Mảnh
Da Vàng
(Chu Lynh)
* Ðể
tưởng nhớ những người thân yêu
đã ra đi.
Ðã từ lâu,
tôi muốn viết về quãng đời niên
thiếu kém may mắn của mình, nhưng vẫn
chưa tìm được ngày tháng yên
hàn để thực hiện giấc mơ. Chinh chiến
đã xô đẩy tôi phiêu bạt khắp
nơi. Khi chiến tranh chấm dứt, tôi bị
lùa vào các trại tập trung. Thoát
vòng lao lý, tôi phải lang thang nhiều nơi
tìm kế mưu sinh. Ðến xứ người,
tôi vẫn chưa tìm được những khoảnh
khắc yên vị để thu nhặt lại những
mảnh đời đã lạc khuất trong quá
khứ.
Tôi vừa kỷ niệm
sinh nhật. Tuổi ngũ thập, tuổi tri thiên mệnh.
Chuyện ngày mai, tôi có thể nghi hoặc về
những dự đoán hay toan tính của
mình. Nhưng chuyện ngày qua, tôi tin những
tương quan trong quá khứ chưa hẳn
đã chấm dứt, có thể ẩn mình
đâu đó như con thú ngủ giấc
đông miên, rồi bỗng một hôm thức
giấc tiếp tục cuộc hành trình.
Ðã đến
lúc tôi cần viết ra câu chuyện của
chính tôi mà không một chút hoài
nghi về sự tương quan kỳ diệu
Thương Ðế đã xếp đặt.
Tôi nghĩ đây không còn là chuyện
của riêng tôi, mà của một dân tộc
chìm đắm trong oan nghiệt một ngàn
năm, một trăm năm, rồi mấy chục năm
đăng đẳng mà vẫn chưa ló dạng
ánh sáng của phục sinh. Ðêm canh thức
vẫn còn thăm thẳm. Như thể chiếc
đũa thần đâu đó chưa buông
tha dân tộc khốn khổ nầy, vẫn còn
khuấy động giòng sông quê hương
thêm những đợt sóng bi thương
khác.
Mời bạn cùng
tôi ngược giòng thời gian, về lại chốn
xưa, với những hình ảnh tưởng
đã xóa mờ, nhưng lạ thay vẫn
còn sống động trong trí nhớ tôi
như vừa mới hôm quạ
Giao thừa
năm Mậu Thân, 1968.
Thay cho tiếng pháo nổ rền
để đón chào giờ phút thiêng
liêng của một năm mới, là những
đợt pháo kích dồn dập của Cộng
quân vào khắp nơi thị xã Banmêthuột. Có người vẫn ngỡ tiếng
pháo giao thừa, không tin chiến tranh có thể
nhẫn tâm dẫm lên truyền thống dân tộc.
Qua máy truyền thanh, tôi biết tin khắp
toàn lãnh thổ miền Nam nằm trong chết
chóc kinh hoàng bởi trận tổng công
kích của Bắc quân.
Thoạt đầu, các đơn vị đồn
trú chịu một số thiệt hại do pháo
kích, nhưng sau đó được củng cố
hệ thống phòng thủ, bắt
đầu phản công mãnh liệt. Cường
độ tấn công của địch quân giảm
dần sau hơn mười ngày giao tranh. Thiếu
tiếp liệu, chịu nhiều tổn thất nặng
do đạn pháo binh và phản lực oanh
kích, Bắc quân đành tháo chạy, bỏ
lại những xác chết la liệt quanh vòng đai thị xã.
Tờ mờ sáng, đơn vị tôi tổ
chức lục soát ngoài hàng rào
phòng thủ. Toán pháo binh tăng cường
cho đơn vị chấm tọa độ khá
chính xác. Hơn mười xác
địch bỏ lại rải rác bên dốc suối.
Thật không thể tin được, những người
lính nầy còn quá trẻ. Hà
Nội đã vét đến những thiếu
niên vào chiến trường miền Nam. Trong khi lục soát, tôi chú ý một
thây người khuất trong bụi rậm.
Thân hình nằm nghiêng, tay
còn ôm cái túi xách quàng vai
dành cho cán bộ. Vũ khí không còn,
chắc đồng đội đã thu
nhặt trước khi rút lui. Ngoài giấy tùy
thân của một cán bộ chính ủy,
tôi tìm thấy trong túi áo một cái
ví da màu vàng cũ, bên trong là một
tấm hình đôi trai gái, mặt sau ghi vụng
về hàng chữ: Hoàng Thanh - Ðoàn Thị
Ðịnh.
Trở về văn phòng, tôi cứ
ngờ ngợ, dường như khuôn mặt người
thanh niên trong ảnh tôi đã gặp
đâu đó trong quá khứ. Khi giao nộp chiến lợi phẩm
cho đơn vị, không hiểu sao tôi giữ lại
chiếc ví da và tấm hình. Chiếc ví
bằng da thuộc đã bạc màu được
may rất khéo, hẳn là vật kỷ niệm của
một người con gái tiễn người yêu
lên đường. Khuôn mặt
người trong ảnh đi vào tâm trí
tôi. Hai tuần lễ sau, tôi đã nhớ
ra người thanh niên ấy …
1954. Quảng Bình,
bên kia bờ vĩ tuyến, những ngày sau khi
ký kết Hiệp Ðịnh Genève.
