Chén nước mắm và bao vải
bột
ḿ
(TRẦN MỘNG TÚ)
Sang Mỹ cả gần bốn
mươi năm rồi, thế mà mỗi lần dọn
cơm lên bàn cho chồng con tôi
vẫn lúng túng với chén nước mắm. Hôm nay có cần
không? Bao giờ nh́n bữa ăn dọn ra, cũng chần
chừ giữa có và không một phút. Cuối cùng thế nào
cũng phải rót một chút nước mắm vào cái chén
nhỏ, đặt giữa bàn. Có khi suốt bữa ăn
không ai chấm vào, nhưng không có nó, h́nh như bữa
ăn chưa gọi được là hoàn tất. Dù sau này
các con đă ra riêng, chỉ có hai vợ chồng, đă bỏ
thói quen ăn mặn, thế mà chén nước mắm vẫn
luôn luôn hiện diện trong bữa ăn.
Thập niên đầu, khi các con c̣n nhỏ
chưa dùng nước mắm chấm trong bữa ăn th́
tôi c̣n cha mẹ. Cha mẹ ăn cơm bao giờ cũng có
chén nước mắm, chanh, ớt để bên cạnh
như một thói quen, một điều ắt có như
cái bát, đôi đũa vậy. Dù bất cứ hôm đó
ăn món ǵ, có cần đến nước mắm chấm
hay không?
Rót chút nước mắm ra cái chén nhỏ,
mùi thơm mằn mặn bốc lên, như ngửi thấy
cả quê nhà, sao mà nó gợi t́nh, gợi cảnh thế, nó
Việt Nam quá đỗi. Không có chén nước mắm, bữa
ăn không gọi là đầy đủ được và
lại càng không phải bữa ăn của một gia
đ́nh Việt Nam. Đĩa thịt, đĩa cá, bát canh,
đĩa xào, bày đầy bàn. Nh́n đi, nh́n lại, vẫn
như thiêu thiếu một cái ǵ? À, th́ ra thiếu chén nước
mắm. Thế là chưa ngồi xuống ghế được.
Ai đó cất tiếng:
- Chưa có nước mắm.
- Hôm nay, có món nào cần chấm đâu.
- Sao lại không, cứ mang nước mắm
ra đây, thế nào cũng cần đến.
Thế là người đi t́m chén rót
nước mắm, người đi kiếm chanh ớt
đem ra. Chưa có chén nước mắm, bữa ăn
chưa bắt đầu. Chén nước mắm sao mà quan
trọng thế!
Trong những truyện viết về quê
nhà nghèo khổ, bao giờ mâm cơm nhà nghèo, không có thịt
cá ǵ, cũng được tả bằng chén nước
mắm để cạnh đĩa rau cho cả nhà cùng chấm
vào ăn với cơm hẩm. Chén nước mắm là phần
bổ dưỡng nhất cho cả nhà v́ nó có chất
đạm từ cá. Nó giúp cho miếng rau trở nên đậm
đà để miếng cơm hẩm dễ ăn hơn.
Chén nước mắm đó nhiều khi
được chắt ra từ một cái tĩn nước
mắm đặt ở trong bếp, hay ngoài mái hiên nhà. Tĩn
nước mắm mẹ làm bằng những con cá cha
đánh lưới đem về. Những con cá nhỏ sót lại
sau khi đă lựa những con cá lớn mang ra chợ bán
để mua gạo, mua vải may quần áo, mua thuốc
đề pḥng ốm đau.
Đôi khi chén nước mắm đó là
chén cuối cùng làm ra từ những con cá cha đem về.
V́ lần đi biển vừa qua cha đă không trở lại
bờ nữa. Cả nhà chấm chung chén nước mắm
đó th́ làm sao mà quên được. Nếu một người
nào đó trong gia đ́nh, thoát được cảnh cơ
hàn, có đời sống khá giả hơn, ăn những
món ngon hơn, chắc đôi khi hồi tưởng lại,
khó ḷng mà quên được cái chén nước mắm ngày
xa xưa đó. Những giọt nước mắm thơm
và mặn như những giọt lệ.
Sống đời văn minh, phú quư nên
sinh lễ nghĩa. Bây giờ trong gia đ́nh ăn cơm
chung với nhau, rất nhiều nhà không c̣n chấm chung một
chén nước mắm nữa. Không biết từ bao giờ,
người ta nhiễm thói quen, chén nước mắm của
ai người đó chấm, chấm chung không lịch sự,
không vệ sinh dù là giữa những người trong một
gia đ́nh.
Từ chỗ riêng tư này chén nước
mắm thành ra lạc lơng, nó không được đặt
ở giữa bữa ăn nữa, nó mất hẳn cái
địa vị quan trọng cho bữa ăn của cả
gia đ́nh. Chấm chung một chén nước mắm mới
thấy cái ấm cúng, cái t́nh chia sẻ trong bữa ăn.
Chỉ có mâm cơm của người
Việt mới có chén nước mắm. Nói không ngoa, chén
nước mắm nhất định góp phần làm nên
văn hóa ẩm thực Việt Nam.
