Cái duyên Nam Bắc
(Nguyễn Hữu Huấn)
Khi ngồi viết những giòng chữ này
thì vợ cháu đang ngủ say sưa trên
giường. Nhìn đôi chân
dài thườn thượt của bà thò ra
khỏi chăn, tự nhiên cháu bật cười.
Thì ra vợ cháu cũng thuộc loại
…chân dài ra phết, cao xấp xỉ 1,70 mét chứ chẳng phải chơi.
Năm ngoái gặp lại đám bạn cũ
cùng binh chủng, trong lúc chụp ảnh chung bỗng
có thằng la lớn :
"Chúng mày ơi ! đứng
bên cạnh bà này chắc ông phải kiễng
chân lên mới xứng !", làm vợ
cháu ngượng chín người. Nghe nói
bên Việt Nam
bây giờ người ta tung hô
tán tụng "những cô gái chân
dài" dữ lắm, làm phim, lên ảnh, quảng
cáo rùm beng, làm các cô cứ tưởng
mình là cái rốn của vũ trụ
không bằng. Có điều lạ là hầu
như các mợ toàn là gốc miền Bắc,
nói năng giọng Bắc, nhìn đời với
con mắt người Bắc và cư xử thì
cứ "tự nhiên như người Hà Nội".(Bật
mí cho các cụ nhé: bây giờ thì
đa số các mợ Hà Nội chính gốc
đã thi nhau làm "con chim đa đa" bay qua
xứ khác lấy chồng xa hay đi kiếm cơm hết
ráo, còn lại toàn là gốc
Hà-Nam-Ninh hay Thanh-Nghệ-Tĩnh lên Hà Nội
lập nghiệp).
Hay là ông Trời sinh ra người
càng ở vùng phương Bắc thì da
càng trắng, mũi càng cao và chân
càng dài, cứ nhìn mấy ông Tây
bà Đầm là biết ngay. Thế nhưng "bà già
chân dài" vợ cháu lại là dân
Nam kỳ tuốt luôn tận phương Nam, là thứ
Nam kỳ chính hiệu con nai vàng, quê Cái
Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn.
Hoá ra "mũi cao, chân dài" đâu phải
độc quyền của các mợ Bắc Kỳ 75,
các mợ nhờ "tàn dư đế quốc"
nên chỉ mới xuất hiện sau này thôi,
chứ ngay trong "thời kỳ chiến tranh"
cách đây mấy mươi năm thì "mũi
cao, chân dài" như Nam kỳ vợ cháu
đã nhởn nhơ đầy đường.
Đúng là một cọng giá "thời kỳ
chiến tranh" vẫn hơn một gánh rau muống
"thời kỳ hoà bình đổi mới" !
Bố mẹ cháu sinh cháu ra tại
miền Bắc, học hành và lớn lên
cùng với gia đình trong miền Nam, để
rồi trưởng thành tận ngoài miền
Trung. Từ những
tính chất của ba miền đã hợp lại
tạo nên cháu thành một thứ "hẩu
lốn": như canh chua nấu với ... rau muống, giá
sống ăn với ... bún riêu, nhậu bia với ché mà lại chấm với
... xì dầu. Thế nhưng cái bản chất Bắc
kỳ vẫn là cái cốt lõi trong con người
cháu từ lúc sơ sinh, vẫn Bắc kỳ rau
muống mắm tôm, Bắc kỳ truyền thống, Bắc
kỳ muôn thuở ... Nhưng ông Trời oái
oăm lại sai ông Tơ bà Nguyệt xe duyên
cháu làm thằng tù khổ sai chung thân cho
một bà vợ Nam kỳ quốc. Lạ thật ! Duyên hay nợ đây Trời !
Hồi còn bé, thú thật
cháu chẳng ưa gì Nam kỳ. Còn
ghét, còn hận nữa là khác. Chuyện
cũng dễ hiểu thôi : lần
đầu cắp sách đến trường tiểu
học Bàn Cờ ở quận 3, Sài Gòn, chỉ
có cháu với một thằng nhô nữa
là Bắc kỳ. Thằng này có hàm
răng đưa hơi xa ra phía trước, mà
văn chương Bắc kỳ gọi là "vẩu",
còn Nam
kỳ gọi đơn giản và rất tượng
hình là cái "bàn nạo dừa". Bố
nó (không vẩu tí nào) rất thân với
bố cháu (cũng chẳng có bàn nạo dừa)
vì cả hai gia đình cùng đi chung chuyến tàu "há mồm"
vào Nam
năm 54. Hai thằng Bắc kỳ con nhất
định ngồi cạnh nhau tạo thế liên
hoàn "dựa nhau mà sống" trong cái lớp
học 27 trự Nam
kỳ con. Bọn chúng hè nhau trêu chọc,
ăn hiếp hai đứa chúng
cháu. Mỗi lần ra chơi hai thằng
Bắc kỳ con luôn tìm chỗ ít người
mà đứng để khỏi nghe bọn Nam kỳ
đọc thơ chọc quê chửi bới. Thằng
Vọng, đứa đầu xỏ và to con nhất
đám (bây giờ đang ở Canada) leo
lên cây vú sữa giữa sân, đọc
thơ rang rảng:
" Bắc kỳ
ăn cá rô cây
Ăn nhằm
lựu đạn ... chết cha Bắc kỳ "
Một thằng
khác sẵn giọng phụ họa :
"Có
cái thằng nhỏ nó "đao" làm sao
Lỗ đ.
nó dính cái cọng "rao",
Người ta ai
mà kỳ như "dzậy" ?