Qua một người bà con
tín cẩn, mẹ tôi biết được tin Ủy
Hội Quốc Tế Kiểm Soát Ðình Chiến
cho phép dân chúng di cư vào Nam. Sau khi tin tức ấy
được loan nhanh trong dân chúng, từng
toán bộ đội vội vã đến
đóng quân ngay trong làng với nhiều
máy móc truyền tin và sách báo.
Họ chia từng toán nhỏ vào ở từng
nhà, bắt đầu chiến dịch tuyên truyền,
vào Nam là sẽ chết đói trong các
trại tập trung của Mỹ-Diệm, ở lại
quê nhà sẽ được Bác và Ðảng
bảo đảm đời sống no ấm. Họ dạy
anh em tôi nhảy những vũ điệu theo những bài hát như:
Thắm thiết tình Việt-Trung-Xô
Ðế quốc càng đầy mối
lo
Ðó là tình người lao động
Mối tình tràn ngập
núi sông có công xây đắp tình
Việt-Trung-Xô…
Việt-Miên-Lào
bên nhau ta cùng chiến đấu.
Việt-Miên-Lào căm thù
đế quốc đi sau…
Hoặc
Cuốc cày của ta là
súng ống.
Ruộng đồng của ta là
áo cơm
Thôn quê của
ta là chiến trường.
Nông dân của
ta là chiến sĩ …
Họ biến nhà thờ
thành nơi nhảy nhót và hội họp. Họ
theo sát mẹ tôi mỗi khi người qua
nhà hàng xóm. Họ kiểm thảo ngay khi thấy
có hai người nói chuyện riêng. Không
như ở các thành phố Hà Nội, Hải
Phòng, làng quê tôi mù tịt với thế
giới bên ngoài, nhất cử nhất động
của dân làng đều bị theo dõi để
chận đứng mọi ý định rời đất
Bắc. Ðối với tôi, việc gặp lại ba
tôi trên đất Nam chỉ là một giấc
mơ.
Hoàng Thanh là
tên người lính trẻ nhất ở trong
nhà tôi. Anh ta tỏ ra gần gũi bốn anh em
tôi, đôi khi đến bữa ăn còn cho
em gái tôi một chén cơm trắng. Mỗi
đêm, anh ta thường đứng dựa cột
nhà đầu giường mẹ tôi, nói về
những xã hội tốt đẹp ở những miền
xa xôi như Trung Quốc, Liên Xô. Anh ta còn
báo động về cảnh nghèo đói ở
Miền Nam và cảnh đạp lên nhau mà chết
trong các trại tập trung.
Mỗi tuần hai lần,
anh bộ đội nầy dẫn hai anh em tôi đi
xem đấu tố địa chủ ở làng
trên. Tôi thường sợ hãi mỗi khi
nhìn người đàn bà mặc đồ
đen trên khán đài dõng dạc
tuyên án tử hình hay cải tạo lâu
dài những người bà nói là bọn
phản động, địa chủ, cường
hào ác bá bóc lột nhân dân.
Nhưng không hiểu sao hai anh em tôi lại thường
xuyên theo anh bộ đội có mặt trong mọi
cuộc đấu tố. Sau nầy, tôi nghĩ những
câu chuyện gần như thần thoại về những
người du kích anh dũng chống Pháp anh ta
thường kể trên con đường đê
đến địa điểm đấu tố,
đã hấp dẫn đứa bé bảy tuổi
như tôi, một đứa bé không người
cha bên cạnh trong những ngày bơ vơ nơi
làng quê quanh năm nghèo đói.
Tôi còn nhớ
như in buổi đấu tố địa chủ cuối
cùng. Khi tôi đến thì địa điểm
đã đầy ắp người đến từ
các thôn xã trong vùng. Ðó là một
mảnh đất rộng ngay trung tâm làng,
được chia thành nhiều lô cho từng
thôn. Một khán đài dựng sát bụi
tre có băng chữ Tòa Án Nhân Dân với
những cán bộ mặc đồ đen lầm
lì đang nhìn xuống phía dân chúng.
Trước mặt khán đài là những ghế
băng dành cho các viên chức thôn
xã, bên trái là vành móng ngựa bằng
tre dành cho tội nhân, bên phải là khu vực
dành cho mấy chục nhân chứng được
bao quanh bằng những sợi dây thừng.
Như thường lệ,
người đàn bà quan trọng nhất của
Tòa Án Nhân Dân đứng lên tuyên
bố khai mạc, nói rõ tên địa chủ
cần xét xử. Sau khi bà khi dứt lời, một
người đàn ông đứng lên hô
to các khẩu hiệu: “Hồ Chí Minh muôn
năm ! Ðả đảo địa chủ ! Ðả
đảo đế quốc !” Dân chúng đồng
loạt gào theo hai chữ muôn năm, đả
đảo. Trong đêm tối, âm thanh vang vang trong
không gian, dội vào lồng ngực, khiến
tôi rùng mình sợ hãi. Hoàng Thanh
luôn luôn ngồi sát bên tôi như một
sự che chở.
