô bé, cô nào với ai ?
Cô lớn
vuốt bụng thở dài:
Trời ơi,
đất hỡi ! Lấy ai đỡ
buồn ?
Cô bé
mặc yếm hở lườn
Đêm
nằm ngỏ cửa con lươn bò vào !
Gió nam
đánh tốc yếm đào
Anh nghĩ oản
trắng, anh vào thắp nhang
Hai cô
bốn oản rõ ràng
Anh xin một
chiếc, cô nàng không cho !
Rõ ràng là
chàng trai đã giả vờ “trông
gà hóa cuốc” để rồi
lần khân sấn sổ đến
gần hỏi xin một “phẩm
oản” và dĩ nhiên là cô nàng
từ chối !
Như đã
được mô tả, chiếc yếm
có lớn lắm cũng chỉ bằng hai
bàn tay xòe là cùng. Ấy vậy
mà, đã cò chàng trai mơ ước
được đắp chiếc yếm
của người tình và chàng nghĩ
nó sẽ ấm, ấm lắm, không
chiếu chăn nào có thể sánh
nổi:
Đêm
nằm đắp chục chiếc chăn
Làm sao sánh
được ấm bằng yếm em !
Đắp
chiếc yếm mà thấy
được hơi ấm đã là
lạ, nhưng không lạ bằng chàng trai sau
đây. Óc tưởng tượng cuả
chàng đã vẽ nên một hình
ảnh tuyệt diệu mà chúng ta có
thể nghĩ rằng chỉ có tình
yêu mới có thể cho chàng
được sức tưởng
tượng dồi dào đến
mức ấy:
Trời mưa
trời gió kìn kìn
Đắp
đôi dải yếm hơn nghìn chăn
bông !
Trời ạ !
Đắp đôi dải yếm ! Phải
chăng hơi hướm của người
tình đã chuyền hơi ấm vào
đôi dải yếm đa tình để
tạo cho nó thành một lò
sưởi ?
Đôi dải
yếm tuyệt diệu làm vậy
nên chàng trai đã có một
ước mơ thật kỳ lạ, đó
là giấc mơ hóa kiếp của
chàng. Tương truyền Nguyễn Công
Trứ đã có lần ước
mơ hóa kiếp thành “cây
thông”:
Kiếp sau xin
chớ làm người
Làm cây
thông đứng giữa trời mà reo
Sườn
trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu
rét thì trèo với thông
Ông là
một nhà tướng, ông lại là
một nhà thơ, ông muốn
tiếng thơ của ông cùng đất
trời vang vọng, còn chàng trai trẻ đa
tình của chúng ta thì có một
ước vọng “đa tình” một
cách lạ kỳ. Chàng muốn biến
thành cái dải yếm để mãi
mãi được quấn quýt bên
cạnh người tình:
Kiếp sau
đừng hóa ra người
Hóa ra dải
yếm buộc người tình nhân !
Trong lúc chàng trai
ước hóa ra dải yếm để
được “buộc người
tình nhân”, thì cái ước vọng
của cô gái - cái ước vọng
mãnh liệt muốn được giao
hòa, muốn được cảm thông -
đã biến cái dải yếm mong manh
thành chiếc cầu bất hủ
của tình ái để đón
người tình:
Ước
gì sông rộng một gang
Bắc
cầu dải yếm cho chàng sang chơi !
Quả là
người ta không thể lấy cái
kích thước bình thường
để đo lường rồi phê phán
hình ảnh tuyệt diệu trong câu ca dao
này mà người ta phải lấy
kích thước của “khát vọng
tình yêu” để nhận chân
một tấm chân tình.
Nếu có
một chàng trai nói lên giấc mơ
“đa tình” của mình thì lại
có một cô gái nói lên
giấc mơ “tinh nghịch” thật
oái oăm :
Ước
gì dải yếm em dài
Để em
buộc lấy những hai anh chàng !
Bởi cô
nàng ao ước “buộc lấy
những hai anh chàng” nên cô nàng
đã bị thiên hạ mỉa mai:
Lả lơi cho
rách yếm ra
Về nhà
dối mẹ yếm thông hoa không
bền !
Hình thức
của cái yếm cũng là biểu
tượng về đời sống
thường nhật của người phụ
nữ Việt Nam. Khi còn son trẻ,
người phụ nữ còn nghĩ
đến cách ăn mặc, còn nghĩ
đến việc giữ gìn sắc
đẹp:
Tấm
yếm đào sao em khéo giữ màu
Răng đen
rưng rức, mái tóc đầu em hãy
còn xanh.
Hay:
Con gái đang
thì đã nên con gái
Cái áo em
mặc chải chải hoa hồng
Trong yếm
đại hồng chuỗi xe con trám ...
Nhưng khi đã
có gia thất, trong đời sống
khổ cực hằng ngày, họ
thường hoài niệm về
thời con gái còn sống dưới
sự đùm bọc, yêu chiều của
mẹ cha. Với họ, đây quả là
một thời vàng son:
Khi xưa em
ở với cha
Một năm
chín yếm xót xa trong lòng
Từ khi em
về nhà chồng
Chín năm
một yếm, em lộn trong ra ngoài !