Thế là cả bọn
đồng loạt chỉ ngay vào bọn cháu rồi
rống lên : "Thôi rồi ! Bắc kỳ, Bắc
kỳ !"
Cháu tủi thân
lắm ! Ôi thôi ! buồn da diết, buồn vô
biên, buồn phát nghiền !
Về nhà hỏi mẹ
tại sao gia đình mình lại vào
đây làm quái gì để chúng
nó trêu con suốt ngày. Mẹ cháu rướm
nước mắt, xoa đầu cháu giải
thích đơn giản :
- Tại vì người
ta đánh nhau quá nên gia đình mình
phải "ri cư" vào đây con ạ !
Thôi chịu khó đi con, mẹ biết làm
sao bây giờ !
Nào đâu
đã hết, chúng nó còn hè nhau tụ
tập trước cửa nhà cháu. Mẹ
cháu cầm chổi lông gà ra đuổi. Chẳng
đứa nào sợ, trái lại còn tru
tréo to hơn. Chợt thấy hàm răng của mẹ
cháu nhuộm đen ngòm và bóng
loáng, thế là chúng nó cứ thế
mà gào :
"Bắc kỳ
ăn cá rô cây
Ăn nhằm
cục c. , hàm răng đen thùi"
Trong gia đình, chỉ
có bố cháu là chẳng thằng Nam kỳ
con nào dám giỡn mặt. Có lẽ nhờ
khuôn mặt có oai hay nhờ đôi mắt
nghiêm khắc của ông, mà chúng sợ một
vành không dám trêu chọc một lời ?
Ngày tháng qua
mau, cứ thế mà đám Bắc kỳ "ri
cư", trong đó có gia đình cháu,
vẫn sống phây phây trên mảnh đất
Nam bộ lạ hoắc nhưng trù phú này.
Những cảnh chọc quê dần dần biến mất,
bạn bè nhiều hơn, trong đó dĩ
nhiên không ít đứa Nam kỳ. Đứa
Sài Gòn chính tông, đứa Sa
Đéc, đứa Vĩnh Long, đứa Mỹ Tho, Cần
Giuộc ... Nhưng đứa nào cũng chửi
cháu là "thằng Bắc kỳ lắm mồm".
Không "lắm mồm" chứ để
chúng mày ăn hiếp ông hả ? Nghĩ cho
cùng, không "lắm mồm" thì
đâu còn là Bắc kỳ nữa ! Thứ
"lắm mồm" được việc, "lắm
mồm" nghe vẫn bùi tai, "lắm mồm"
dễ mến, thiếu thì nhớ, vắng thì
mong, "tay chơi" nhưng vẫn "chân tu",
gái Nam kỳ cứ thế mà ..."lắc lư
con tàu đi".
Càng lớn
lên cháu càng khoái Miền Nam, khoái
Sài Gòn, nơi dễ có nhiều bạn,
mà bạn lại không tồi. Nơi đó
có dừa xiêm dzú sữa, có chè
đậu xanh bột báng nước dừa, có
bánh bèo trét mỡ trắng phau phau, có
nước mắm đường ngọt lịm, có
cá bống trứng kho tiêu, có trái
cóc ngâm đường cắm que cà rem chấm
muối ớt, có quán cơm bà Cả Đọi,
có cả những con đường hẻm ngoằn
nghoèo dẫn đến nhà ... chị Tình. Miền
Nam và Sài Gòn thật trong veo khoáng đạt,
không tự tôn như cái Bắc kỳ
đã có sẵn từ bẩm sinh trong bụng
cháu, không rườm rà "màu mè
ba lá hẹ", chân thành thật thà, thẳng
ruột ngựa, không làm vẫn có ăn,
chơi xả láng sáng về sớm, để rồi
vẫn cứ yêu người, yêu đời.
Có lẽ cũng cùng một cảm nhận
như thế nên đám Bắc kỳ "ri
cư" chúng cháu mới vào Nam chỉ
có cái quần xà loỏng trên
"tàu há mồm" đã lợi dụng
thời cơ hè nhau tung ra dành dân chiếm
đất khắp cõi Nam bộ, mà lại ăn
nên làm ra trên mọi lãnh vực, trong
đủ tầng lớp xã hội, nhất là
vùng Sài Gòn Gia Định và các
vùng phụ cận, chỗ nào làm ăn ngon
lành thuận lợi là mấy mợ Bắc kỳ
rau muống sang tay hàng loạt, ngoại trừ
phía bên trong chợ Bến Thành và
vùng Chợ Lớn, vì chẳng thèm
"kèn cựa" với các chú Ba.
Đã bảo rồi mà ...: "Bà
đã nàm thì nàm thật chứ
không thèm nàm nấy ne, nàm nấy nệ
!" Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ lại
càng ăn trên ngồi trốc, các cụ
không tin cứ mở cái máy "dzô tuyến
chuyền hình" hay cái "ra dzô" ra
thì thấy liền, các "xướng ngôn
dziêng" hầu như "chăm phần
chăm" đều là Bắc kỳ, không cậu
thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng
"E Việt Nam", mợ nào mợ nấy đều
khoe "em người Hà Lội" hết ráo !