Ở xa, tôi chỉ
thấy thấp thoáng hai tên du kích đang
áp giải một người đàn ông lớn
tuổi, thỉnh thoảng một trong hai tên dộng
báng súng vào lưng người đàn
ông. Sau cùng, tên thứ hai đẩy mạnh nạn
nhân vào trong vành móng ngựa. Ông ta
ngã xuống, nhưng cố gượng đứng dậy.
Hai ngọn đèn măng sông không đủ
sáng để soi rõ khuôn mặt bị
cáo.
Một cán bộ
trên khán đài đứng lên đọc
một bản cáo trạng dài, cứ vài
phút, như muốn nhấn mạnh tội ác,
ông ta lại chỉ vào vành móng ngựa
mà la lớn “tên địa chủ nầy phải
đền tội”. Tôi không nghe người
địa chủ nói được tiếng
nào, thỉnh thoảng lại khuỵu xuống,
người đàn bà lại kết án
ông ta ngoan cố. Không được lên tiếng,
ngược lại con người bất hạnh nầy
lại bị mấy chục người trong khuôn
giây thừng làm nhân chứng kể những tội
ác tày trời. Sau nầy mẹ tôi cho hay họ
bị buộc phải kể ra những tội ác
tưởng tượng như thế.
Trước khi tuyên
án, người đàn bà áo đen lại
đứng lên kể công ơn và sự khoan
hồng của Bác và Ðảng đối với
những kẻ có tội biết ăn năn,
nhưng với những tên địa chủ ác
ôn phản cách mạng như Ðoàn Tấn
hôm nay phải bị trừng trị đích
đáng. Bà tuyên án tử hình người
địa chủ. Liền sau đó, rừng người
bị kích động đồng loạt đứng
dậy, vung tay lên không, hô to những khẩu
hiệu của người đàn ông trên
khán đài. “Ðả đảo tên
địa chủ Ðoàn Tấn !”
Tôi giật bắn
người lên khỏi thảm cỏ. Anh bộ đội
không hiểu được cử chỉ bất
thường hôm nay của đứa bé. Tôi
chạy lại gần sân khấu, nhìn cho rõ
khuôn mặt người đàn ông lúc nầy
đang run rẩy bám vào khung tre. Tôi cứ ngỡ
mình nghe lầm, nhìn lầm. Nhưng là sự
thật. Bác tôi, Ðoàn Tấn họ vừa
kết án tử hình.
Trong làng tôi,
còn ai hiền từ hơn bác Tấn ? Trong
giòng họ, có ai săn sóc gia đình
tôi trong những ngày ba tôi biền biệt
phương xa ngoài bác Tấn ? Vậy mà
hôm nay, bác Tấn là địa chủ
ác ôn. Một nỗi sợ hãi chạy khắp
toàn thân. Ðột nhiên, tôi hiểu
được rằng những gì đã xảy
ra trong những buổi đấu tố hoàn toàn
dối trá và bịa đặt. Theo anh bộ
đội trở về nhà, tôi ngậm tăm
không nói một câu. Con đường
đê hôm ấy dài hun hút. Anh ta không
hiểu bên trong sự im lặng của tôi là
một trận bão ngầm.
Một người
bà con đã tiết lộ cho mẹ tôi hay
chính anh bộ đội Hoàng Thanh đã
làm việc với Ủy Ban Hành Chánh Xã
và đưa tên bác tôi vào danh
sách địa chủ phải đấu tố.
Tôi nói với mẹ tôi, hãy coi chừng
những anh lính trong nhà mình và mẹ
hãy cương quyết xin cho được tờ giấy
vào Nam. Sau mấy tháng chạy đôn chạy
đáo lên huyện xuống xã, họ
đã chịu cho mẹ và anh em tôi ra đi
đầy đủ, không như các gia
đình khác họ cố tình giữ lại
một hai người.
Ngày ra đi,
giòng họ tôi như một đám tang. Nỗi
vui gặp lại ba tôi phải dấu kín trong
lòng, chỉ có nước mắt tuôn ra.
Tôi không thể nào quên được
hình ảnh bà cố tôi chín mươi
tuổi run run chống gậy đứng bên hông
nhà, đôi mắt nhìn vào khoảng
không. Không một giọt nước mắt,
nhưng tôi biết bà đang đau đớn tận
cùng cảnh chia ly vĩnh viễn những đứa
cháu bà đã chăm sóc bao nhiêu
năm trời.
Thật lạ lùng,
trước khi ra khỏi địa phận làng,
tôi thấy anh bộ đội Hoàng Thanh đang
đứng bên đường cùng vài người
lạ khác. Lúc nầy tôi nhìn anh ta
như một bóng ma cần phải trốn chạy.
Anh ta nói gì đó thật tha thiết với
mẹ tôi nhưng mẹ tôi vẫn dửng
dưng. Quay qua xoa đầu tôi, anh bỗng bật
khóc, nói rằng tính mạng anh em tôi rồi
sẽ bị Mỹ-Diệm hành hạ dã man cho
đến chết trong các trại tập trung.
Tôi rùng mình. Hai khuôn mặt đã in
đậm mãi trong ký ức tôi ngày ra
đi, bà cố tôi và anh bộ đội
Hoàng Thanh, một người để yêu
thương và một người để sợ
hãi.