Khi đã có
chồng, người phụ nữ
Việt Nam thường ít khi nghĩ riêng
về mình mà họ dồn tất cả
cho chồng cho con, đúng với quan
niệm “có chồng gánh vác giang
sơn nhà chồng !”. Họ không còn
nghĩ về bản thân mình nữa:
Chửa
chồng nón thúng quai thao
Chồng
rồi, nón rách quai nào thì quai.
Chửa
chồng yếm thắm đeo hoa
Chồng
rồi hai vú bỏ ra tày giành !
Và nhất
nữa khi đã có con, càng có
nhiều con, đời sống của họ
càng ngày càng vất vả hơn và
bản thân họ trông cũng thật
thảm não hơn:
Gái một
con trông mòn con mắt
Gái hai con con
mắt liếc ngang
Ba con cổ
ngẵng, răng vàng
Bốn con
quần áo đi ngang khét mù
Năm con tóc
rối tổ cu
Sáu con
yếm tụt, váy dù vặn ngang.
*
* *
Cái yếm
của người phụ nữ Việt Nam
có tự bao giờ không thấy
sử sách ghi lại. Trong tác phẩm Việt
Nam Văn Hóa Sử Cương của học
giả Đào Duy Anh có đoạn ghi: “Theo sách
Sử Ký chép thì người Văn Lang
xưa, tức là tổ tiên ta, mặc
áo gài về bên tả (tả
nhiệm). Sử lại chép rằng
ở thế kỷ thứ nhất,
Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu
Chân dùng kiểu quần áo theo
người Tàu.” (trang 172).
- Sử Ký là
một sử phẩm bất hủ
của nền văn học Trung quốc
cổ đại. Tác giả là Tư Mã
Thiên, một người sinh sống trong
khoảng thế kỷ thứ II trước
Tây Lịch.
- Văn Lang là
quốc hiệu của nước ta
từ thuở các vua Hùng họ
Hồng Bàng trị vì tức là
từ năm Nhâm Tuất (2789) đến
năm Quý Mão (258) trước Tây lịch.
Căn cứ vào
sự kiện được ghi trong
Sử Ký và các niên biểu nêu
trên thì từ hơn hai ngàn năm
về trước, dân Việt ta
đã biết mặc áo gài nút
về phía bên trái (tả nhiệm), đến khi
Nhâm Diên cai trị đất Cửu
Chân mới bắt dân Việt ăn
mặc theo kiểu người Tàu tức
là gài nút về phía tay phải
(hữu nhiệm).
Trước khi
biết mặc áo gài nút về
phía tray trái (tả nhiệm), giống
như nhiều dân tộc sơ khai khác,
người Việt sơ khai cũng đã
dùng lá cây, vỏ cây hoặc da thú
làm vật che thân. Họ chỉ che toàn
thân khi trời giá rét. Khi trời
nóng bức hoặc khi làm lụng,
chắc hẳn họ chỉ che những bộ
phận cần phải che kín của cơ
thể (hạ bộ của phái nam, hạ
bộ và nhũ hoa của phái nữ).
Đến khi biết dệt vải để
dùng, họ thay thế lá cây, vỏ
cây hay da thú bằng những mảnh
vải. Và chiếc yếm ra đời.
Chiếc yếm phải ra đời
trước cái áo “tả
nhiệm”, chí ít cũng phải
đồng thời với cái áo
ấy. Vậy là cái
yếm đã là vật thân
thiết của người phụ nữ
Việt Nam trên hai ngàn năm nay.
Những chiếc yếm trắng,
yếm nâu, yếm đào, yếm
thắm . . . những chiếc yếm
vải, yếm trúc bâu, yếm vóc,
yếm nhiễu . . . đã quấn
quýt với người phụ nữ
Việt trên hai ngàn năm đó
bỗng một hôm bị cái
xú-chiêng của người phương
Tây tranh giành mất địa vị.
Chiếc yếm thủy chung gợi cảm
đã phải từ tốn âm
thầm rút lui vào bóng tối
nhường chỗ cho chiếc
xú-chiêng ôm ấp bộ ngực
căng tròn nõn nà của người
phụ nữ Việt Nam cho đến
một ngày người ta không còn
nhắc nhở đến cái yếm
nữa. Ngày nay có nhiều phụ
nữ Việt Nam không còn có
thể hình dung ra hình dáng của cái
yếm. Và đáng tiếc biết bao
nhiêu, những chàng trai Việt không
còn đêm đêm nằm mơ:
Kiếp sau
đừng hóa ra người,
Hóa ra dải
yếm buộc người tình nhân !
ĐÀO
ĐỨC NHUẬN
_____________________________
Chú thích :
(1) (3) (5) : Quê
Rích Quê Rang - Trần Ỷ (trong tuyển
tập Quảng Ngãi Mến Yêu, trang 208)
(2) (4) : Đất
Lề Quê Thói (trang 213-215) - Nhất Thanh
Vũ Văn Khiếu
Tài liệu tham
khảo chính:
1. Quảng Ngãi
Mến Yêu - Nhiều tác giả, Sông
Trà xuất bản, 2003
2. Đất
lề Quê Thói - Nhất Thanh Vũ Văn
Khiếu, Đại Nam tái bản
3. Việt Nam Văn
Hóa Sử Cương - Đào Duy Anh, Xuân
Thu tái bản
4. Nghìn Năm Dải
Yếm Bắc Cầu - Anh Thy
5. Các tuyển
tập ca dao.
(Sưu Tầm
Liên Mạng chuyển)