Chẳng biết tại "dziêng dzáng" hay
"phe đảng" ?
Bố cháu
trái lại, cái chất Bắc kỳ đã
ăn vào máu, thấm vào cốt lõi
xương tủy của ông từ bao đời, nhất
quyết bắt anh em cháu phải thi vào trường
Chu Văn An (CVA), con em gái phải thi bằng được
vào trường Trưng Vương, toàn là
những trường nổi tiếng từ miền Bắc,
kéo theo các thày cô "ri cư"
vào Nam. Phần vì bố cháu là cựu học
sinh trường Bưởi, phần vì ông cũng
có chút thiên kiến và ít tin tưởng
vào các trường miền Nam như Petrus
Ký hay Gia Long. "Mình dân Bắc thì phải
học trường của người Bắc, chúng
mày đừng có bàn với bạc lôi
thôi !", bố cháu phán cứ như
đinh đóng cột. Mà lạ thật !
Vào học Chu Văn An mới thấy toàn
đám học sinh Bắc kỳ, le que vài trự
Nam kỳ lạc lõng vô duyên, đếm chưa
đủ mười đầu ngón tay đã hết
đứa Trung kỳ. Cho đến các thày
đa số cũng lại Bắc kỳ nốt, từ
thày hiệu trưởng Dương Minh Kính
đến thày thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Còn bên Petrus Ký thì ngược lại, hầu
hết Nam kỳ. Hóa ra vung nào thì vẫn cứ
đi tìm nồi nấy, hay hoặc giả có
chính sách của chính quyền thời
đó hay không ? Chẳng thành vấn đề,
chỉ biết bọn Nam kỳ Petrus Ký châm biếm
đổi tên Chu Văn An thành ... Chết Vì
Ăn ! Cháu tức máu trả đũa, rằng
chúng mày ghen ông vì chúng mày
chiêm ngưỡng các em Bắc kỳ Trưng
Vương mà thèm nhỏ dãi, nhưng sờ
vào thì chúng mày sẽ thành con dế
mèn để các em Bắc kỳ thọc cọng
nhang sau gáy thổi quay vòng vòng ! Tức
quá, mấy trự Petrus Ký chỉ biết "ngậm
ngùi" đồng ca bản "Khúc nhạc
đồng quê" rằng thì là :
"Quê
hương tui Bắc kỳ nhào dzô quá trời
Bên bờ
sông bên bờ ao ... trồng rau muống !"
Hay cũng là :
"Quê hương tui cái mùng mà kêu
cái màn !...."
Thôi thì cũng
đúng thôi ! Mấy trự Nam kỳ hay Trung kỳ
chỉ cần nghe một mợ Bắc kỳ uốn
éo ra chiêu vài đường lưỡi
thì đã nhũn như chi chi, mắt trợn
ngược, mồm há hốc, quên luôn cả
tên họ mình. Chỉ có trai Bắc kỳ mới
trị nổi các mợ Bắc kỳ thôi !
Này nhé, các cụ cứ chịu khó
nhìn chung quanh đi, cứ một trăm trự Nam kỳ
chưa chắc có được một trự vớ
được một mợ Bắc kỳ. Tìm mỏi
con mắt mới có một trự "diễm
phúc" bế được một mợ mang về
nhà thì bảo đảm suốt cuộc đời
còn lại chỉ biết bốn chữ "gọi dạ
bảo vâng", răm rắp tuân lệnh bà,
chẳng bao giờ còn nhìn thấy mặt trời,
mặc dù suốt ngày ngửa mặt than Trời
! Đấy mới chỉ là các mợ Bắc kỳ
54 thôi nhé ! Gặp cỡ các mợ 75 hay
các mợ quê quán Hà Đông hay Bắc
Ninh "... cầm roi dạy chồng" thì ôi
thôi ! cái te tua nó kéo luôn theo cả
tông ti họ hàng, suốt đời hưởng
"cái thú đau thương", nghe chửi cứ
tưởng nghe ... hát.
Hỡi các
chú Nam kỳ hậu sanh: chớ chơi dại ! Đừng
nghe ông Phạm Duy hát bài "Cô Bắc kỳ
nho nhỏ" mà ham, lừa đấy ! Gặp Nam kỳ
thì cái "nho nhỏ" kia sẽ phình to
hơn cái vại, mà cái vại có nanh !
Ngược lại, một cậu Bắc kỳ rau muống
quơ được một cọng giá Nam kỳ
"đem về dinh" - vụ này nhiều lắm
- thì cứ như "rồng thêm cánh",
như "diều gặp bão", như lái
ô tô không cần Navigation ... cả đời
có người "nâng khăn sửa
túi" không công. Hóa ra hôn nhân cũng
có quy luật đấy chứ :
Chồng Bắc kỳ
+ vợ Bắc kỳ = Vợ chồng đề huề, nếu
biết cách
Chồng Bắc kỳ
+ vợ Nam kỳ = Chồng phây phả, phè
cánh nhạn.
Chồng Nam kỳ + vợ
Bắc kỳ = Chồng te tua, lưng còng.