Phải một tháng
sau khi đến thành phố Huế, tôi mới gặp
lại ba tôi. Ba tôi trở về sau một cuộc
hành quân. Gia đình tôi đã xum họp,
nhưng với tôi nửa phần hồn đã
để lại quê nhà. Tuổi ấu thơ, con
đường làng, cơn gió buốt mùa
đông, cây rau tràng đắng nghét
ngoài đồng sau mùa gặt, mái tranh
nghèo và những người dân quê dạt
dào tình thôn xóm đã chiếm hẳn
một phần trong ký ức tôi. Tôi thích
sưu tầm những bài hát về đồng
quê. Mỗi khi hát bài Tôi Yêu Quê
Tôi, là tôi nhớ từng con đường
nơi tôi đã sinh ra, mảnh đất
nghèo ấy đã ấp ủ và nuôi sống
tuổi thơ tôi. Nhớ đến làng quê
là tôi nhớ đến bà cố, nhớ từng
nếp nhăn trên trán bà, rồi bất ngờ
tôi có thể khóc dễ dàng như một
đứa bé. Trẻ con trong xóm thường nhờ
tôi dạy chúng những vũ điệu Việt
Minh. Chúng nói điệu nhảy ngồ ngộ.
Nhưng tôi lại thích kể những cuộc
đấu tố để chúng sợ hãi.
Ba mẹ tôi gởi
tôi vào một trường nội trú. Con
đường học vấn của tôi đang đi
lên đầy hứa hẹn, thì chiến tranh
bùng nổ dữ dội. Cuối tuần về
thăm nhà, tôi phải vượt qua những con
đường đắp mô, có khi bị
lùa vào rừng cao su nghe “quân giải
phóng” tuyên truyền, rồi chạy bán sống
bán chết khi biệt kích đột nhập giải
vây hành khách. Hai anh tôi đã vào
quân ngũ, ba mẹ tôi kỳ vọng nơi
tôi một đứa con đỗ đạt. Mặc
cho ba mẹ tôi ngăn cản, tôi nộp
đơn tình nguyện vào trường Bộ
Binh Thủ Ðức. Tôi biết điều gì
đã thúc đẩy tôi bỏ nghiệp
thư sinh để nhập vào giòng chiến
tranh.
Chiến tranh đã
lên đến cao điểm. Càng nhiều tổn
thất, càng nhiều thanh niên trẻ bị
đưa vào lò thuốc súng. Một bên
để bảo vệ và một bên để
xâm chiếm. Khắp nơi chỉ có tàn
phá và hủy diệt. Người ta chỉ
xây dựng tạm thời nhưng rồi cũng bị
tàn phá và hủy diệt. Miền Nam như
đã chiến thắng trên các mặt trận,
nhưng lại thất bại trên các lãnh vực
khác.
Thay vì tìm hiểu
cội gốc của chiến tranh, một số người
đắm mình trong giòng nhạc ru ngủ, cổ
vũ luận điệu chủ hòa như những
món thời trang cần chạy theo. Tại Hoa Kỳ,
những kẻ chủ trương rút khỏi cuộc
chiến tranh Việt Nam, những trí thức phản
chiến bạc nhược cộng với mưu đồ
của cộng sản quốc tế đã dẫn
đến một Hiệp Ðịnh mở đường
xâm lăng cho Bắc quân và trói tay
quân lính Miền Nam. Tất cả đã dẫn
đến thảm nạn: làn sóng xâm lăng
đã nhuộm đỏ Miền Nam.
Những gì xảy
ra sau đó ? Thế giới đã thấy
rõ, nhưng tất cả đã muộn màng.
Ngay cả những nhận thức đứng đắn
về cuộc chiến cũng cần đến mấy chục
năm saụ Lớp lớp người bị đưa
vào các trại tập trung nơi rừng
thiêng nước độc. Dân thành phố
phải giao lại sản nghiệp của mình cho kẻ
chiến thắng chiếm hữu để lên sống
vất vưởng trên các vùng kinh tế mới
đầy muổi và vắt. Chưa hết, mong
tìm tự do ở bất cứ nơi dâu,
ngươi ta đã bỏ xác trên biển cả,
trong rừng sâụ Nhân loại chỉ thổn thức
trên ngôn từ, có chăng là chia sẻ một
chút từ tâm nào đó, để rồi
lại tiếp tục chứng kiến những cảnh
man rợ giữa những người cùng màu da
giòng máụ Quê hương tôi
đã tan nát trong chiến tranh, tiếp tục vỡ
ra từng mảnh sau ngày im tiếng súng.
Tôi theo giòng
người lưu cư trên cuộc hành
trình của thảm trạng lưu đày
Babylone. Ngày rời đất Bắc, tôi chưa
đủ khôn lớn để khóc cho một
đời người. Ngày rời quê
hương, tôi mang theo cả một trời tang
thương về đất nước. Tôi mang theo
hình ảnh những thương bệnh binh bị
đẩy ra khỏi các Quân Y Viện với
thương tích trên thân thể để
đau tận tâm can phận người dân Việt
dưới bàn tay tàn độc của người
cộng sản. Tôi mang theo hình ảnh ba tôi quằn
quại trên giường bệnh bên cạnh những
bác sĩ vô lương để đau xé ruột
đấng sinh thành ra đi trong uất hận.
Và tận cùng hành trang qua xứ người,
tôi mang theo ước vọng ngày về với một
đất nước thay da đổi thịt …
1998. Thư viện George
Mason, Virginia.
Tôi đánh rơi một cuốn
sách khi tiến đến quầy check-out. Tôi nghe đâu
đó ai gọi tên tôi. Bảo Trâm,
cô bạn cùng lớp. Ðứng
bên cạnh là một cô gái. Cô gái để tóc khá dài,
khuôn mặt hơi gầy, dáng dấp là lạ.
Bảo Trâm giới thiệu Hoài
Nguyên là du học sinh từ Việt Nam, đang
học trường Nova.
Chúng tôi làm quen với nhau. Tôi hỏi thăm
cô tình hình ở Việt Nam, cô gái Bắc
dường như không sốt sắng trả lời.
Vậy mà sau đó, cô lại nhận
lời đi dự buổi picnic của những sinh viện
Việt Nam tại Springfield tháng
tới. Tôi bỗng có ý
định muốn tìm hiểu những du học sinh
mà chế độ cộng sản đang gởi qua
hàng loạt. Tôi nghe nói gia đình họ
chịu bỏ ra một số tiền lớn để lo
lót cho con cái được qua đây du học,
và bản thân các du học sinh nầy cũng
không để tâm lắm đến việc học
hành.
Công viên vào đầu thu
chuyển qua màu vàng nhạt khiến cảnh
trí thêm sặc sỡ. Thiên nhiên như
đang pha trộn sinh khí mới
để thay cho mùa hè uể oải, nên
người đến đây cảm thấy sảng
khoái. Thanh niên Việt Nam dường
như trở nên tươi trẻ hơn dân bản
xứ, vui đùa ríu rít vơí những
mẩu chuyện không dứt. Trên thảm cỏ,
bốn người đang bày đồ ăn thức uống. Hoài
Nguyên ngồi bên cạnh lễ phép mời
tôi ăn. Không như lần đầu ngại
ngùng tiếp chuyện, hôm nay cô có vẻ
dạn dĩ và gần gũi
hơn. Lối nói chuyện của
cô hơi nghiêm trang nhưng thực tế,
không khách sáo như các cô gái miền
Bắc khác. Thấy tôi lớn
tuổi, cô bắt đầu nhờ tôi chỉ dẫn
vài điều. Cô đang cần
việc làm bán thời gian để trang trải
vài chi phí. Tôi cứ nghĩ
đa số du học sinh như cô đâu có
lo lắng chuyện tiền bạc.
Dần dà, tôi chú ý
đến hoàn cảnh đặc biệt của
Hoài Nguyên. Cô mồ côi cha lúc hai tuổi. Mấy năm sau đó, mẹ cô bị
thương nặng trong trận không tập của
máy bay Mỹ xuống thành phố Hải
Phòng. Sau năm 1975, cô bỏ dở
chương trình du học Liên Xô, để theo đoàn người vào Nam làm việc trong một
xưởng xe đạp ở Saigon
hầu lo lắng cho bà mẹ bị thương. Nhưng cuối cùng, bà đã ra
đi vì thiếu phương tiện chữa trị.
Cô vừa theo học ngành y vừa
đi làm. Nhờ một người bà con
làm việc trong chính quyền, cô xin được
du học tại Mỹ. Cô cho rằng mình là
người duy nhất không phải tốn tiền nhiều
để lo lót cho các cán bộ chạy dịch
vụ.
Trong một thoáng, tôi bỗng muốn
quan tâm đến người con gái nầy. Tôi muốn giới thiệu
cho cô thêm nhiều người bạn Việt Nam ở
đây. Tôi hỏi mà cô
như không nghe. Dường như
cô đang suy nghĩ điều gì. Cô ngập
ngừng một lúc rồi nói:
- Cháu mồ côi cha từ nhỏ, có mẹ
mà cũng như không. Cháu phải
làm việc vất vả để nuôi thân
và nuôi mẹ. Nhưng cháu
không nề hà. Từ bao lâu
nay, cháu chỉ có một ước muốn duy nhất
là tìm được ngôi mộ của bố
cháu và bốc cốt về làng.
Tôi buột miệng:
- Bố cháu có đi bộ đội không ?
- Bố cháu là một chính trị
viên.
- Bố cháu mất ở đâu
?
- Dạ trong Nam.
- Ở đâu ?
- Cháu không rõ. Người
ta đồn bố cháu mất ở cao nguyên.
Bố cháu ra đi lúc cháu mới
hai tuổi, nên cháu không biết mặt,
càng không biết gì nhiều ngoài những
điều mẹ cháu nói.
Tôi đột ngột hỏi:
- Bố cháu tên gì ?
- Dạ Thanh, Hoàng Thanh. Cô bỗng
xoay qua nhìn tôi ngạc nhiên về câu hỏi.
Ðột nhiên tôi liên tưởng
đến quá khứ.
Tết Mậu Thân Banmêthuột.
Vòng đai phòng thủ
đơn vị. Xác chết bên dốc
suối. Chiếc ví da. Tấm ảnh cặp vợ chồng mới
cưới. Hoàng Thanh - Ðoàn Thị Ðịnh.