Nhưng đã
là "luật" thì bao giờ cũng có
"luật trừ", nghĩa là cháu không
dám vơ đũa cả nắm đâu, với lại
cháu chỉ lợi dụng cái "tự do
ngôn luận" trên xứ người, xin
bàn bậy vài chữ ngu ngơ để các
cụ trong lúc "trà dư tửu hậu"
đem ra trước là mua vui, sau là cho bớt
chút căng thẳng trong cái cuộc đời
... đen như mõm chó này. Xin lỗi
các cụ, nẫy giờ nói loanh quanh mãi,
bây giờ cháu xin trở lại chuyện của
cháu.
Bố cháu
nghiêm khắc lắm và dĩ nhiên giáo dục
con cái theo truyền thống Bắc kỳ. Đã
có gốc có ngạnh, có cả sự nghiệp
bề thế trong Nam nhưng vẫn ... thờ cơm Bắc kỳ, vẫn
lễ phép Bắc kỳ, vẫn giữ giọng
nói Bắc kỳ và thậm chí còn ra lệnh,
dâu rể cũng phải ... Bắc kỳ ! Mỗi lần
cháu dẫn bạn gái về nhà, bố
cháu liếc mắt một cái là biết ngay
cô nàng Bắc hay Nam. Có một ông bố
tinh đời như thế đôi khi lại ... phiền.
Với một mợ Bắc kỳ, bố cháu
thân mật tươi cười "Cháu
vào nhà chơi ! bố mẹ cháu khỏe mạnh
không ?", cứ làm như quen biết từ lâu
vậy. Gặp cô ả Nam kỳ thì lạnh nhạt
khinh khỉnh "Không dám, chào cô !"
Cô bạn gái Nam kỳ mặt nghệt ra thưởng
thức văn chương Bắc kỳ, còn cháu
nghe qua mà thốn từ dạ dầy đến ruột
non. Nghe Bắc kỳ chê, nghe Bắc kỳ chửi,
mà cứ tưởng mình đang nghe thơ
phú hay nghe nhạc êm dịu mới chết chứ
! Nếu quen cô nào Trời sinh có mấy
cái vòng hơi ... sexy một tí, Bắc cũng
như Nam, cháu phải dấu biệt vì sợ lựu
đạn nổ tung trong nhà. Điệu này coi bộ
hơi khó sống. Thôi thì Bắc Trung Nam cũng
một nhà, hạnh phúc lứa đôi
đâu phải do thằng hàng xóm, mà
là do chính mình. Thế rồi cháu
đã từng hạ quyết tâm với bố: lấy
vợ Bắc kỳ, cho phải đạo làm con. Em
nào Bắc kỳ, rước về nhà cho bố
xem mặt mà bắt hình dong (cứ như đi
mua gà chọi). Em nào Nam kỳ, điểm hẹn
sẽ là mấy ống cống dưới gầm cầu
xa lộ Đại Hàn.
Thiên bất dung
nhan ! cháu lại phải lòng một ả Nam kỳ,
Nam kỳ không lai giống, cái thứ Nam kỳ Gia
Long kên kên xí xọn. Hồi đó
cháu đi lính Không Quân của miền
Nam, thấy đám phi công trời đánh
đa số cũng đều là Bắc kỳ, chẳng
hiểu tại sao ? Dân Nam kỳ cũng có, Trung kỳ
lại càng ít hơn, nhưng đứa nào
cũng có ... "cái mồm Bắc kỳ".
Cháu còn nhớ khi thi gia nhập Không Quân,
phải đủ ký lô, đủ kích thước,
lục phủ ngũ tạng bị khám tuốt luốt,
phải trần trùng trục như con nhộng rồi
nhẩy lên nhẩy xuống cho mấy ông bác
sĩ ... "vạch lá tìm sâu", chứ
đâu có thi tuyển đứa nào "lắm
mồm" ! Thế mà thằng nào thằng nấy
đều có cái "chứng chỉ lắm mồm"
cao hạng dấu kỹ trong túi áo bay. Một
hôm đang trực phòng hành quân thì
ông xếp (ông này Nam kỳ quốc) hỏi có
thằng nào rảnh ra phi đạo chở con
cháu gái vợ của xếp theo tàu từ
Sài Gòn ra Nha Trang đem về nhà bà vợ
đang có bầu sắp đẻ. Tưởng đi
biệt phái hành quân chứ cái màn
này cháu khoái lắm : "Chuyện nhỏ
mà xếp, có tui ngay !" Ông xếp của
cháu cũng chẳng vừa, nhìn thấu tim gan thằng
đàn em : "Lẹ lẹ lên coi, tàu sắp
đáp rồi đó, sách tao mày học
hết còn dư có cái bìa, nhưng
mà từ từ thôi nghe cha nội, lạng quạng
con mẻ chửi tao thấy bà !" Lúc
đó cháu đâu có ngờ rằng,
cái chuyện nhỏ như mắt muỗi này lại
thành chuyện lớn, lớn khủng khiếp, ảnh
hưởng đến hết cả cuộc đời
cháu !
Cô cháu
gái ông xếp không có cái dạng
"ngực tấn công, mông phòng thủ"
như trong "xi la ma", thế mà ngay từ
phút ban đầu cháu đã bị giáng
ngay tim một cái búa tạ chình ình chứ
chẳng phải tiếng sét tầm thường.
"Cô đi máy bay có mệt lắm không
?" - "Dạ !". "Ra thăm cô dượng
hả ?" - "Dạ !". "Cô lên xe đi,
tôi đèo cô về" - "Dạ !" ...