Thây người trong bụi rậm ba mươi
năm trước là cha của cô bé trước
mặt tôi ? Kẻ đã ở
trong nhà tôi để ngăn cản gia
đình tôi di cư vào Nam ? Kẻ đã gián tiếp giết
bác Tấn tôi ? Tôi
không nói một lời nào sau đó.
Hết sức lúng túng, tôi hẹn
Hoài Nguyên cuối tuần, cũng trong công
viên nầy.
Tôi không tài nào ngủ
được đêm đó. Trước mắt tôi cứ hiện
ra người lính miền Bắc nằm nghiêng, tay còn giữ chặt túi vải,
khuôn mặt như cố nhận ra sự phi lý
ngay khi mảnh đạn pháo binh ghim vào lồng
ngực. Tại sao tôi lại nhớ rõ mồn một
từng chi tiết cuộc lục soát ngày
hôm ấy ? Tôi chập chờn
thấy anh ta lăn lộn trong vũng
máu, lăn tròn xuống suối, cán nát
cỏ cây, bay lên không rồi hạ xuống,
xoay không ngừng quanh vành móng ngựa bằng
tre. Không là cơn ác mộng kinh hoàng,
nhưng giấc mơ đã làm tôi suy nghĩ
miên man những ngày sau đó, như thể
quá khứ xa xăm đang tái diễn lại.
Tòa án Nhân Dân lạnh
lùng sát khí. Rừng người vung cánh
tay lên la hét hoan hô đả
đảo. Những ánh mắt sợ
hãi. Người địa chủ gục xuống
bên vành móng ngựa …
Lần đầu tiên, cô đến công
viên mà không có bạn bè đi theo. Cô xuống xe
buýt, đi chậm rãi đến chiếc ghế
băng dưới tàng cây rậm. Cô
nhìn quanh tìm tôi. Tôi ngồi trong xe quan sát. Trong một khoảnh khắc
ngắn ngủi, một làn gió vừa thổi qua
hay một âm thanh nào đó vang bên tai khiến tôi rùng mình. Có
thể nào đứa con gái đang ngồi kia
chính là giọt máu của người
lính cộng sản mà gia đình tôi
đã trốn chạy ?
Khi đến bên Hoài Nguyên, tôi thấy
cô không còn là đứa con gái
tôi gặp lần đầu trong thư
viện. Cô kín đáo mà cũng sẵn
sàng trò chuyện, xa vắng nhưng lại gần
gũi như một đứa con. Trên khuôn mặt cô, phảng phất một
nỗi buồn từ bao giờ. Tiếc
thay, tôi lại sắp mang đến cho cô thêm
một nỗi buồn. Làm sao vào câu chuyện
đây ? Không chỉ
là một tấm ảnh để trao lại,
không chỉ là một cái chết sẽ
nói ra. Sau cùng tôi cương quyết
đi thẳng vào câu chuyện.
- Chú sắp nói cho cháu một chuyện
quan trọng. Ba mươi năm nay, chú
giữ một vật của một người lính
miền Bắc đã chết trong trận
đánh Tết Mậu Thân ở cao nguyên.
Chú sẽ đưa cháu coi, xem
có … liên quan gì đến việc
tìm kiếm bố cháu không.
Hoài Nguyên chăm chăm
nhìn tôi. Tôi thấy môi cô mấp máy
như hỏi tôi muốn nói gì.
Tôi lấy từ túi áo ra
chiếc hộp. Hình như trong ba mươi năm qua,
tôi không hề mở nó ra. Chiếc hộp
đã theo tôi trên mọi nẻo
đường đất nước và sau cùng
là chuyến đi ngàn dặm qua xứ người.
Có phải tôi giữ chiếc ví vì
người trong tấm hình có liên quan đến
gia đình tôi hay người khuất mặt muốn
dùng tôi như một nhân chứng về số
phận những kẻ bất hạnh trong cuộc chiến
tranh nồi da xáo thịt ?
Hoài Nguyên cầm lấy chiếc
hộp và mở ra.
Cô quan sát chiếc ví da, tôi không
đoán được cảm xúc nào rõ
rệt trên khuôn mặt. Nhưng khi lôi ra tấm
ảnh, mặt cô biến sắc, tay
cô run rẩy, hai mắt mở tròn. Toàn
thân cô bất động. Chính
tôi cũng sững sờ như thể tôi thấy
tấm hình lần đầu. Cô đăm đăm
nhìn bức hình. Ðột nhiên
đôi mắt cô nhòa đi. Không
còn hoài nghi gì nữa, cô đã nhận
ra người thân. Những giọt nước mắt
đua nhau lăn tròn trên
má.
Hoài Nguyên cố cầm nước
mắt bằng cách mím môi lại. Nước mắt đang chảy
vào tim. Không biết
tôi đã để cô yên lặng bao
lâu với nỗi đau tôi vừa khơi lại.
Tôi nhẹ nhàng hỏi:
- Bố mẹ cháu phải không
?
Cô gật nhẹ. Một lúc sau mới nói trong
tiếng nghẹn
- Vâng. Thưa chú. Chính bố mẹ cháu. Cháu cũng
có một tấm hình như thế trong cuốn
album. Mẹ cháu nói bức hình chụp một
tháng trước khi bố cháu theo
đoàn xe tiếp tế cho chiến trường miền
Nam.