Chèng đéc ơi ! sao mà cụt ngủn cộc
lốc thế bà nội ? Cái gì cũng
"dạ" hết ráo thì cháu biết
đâu mà rờ ! Đúng gái Nam kỳ !
Chợt nghĩ, không biết bà dzợ xếp tới
giờ này có còn "ngây thơ",
"dạ dạ" với xếp như dzậy nữa
hay không ? Xếp cháu đang ở San José, nếu
xếp có đọc những giòng chữ
này thì xếp cũng bỏ qua dùm vì thằng
em đã thuộc lòng trọn bộ sách của
xếp từ khuya rùi ! Từ đó cháu với
nàng rủ rỉ rù rì cùng nhau
đánh vần mấy chữ "hình như
là tình yêu". Cuộc tình của
cháu với nàng êm ả như quả lắc
đồng hồ treo trên tường phòng
khách nhà cháu, nhưng mỗi khi nghĩ đến
bố cháu thì quả lắc đồng hồ bỗng
ngất ngư như bị đứt dây thiều.
Thương quá, cháu đánh liều, "mấy
sông anh cũng lội, mấy đèo anh cũng
qua", chuyến này nhất quyết không chui
ông cống gầm cầu xa lộ, mà dắt
nàng về nhà trình diện bố. Bố vẫn
khinh khỉnh: "Không dám ! chào cô".
Nàng vui tính: "Ba anh coi ngầu quá
hén!", cháu tỉnh bơ: "Không ngầu
sao làm bố anh được !".
Thật ra thì bố
cháu đâu có ghét Nam kỳ, ông chỉ
phàn nàn rằng dân Nam kỳ được
trời đãi, cho sống trên mảnh đất
mầu mỡ phong phú, không làm vẫn có
ăn, mà lại ăn ngon nữa, nên có
tính lè phè, hoang phí, không chăm chỉ
hạt bột, không cần cù tiết kiệm
như Bắc kỳ. Ông chỉ vì thương
con, lo cháu lấy nhằm cô vợ Nam kỳ cả
ngày chỉ biết ... phè cánh nhạn, ăn
no lại nằm, thì con cưng của ông sẽ
thành thân trâu ngựa suốt đời.
Còn mẹ cháu, vốn dĩ nhà quê
răng đen mã tấu bảo rằng, nghe Nam kỳ
nói chuyện cứ tưởng nghe tiếng nước
ngoài, chỉ hiểu một nửa ! Cháu cãi
lại, Bắc kỳ cũng có khối đứa
lười, lười như .. cháu đây
là hết mức rồi !
Một hôm
cháu đưa nàng về nhà, gặp lúc
bố mẹ cháu sửa soạn mở tiệc
đãi ông bác từ Hố Nai lên thăm.
Ông bác vui tính bảo tiện bữa ngồi
ăn luôn, cháu đang chần chừ thì
nàng vén áo hạ ngay cái bàn tọa
tròn lẳn xuống ghế, cháu kéo lên
không kịp. Cháu thủ thỉ giải thích
cho nàng rằng, đi đâu gặp khách Bắc
kỳ mời ăn thì chớ có ăn liền, cứ
để người ta mời dăm lần bẩy
lượt, ăn liền người ta chửi mình
... chết đói ! Nam kỳ thì thẳng ruột
ngựa, mời là cháp lẹ, không cháp dọn
xuống bếp, đói ráng chịu, không mời
lần thứ hai, ai biểu mời không ăn ! Bỗng
mấy đứa em cháu thay phiên nhau : "Mời
bác xơi cơm, mời bố xơi cơm, mời mẹ
xơi cơm, mời anh xơi cơm, mời chị
xơi cơm", mời ... mời ... mời tùm lum
!. Thằng em út cháu mời dài nhất, mời
lâu nhất, mời từ trên xuống dưới
, trong nhà chỉ có con Tô Tô đang nằm
chực dưới gầm bàn là nó không
mời. Nó lại chẳng được ai mời
để xơi, út mà ! nhưng rồi vẫn xực
ào ào ! Cô bạn Nam kỳ của cháu trố
mắt nhìn cháu chẳng hiểu chuyện gì
xảy ra. Cháu vội ghé tai thì thầm :
- Em mời gia
đình ăn cơm đi !
- Ủa ! gia
đình anh mời em "ăng" mà ? Bộ
"ăng" cũng phải mời ... mời ... xơi
... xơi sao ?
Nàng ấp a ấp
úng cũng ráng mời :
- Dạ mời
bác, mời bác, dạ mời ... à ... à
... mời anh, mời em ...
Chợt bố
cháu lên tiếng :
- Thôi đủ rồi,
cháu mời người trên thôi, còn mấy
em cháu không phải mời ... Mà hay thật !
con bé này vui vẻ, ngoan ngoãn lắm ! sao con cứ
ăn hiếp nó mãi !
Nghe bố cháu
nói mà bụng cháu cứ như mở cờ,
ông còn cao hứng bảo khi nào nàng nấu
cơm Nam kỳ cho gia đình cùng ăn. Cô
nàng hí ha hí hửng nói liền :
- Dạ ! (lại dạ!),
để bữa nào cháu nấu bún(g) mắm
dzới thịt heo ba rọi cho bác ăn(g), bún(g)
mắm thịt ba rọi Trà Dinh ngoong nhức miền
Nam nghe bác !