Không hiểu sao, khi gặp chú lần
đầu, cháu nhìn được cái
gì đó nơi chú. Cháu
thực sự không hiểu có gì bí ẩn
đã xui khiến cháu nói chuyện gia
đình với chú. Nói cho cháu biết,
do đâu chú có chiếc ví và tấm
hình của bố cháu ?
- Chú không hiểu tại sao mình lại
giữ những kỷ vật nầy trong bao nhiêu
năm. Ði đâu chú cũng mang theo.
Bây giờ những kỷ vật nầy
thuộc về cháu. Ngày trước
chú làm một việc tình cờ, nhưng
hôm nay lại giúp ích rất nhiều cho
cháu.
Tôi nhận ra một điều kỳ
lạ. Tại sao
Thương Ðế đã không để
chúng tôi gặp nhau trên quê hương
mình mà phải đến một xứ xa lạ ? Phải chăng
trên mảnh đất xứ người chúng
tôi dễ cảm thông thân phận của nhau
hơn. Tôi kể cho cô nghe về
cuộc tấn công của cộng sản vào thị
xã Banmêthuột. Lúc nầy
cô đã bình tĩnh trở lại và
chăm chú lắng nghe. Tôi không muốn kể
về những ngày bố cô đến ở trong
nhà tôi, những cuộc đấu tố hay
cái chết của bác tôi mà anh ta
đã can dự. Tôi nghĩ chưa phải
lúc để nói ra.
- Chú còn nhớ địa điểm
chôn bố cháu không ?
- Chú rời Banmêthuột năm 1971, nên
không biết nơi chôn bố cháu có
gì thay đổi không. Nhưng
chú nhớ rất rõ địa điểm.
Ðó là một cái hố chôn tập thể
chừng năm người, phía sau một cái am
trên sườn đồi cụ Ðức. Cháu
đến Banmêhuột nên tìm hỏi những
người đã sống trước năm 1975 về
đồi cụ Ðức phía sau Tiểu Khu, họ
sẽ chỉ cho. Ngôi mộ được
dân chúng đắp cao nhưng không ghi tên
tuổi người chết. Chú tin cháu sẽ
gặp may mắn.
Chúng tôi im lặng một
lúc lâu. Công viên đã vắng người.
Chiều xuống trải những vạt nắng
cuối cùng như những dải lụa vàng phủ
lên cảnh vật và những bóng người
đây đó vẫn còn mải mê chuyện
trò.
Trên đường đưa cô về
nhà, tôi nói đứa con gái đầu
lòng của tôi trạc tuổi cô, mất
lúc ba tuổi sau một tai nạn.
Hoài Nguyên lắng nghe tôi kể cái chết
kỳ lạ của đứa con tôi và tỏ ra
thông cảm sâu xa về mất mát của
tôi. Bỗng nhiên chúng tôi
có một thứ tình cảm mới, cảm thấy
gần gủi và dễ dàng nói ra những
điều mình nghĩ.
- Cũng như bố cháu, chú cũng
là nạn nhân của chiến tranh. Chỉ
tiếc là sau khi chiến tranh chấm dứt, đất
nước mình thay vì hàn gắn và
xây dựng, lại đập đổ và
đánh mất đi nhiều thứ đã
xây dựng được từ hằng thế hệ
trước đây. Kẻ chiến thắng cai trị bằng bạo lực, kẻ bại
trận rủ nhau rời khỏi đất nước. Nhân tài cũng ra đi. Trước khi nói đến
chuyện làm giàu cho đất nước, phải
nói chuyện làm giàu tình dân tộc
trước đã. Chính quyền đã không làm
điều đó. Ðó
là cái bất hạnh lớn nhất cho đất
nước mình. Chú
không tin tương lai đất nước mình
sẽ khá hơn bởi những người đang nắm
giữ quyền bính trong tay hôm
nay. Họ thành công trong việc quản lý con
người nhưng họ thất bại trong việc
xây dựng, kể cả xây dựng tình
dân tộc. Muốn đưa đất nước
đi lên phải có những con người
có kiến thức và lương tri. Cháu
nên có thêm những người bạn Việt
Nam
để chia sẻ về mặt tinh thần. Chú sẽ giúp được điều
nầy. Ðó là những người bạn
trẻ thành công trên đất Mỹ,
nhưng họ vẫn mong trở về xây dựng
đất nước. Chỉ tiếc rằng
họ vẫn chưa thực hiện được
hoài bão của mình.
- Tại sao vậy chú ?
Bây giờ nhà nước sẵn sàng tiếp
đón họ mà.
- Một số người đã về và
thất vọng. Họ tưởng rằng,
đem thiện chí, tài năng và tiền bạc
về là chính quyền sẽ khuyến khích
và tạo điều kiện để họ thực
hiện hoài bão của mình. Họ không thể tin được rằng,
ngay cả những cơ sở từ thiện, những công
tác cứu trợ cũng bị những viên chức
địa phương làm tiền trắng trợn,
nói chi đến đầu tư làm ăn.
- Nhưng mà cháu ngại lắm. Cháu nghe nói những người Việt
Nam
ở đây có thành kiến với du học
sinh.