- Sao ? cô muốn
búng hả ? Lỗ tai tôi đây này, muốn
búng bao nhiêu thì cứ búng đi !
Thế là cả
nhà cháu được một trận cười
nắc nẻ. Nào đã hết đâu, mẹ
cháu chợt bảo:
- Cháu xuống bếp
lấy cho bác mấy cái "cùi dìa"
với cái "muôi" để trong ngăn
kéo đấy !
Nàng ngớ ra cứ
như được nghe tiếng ...Tây, nhìn
cháu cầu cứu. Cháu cười hì
hì khoái tỉ, ra cái điều thông
thái giải thích ngay :
- Cái "cùi
dìa" Nam kỳ kêu là cái "muỗng",
tại Bắc kỳ sống lâu với bọn
Tây, chúng nó gọi là "la cuiller"
thì Bắc kỳ gọi luôn là cái
"cùi dìa" cho tiện. Còn cái
"muôi" Nam kỳ kêu là cái
"vá", chữ "vê" thì đọc
là "dê" cho nên gọi là cái
"dzá", phải không ?
Nàng đỏ mặt,
bĩu môi : "Cái đồ dzô dziêng, tui
đi dzìa à nghen !"
Sau bữa cơm
hôm ấy, hình như bố cháu bắt đầu
"chuyển hệ", có vẻ gần gũi
thân mật với nàng hơn vì thấy
nàng thật thà, có sao nói dzậy,
không bãi bôi, không vòng vo tam quốc, nhất
là ... không lười như ông nghĩ. Thừa
thắng xông lên, cháu thủ thỉ với mẹ
cháu là cháu muốn lấy nàng làm vợ.
Mẹ bàn với bố, bố vẫn ngần ngừ.
Tại bố cháu không biết đấy chứ,
cháu đọc lóm từ một quyển
sách nào đó người ta viết rằng,
trong lịch sử nước ta hầu
hết các vua chúa miền Trung đều có
nhiều bà vợ bé, mà hầu như
bà nào là Chánh
Cung Hoàng Hậu cũng đều là Nam kỳ: vua
Minh Mạng có rất nhiều vợ, đa số
là các bà Nam kỳ, Chánh Cung là
bà Hồ Thị Hoa, người Biên Hòa;
Chánh Cung của vua Thiệu Trị là bà Từ
Dũ, người Gia Định; Vợ chánh của
vua Bảo Đại là bà Nguyễn Hữu Thị
Lan (tức Nam Phương
Hoàng Hậu), là người Gò
Công. Mấy ông vua cũng tinh đời đáo
để ! Nhưng cháu "không phải là
vua, nên mộng ước thật bình thường",
chỉ xin "... quỳ lậy Chúa trên Trời,
sao cho lấy được ... con nhỏ Cái Bè
con thương !" Thật là oái oăm:
cá đã cắn câu mà bố cháu vẫn
chưa cho giựt cần ! Tuy thế, thỉnh thoảng bố
cháu cũng dò hỏi về gia đình
nàng. Thì cháu đã nói rồi
mà, "quê Cái Bè, nội Cái
Răng, ngoại Cái Dồn", ruộng đất
mênh mông, sông nước dập dình,
ăn nói "ngắn gọn và dễ hiểu"
chứ không "dài dòng nhưng khó hiểu"...
kiểu Bắc kỳ ! Chấm
hết !
Ngày vui nhất
đời cháu là ngày bố cháu ra lệnh
sửa soạn "lên đồ dzía" đến
thăm gia đình nàng. Sao bố cháu
không nói thẳng thừng ra là đi "hỏi
vợ", đi "chạm ngõ" cho xong. Nhưng
mà cần gì phải "chạm ngõ" với
lại "chạm cổng" cho rườm rà rắc
rối, nhà của nàng cháu biết từng
phòng, quen từng góc, rõ từng cột. Mỗi
lần cháu từ đơn vị "dù" về
đều có chút quà biếu ba má
nàng, cho mấy đứa em nàng và cho cả
cô Ba giúp việc trong nhà (học theo sách
dụ khị của xếp cháu đấy !). Lần
nào gặp ba nàng là lần đó
có ... nhậu. Đồ nhắm lúc nào cũng
có sẵn, lúc củ kiệu tôm khô, khi ra
sau hè ngắt mấy trái xoài tượng chấm
mắm nêm ngào ớt, kẹt quá cột sợi
ny-lông dzô ngón chân cái, đầu kia cặm
mấy con trùng liệng xuống sông, cũng
câu được mấy con cá lên nướng
làm mồi. Nam kỳ trù phú mà ! Ổng
không nhậu bia nhậu rượu, mà nhậu
đế; không nhậu bằng cốc hay ly mà nhậu
bằng tô, tô nào tô nấy bằng
cái bát ăn cơm nhà cháu. Thế
mà ổng lúc nào gặp cháu thì cứ
nói rằng: "Dô dzới tao dăm ba sợi nghe
mày !" Chưa tới nửa sợi cháu
đã guắch cần cẩu !" "Lính
tráng như mày chi mà yếu xìu sao
oánh giặc nổi ? Dzô cái coi !" Ổng
thương, ổng coi như con như cháu, ổng mới
kêu cháu bằng ”mày”. Tiếng
”mày” của Nam kỳ biểu lộ cái
chân tình, sự gần gũi thân
thương, không như Bắc kỳ khi đã xổ
ra tiếng ”mày” rồi thì ... ô
hô ! ô hô ! thiện tai ! thiện tai ! chạy
cho lẹ !