- Ðó là điều tự nhiên. Nhưng không phải tất cả. Với những người bạn của
chú thì không. Ngược lại,
chú bảo đảm, họ rất cởi mở
và thẳng thắn.
- Thưa chú. Cháu là một đứa
con gái mồ côi từ nhỏ. Từ
lâu cháu chỉ muốn được học
hành, nhưng hoàn cảnh của cháu thật
khó khăn. Nếu không có bà
dì và đứa em bà con, cháu không bao
giờ mơ đến được xứ nầy. Nhưng mà qua đây, mọi cái
đều không như cháu nghĩ. Ngôn ngữ, sinh hoạt, phong tục, mọi
thứ đều khác với đất nước
mình.
- Từ từ cháu sẽ quen. Ai mới
qua đây cũng tâm trạng như cháu.
Chú không tin cháu thuộc những gia
đình nhiều tiền gởi con đi du học, khi
qua đây, những du học sinh lại phung phí ăn chơi, không màng đến
chuyện học hành. Những người
bạn trẻ của chú sẽ giúp cháu.
Ðiều cần nhất là phải kiên nhẫn.
- Cháu không ngại điều đó.
- Vậy là cháu thành công được
một nửa rồi đó.
Chúng tôi cùng cười. Chiếc xe
đã về đến nhà Bảo Trâm. Hoài Nguyên trọ ở đây.
Khi Hoài Nguyên quay vào nhà, tôi
nhìn theo dáng cô khuất sau
một chiếc xe van. Phải đây là đứa
con của người lính cộng sản đã
gieo chết chóc cho gia đình tôi gần
năm mươi năm về trước ?
Nhưng hôm nay, khi nhắc lại quá
khứ đau thương, tôi không một
chút oán hận. Chỉ như một tai nạn của chiến tranh. Như vận
nước không may rơi vào một giai đoạn
bất hạnh của lịch sử.
Bây giờ tôi lại hoài mong
tương lai đất nước sẽ nằm trong tay lớp người như Hoài
Nguyên. Có phải là điều khôn ngoan cần
phải có khi nhìn về tương lai đất
nước bằng cái tình tự dân tộc nhiệm mầu mà người cộng sản
không thể có được ?
Dù sao, Hoàng Thanh đã nằm xuống, đứa
con đã đứng lên bằng cái nhìn
khác, tấm lòng khác, theo một
tiếng gọi khác. Núi xương và
sông máu, qua hằng thế hệ trên quê
hương tôi, là bài học lịch sử
quả đắt giá hơn bất cứ đất
nước nào, hôm nay với kẻ hậu sinh phải
được gẫm suy để đưa vận
nước thoát khỏi cơn mê lầm thế kỷ.
Chiếc xe lịch sử phải chăng đã thản
nhiên lăn trên con đường đầy
máu và nước mắt, cán nát cả
những kẻ thân yêu của mình, bởi
vì lịch sử chỉ có một con đường
để đi …
Khi tôi rời sân khấu, những tiếng vỗ
tay nổ dòn từ những sinh
viên, giáo sư, thân nhân ngồi chật cả
hội trường. Tôi tiến về
chiếc bàn tròn các sinh viên Việt Nam đang
ngồi. Gần một nửa là du học sinh. Họ đứng lên chúc mừng
tôi. Một cô bé trong số du học sinh
chiếm được giải nhì thi viết.
Bà giáo sư Wilma Parker cho tôi hay, bà rất
xúc động ngay lần đầu đọc
bài của tôi, bà nói rằng tôi
có quyền hy vọng nơi ban giám khảo. Trước giờ khai mạc, ban giám khảo
đã đến chúc mừng và cho phép
tôi đọc nguyên bài thay vì tóm
lược như các sinh viên đoạt giải
khác. Có phải đây là đặc
ân dành cho giải nhất toàn trường
? Một điều lý thú là tôi
đã nhìn thấy các sinh viên Việt Nam
đến tham dự khá đông, kể cả một
số du học sinh đã không ngại đến
hỏi tôi về những nhân vật trong câu
chuyện.
Chỉ tiếc một điềụ Hoài
Nguyên đã theo Bảo Trâm
di chuyển về tiểu bang Washington
ba năm trước. Phải chi Hoài Nguyên có
mặt trong ngày hôm nay để nghe câu chuyện
Mảnh Da Vàng, câu chuyện của tôi mà
cũng là câu chuyện của cô, đứa
con của một người lính bên kia chiến tuyến. Và hơn hết,
tôi nghĩ đây cũng là câu chuyện của
những người Việt Nam thời ly loạn, để
rồi khi hết loạn ly, chỉ còn lại những
mảnh da vàng rách nát. Nhưng
là những mảnh da vàng để xót
thương.
Rồi có một ngày dẫn nhau về
nơi chôn nhau cắt rốn, cùng thắp lên
những nén nhang tạ tội với tổ tiên
và ước nguyện cho những người Việt
Nam đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh vừa
qua, bất luận từ phía nào và
nguyên cớ nào, được thanh thản
nơi thế giới nào đó, một thế giới
không binh đao và oán thù.
Virginia, xứ người hồn
tôi.
Chu Lynh
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)