Một hôm đang
nướng con mực khô nhậu lai rai với ổng,
bỗng có khách gõ cửa bước
vào, mặt ổng sáng lên như sao băng, vừa
cười vừa nói :
- Chèng đéc
ơi anh Sáu Lèo ! hôm qua tui chờ qua qua
mút chỉ cà tha, hôm qua qua nói qua qua
mà qua hổng qua, hôm nay qua nói qua hổng qua
mà qua lại qua, nay qua rồi có thằng rể
tương lai tới thăm, nhào dzô chơi
vài xị, hôm nay có ớt nè qua !
Nói chi mà cứ
qua đi qua lại, qua tới qua lui, nói cũng như
thơ phú đấy chứ, thế mà mẹ
cháu cứ nói tiếng Nam kỳ nghe sao như tiếng
... nước ngoài !
Bắc kỳ vẫn
có câu "dâu là con, rể là
khách", nhưng Nam kỳ thì "dâu
là con, rể cũng là ... con luôn". Bố
dzợ chịu chơi lại gặp thằng rể cũng
chịu chơi luôn, dzô ba xị rồi thì coi
như ... bạn, chơi xả láng sáng dzề sớm,
còn má dzợ bỗng nhiên thành ...
chơi chịu ! Nàng kể cho cháu nghe, nhiều lần
ổng đi nhậu quá giờ giới nghiêm
chưa chịu về, cả nhà trông đứng
trông ngồi. Chợt nghe tiếng xe Vespa quen thuộc
chạy ngang nhà, cứ thế nghe cái
"dzù" rồi lại chạy mất tiêu, lại
nghe cái "dzù" rồi đi tuốt luốt
! Sinh nghi, nàng chạy ra cổng đón đường
chặn xe : "Ba ui ! Ba ui ! Tới nhà rồi nè
!". Ổng chợt tỉnh, quẹo dzô thắng
cái "két", xe đổ cái rầm, ổng
té cái đụi, miệng lèng nhèng
" Ủa, nhà mình đây rồi sao ? Dzậy
mà tao chạy dzòng dzòng kiếm hoài hổng
ra !"
Ngày cưới,
cháu chọn nhà hàng Đại La Thiên của
chú Ba tuốt bên Chợ Lớn cho có vẻ
trung dung, không Nam cũng không Bắc mà là
cơm Tàu. Không xài Karaoke nhưng chơi nhạc
sống. Có ông chú dzợ tên là Ba
Phoóng làm nhạc trưởng cho mấy bà xồn
xồn Nam kỳ lên sân khấu ca cải
lương hà rầm. Hình như 7 thứ nghệ
thuật của nhân loại đối với Nam kỳ
đều tóm gọn trong mấy câu dzọng cổ
thiệt mùi. Đám cưới cháu người
ta chụp nhiều hình lắm. Ông bố vợ
coi hình gục gặc cái đầu :
"Chèng đéch ơi ! thằng rể tao chụp
hình coi phông độ dzữ hén ! Ráng
nghe mày !" Cháu chẳng hiểu ổng nói
cháu phải ráng cái gì ? Nhưng có
một cái cháu phải ráng là cái chắc,
ai biểu ham dzợ Nam kỳ ... mũi cao chân dài
! Còn bố cháu xem ảnh thì lại
phán một câu xanh rờn : "Con dâu bố
chụp với bố ảnh này đẹp quá,
giá mà đứng cạnh bố con khoanh tay lại
thì còn đẹp hơn biết bao !". Ông
xếp cháu, khơi khơi tự nhiên thành
ông dượng, sẵn có dăm ba ly nhưng mắt
vẫn láo liên ngó bà cô, rồi len
lén kể lể làm oai : "Thấy chưa
mày ! Hồi đó tao xách máy bay xuống
Vĩnh Long rồi lạng qua Cái Bè, mới lạng
chơi dzài ba dzòng là dzớt luôn bà
cô mày, ngon chưa !" Cám ơn "ông
xếp dượng" đã có công "nối
giáo cho giặc" rồi rước luôn giặc
vào nhà. Còn mấy thằng bạn Không
Quân quỷ sứ thì xúm nhau ca bản
"Mùa thu chết" ... đã chết rồi,
cho mày ... chết luôn !
Ngày qua ngày,
cháu không chết mà vẫn sống nhăn
răng với bà vợ "quý phái bình
dân", bây giờ đã có 4 con với 3
đứa cháu ngoại để nựng. Nam kỳ cũng
chăm chỉ đấy chứ ! Thế là xong một
đời phiêu bạt giang hồ, bay bướm, quậy
phá ! Được cái vợ cháu cưng
cháu lắm (Nam kỳ mà !), bao nhiêu công việc
trong nhà từ lau nhà, rửa chén, hút bụi,
trồng cây, giặt đồ ... vợ cháu
dành làm hết ráo. Bả nói "tay
chân ông như thằng cùi, làm đâu
hư đó, để tui làm luôn cho lẹ
!". Cháu đi làm mang tiền về, bả cũng
không thèm động tới, bảo rằng
"tui hỏng cần anh nuôi tui !". Thế nhưng
vợ cháu ghen khỏi nói, trong vườn trồng
nhiều ớt hơn trồng hoa, ghen có đẳng
có cấp, ghen có kế hoạch, có
phương án đàng hoàng. Ghen thì ghen,
lâu lâu cháu cũng theo bạn bè ... nhảy
dù vài sô, về nhà im thin thít, thế
mà bả cũng "nghe" được mùi,
lườm lườm, nguýt nguýt, rồi cũng
huề tiền. Sau này cháu mới khám
phá ra vợ cháu rất sòng phẳng,
đâu ra đó, nếu "ăn bánh trả
tiền" là ... cho qua cầu gió bay, không
thèm chấp. Một hôm vô tình đọc
báo thấy tin cô Quờn, người Sóc
Trăng, ghen chồng lăng nhăng, lẳng lặng lựa
lúc chồng đang say túy lúy, xách con dao
bếp cắt luôn ... của quý của chồng
đem quăng sau vườn. Cô Quờn ra tòa ngồi
chơi 4 năm tù. Trời đất Thiên địa
ơi ! Nam kỳ mà ghen kiểu này chắc
cháu chết sớm, cháu dấu luôn tờ
báo, ai dè vợ cháu chu môi oỏng ẻng
: "Cái đó còn đỡ à nghen ! gặp
tui là tui cho luôn dzô cái máy xay thịt
rồi quăng cho bầy gà ăn, chớ giờ
người ta dzăng minh lắm, khâu nối lại mấy
hồi !". Má ơi là má ! Cháu nghe
mà ớn lạnh xương sống ! Chơi kiểu
này thì hơn xa các mợ Bắc kỳ rồi
! Nhưng cháu lại được phép kéo
bạn bè về nhậu ... xả láng, nhậu
"vô tư". Xỉn quá thì : "Anh mệt
rồi nghen, uống ly nước đá chanh nè,
rồi dzô đây em cạo gió hết liền
!". Bạn bè ói mửa tùm lum thì :
"Hổng sao đâu, anh ngồi tiếp mấy ảnh
đi, em dọn cho !" Mấy thằng bạn có vợ
Bắc kỳ ngó phát thèm !
Chắc khí
thiêng sông núi Bắc kỳ linh thiêng
hùng vĩ , hay nói theo khoa học hiện đại
là cái "dzen" Bắc kỳ quá mạnh,
nên vợ cháu nửa dưới vẫn còn
là Nam kỳ, nhưng nửa trên đã
hóa thành Bắc kỳ: không nói "bự
bành ky" mà nói "to vật vã";
không gọi "trái bom" mà gọi "quả
táo"; thích ăn canh rau muống hơn nấu
canh chua; nhưng đặc biệt nhất là ăn
nói không còn "ngắn gọn và dễ
hiểu" như xưa, mà bây giờ thì ..
ôi thôi ! "dài dòng, ào ào
như thác đổ", nghe riết muốn
khùng ! Bố cháu ăn "bún(g) mắm thịt
ba rọi" của vợ cháu nấu, đến
phát nghiền, nghiền luôn cả chén nước
mắn pha đường. Nhà cháu có bốn
anh em trai thì bố cháu có tới ba ả
dâu Nam kỳ, nhưng cả đám hợp lại
vẫn thua xa một mợ dâu Bắc kỳ, ăn
nói ngọt như đường phèn, dịu
dàng khoai thai như thiên nga, thêm cái
tài ... chửi như hát di truyền. Thế
là cái mộng "dâu rể phải là Bắc
kỳ" của bố cháu bị nước
sông Cửu Long vùng Nam bộ cuốn trôi
tiêu tùng. Bố cháu bây giờ cũng
rành "sáu câu" về Nam kỳ lắm,
ông bảo người ta nói rằng:
- "Tính
tình gái Nam kỳ giống như mưa Sài
Gòn: đỏng đảnh nhưng mau quên;
tính tình gái Bắc kỳ giống như
mưa Hà Nội: âm ỉ và dai dẳng".
Lợi dụng
lúc ông đang vui vẻ, cháu bèn phụ họa
:
- Bố biết
không, người ta cũng bảo : "Ở
Sài Gòn nhiều em sinh viên giống như ca
ve; Ở Hà Nội nhiều em ca ve giống như sinh
viên", đúng không bố ?
Bố cháu quắc
mắt : "Sao dám ăn nói lăng nhăng thế
hả ?". Cháu chuồn nhanh kẻo ông nổi
giận. Thôi thì đến nước này rồi,
cúi xin các cụ cũng rộng lòng bỏ
qua cho cháu nếu có gì gọi là
thiên vị, bởi vì con gái Nam kỳ bây
giờ đã là "cây nhà lá vườn"
của cháu, nên cháu đành phải
"ta về ta tắm ao ta", ôm lấy cái ao
Nam kỳ, ôm cứng cái cây sầu riêng
Nam bộ cho phải đạo "tình Bắc
duyên Nam", nếu không cháu phải ôm
thùng mì gói suốt đời. Mong sao
các cụ đọc xong rồi bỏ qua, cứ coi
như một chuyện tầm phào, bởi vì
cháu đã liều mình như mấy mợ
Hà Nội làm con chim đa đa, không lấy
vợ gần mà lấy vợ xa, xa tuốt luốt tận
cái xứ Nam kỳ với giòng sông 9 cửa.
Nguyễn
Hữu Huấn
12/06
(Lily Huệ
sưu tầm và chuyển)