Từ chuyện ăn sang đến chuyện
ngủ. Tôi nhớ ở quê nhà, anh, chị, em, trai gái, lên bốn,
lên năm thường được ngủ chung với
nhau, có khi đến bảy, tám tuổi vẫn ngủ chung
giường. Gia đ́nh khá giả một chút th́ có pḥng
riêng cho con trai, con gái, nhưng vẫn không có chuyện mỗi
người một giường.Với gia đ́nh nghèo, khi
c̣n bé, anh chị em đều nằm chung giường không
phân biệt trai gái. Nghèo hơn nữa th́ cả cha mẹ và
con cái nằm chen chúc ngủ với nhau trên một cái
giường trong gian nhà một pḥng. Mùa hè quạt cho nhau,
mùa đông ủ hơi ấm cho nhau. Chuyện ngủ
như thế th́ chuyện ăn, chấm chung một chén
nước mắm là lẽ đương nhiên.
Những cô cậu của thời chấm
chung chén nước mắm, anh chị em nằm chung một
giường này, khi đi xa họ có bao nhiêu điều
để nhớ. Nhớ lúc ăn th́ phải nhường
từ miếng cơm, phải nhịn từ giọt
nước chấm. Lúc ngủ chị co người lại
nhường chỗ cho em nằm, anh chịu lạnh
nhường chăn cho em đắp. Kỷ niệm mặn
và ngọt ùa vào đời sống, theo họ mỗi ngày,
nhắc họ bổn phận phải bù ngang, đắp dọc,
sống sao cho đời sống có ư nghĩa hơn.
Chuyển sang đời sống Âu Mỹ
hiện tại, mỗi người phải có một pḥng
riêng. Nhất là trẻ em, trai và gái, chúng không phải chung
pḥng. Ngay cả những người xin hưởng trợ
cấp nhà cửa, nhà nước cũng xếp cho một
căn nhà có đủ pḥng cho các em khác phái tính. Các em
được học từ nhỏ: Cái này là của tôi,
không phải chia với ai cả. Sự riêng tư phải
được tôn trọng.
Căn buồng nhỏ của cậu bé
hay cô bé là chỗ riêng tư, không ai có quyền được
bước vào. Muốn vào, phải gơ cửa, phải xin
phép mới được vào. Vào rồi, cũng không
được nh́n với cặp mắt kiểm soát. Ngay cả
bố mẹ chỉ làm việc này khi con không có mặt ở
đó. Khi ăn th́ miếng ăn nào đă chạm tay vào là
phải cầm lên, không được đặt xuống,
miếng nào đă bỏ vào đĩa ḿnh không gắp sang
đĩa người khác dù thân đến đâu.
Ăn riêng, ngủ riêng, mỗi con người
trưởng thành có một ốc đảo cho riêng ḿnh.
Có buồn không nhỉ? Có người cho
rằng, như thế là dạy đứa trẻ đời
sống văn minh, kỷ luật và tự lập. Nhưng
đôi khi, sự ích kỷ cũng đi theo nó.
Chẳng biết ở những vùng thôn
quê Âu Mỹ, người ta sống thế nào nhỉ. Có cái
ǵ chung đụng mỗi ngày để làm hành trang nhét vào
túi trên đường tha hương không? Khi trưởng
thành nơi xa lạ, có ǵ để nhớ?
Có chứ, chồng tôi lớn lên ở
nông trại Mỹ, thuộc vùng Dillon bang Montana (1949-1957). Anh
kể cho tôi nghe về chuyện đi học. Từ lớp
một đến lớp năm học trong một pḥng học
(One-room school). Mấy nông trại liền nhau chỉ có một
cô giáo. Học tṛ nào may mắn ở trong nông trại có lớp
đó tọa lạc th́ không phải đi xa, c̣n những
tṛ ở nông trại khác cũng phải dậy từ sáng
tinh mơ để đến trường, học mấy
tiếng và khi về th́ trời cũng sắp sang chiều.
Khi các con lớn lên, nhiều gia đ́nh gửi con ra tỉnh
học, hoặc bán trại đi như trường hợp
gia đ́nh chồng tôi, v́ họ biết là họ sẽ có
việc làm ở tỉnh (Mẹ chồng tôi là Trung Úy Y Tá thời
Đệ Nhị Thế Chiến).
Những thầy hay cô dạy ở
"Một pḥng học cho cả trường" đó chắc
chắn sẽ được học tṛ của ḿnh nhớ
đến khi họ đi xa, họ đă trưởng
thành.
Có khác ǵ lắm đâu với những lớp
học của Thầy Đồ ngày trước ở quê
nhà Việt Nam.
Thời Suy Thoái Kinh Tế Thế Giới
(Great Depression 1929-1939) những bà mẹ Mỹ ở nông trại
đă biết truyền tay nhau những công thức nấu
ăn không có muối, làm bánh rất ít đường. Biết
mỗi Chủ Nhật, mọi người mang thức
ăn đến nhà thờ ăn chung với nhau để
người có nhiều hơn chén đường, muỗng
muối chia sẻ cho người không có chút muối,
đường nào (Do đó có chữ pot luck).
Những bà mẹ Hoa Kỳ khôn ngoan c̣n biết
dùng bao bột ḿ, bao thực phẩm gia súc may quần áo cho
con mặc đi học. Họ nói người chồng nông
phu của ḿnh đ̣i hỏi nơi bán bột ḿ, bán thực
phẩm cho gia súc phải in hoa vào bao th́ họ mới mua.
(Nên những xưởng bán thực phẩm đă cho in hoa
vào những bao vải). Tiền bạc vào thời kỳ khủng
hoảng đó rất khó khăn nên công thương, nông
nghiệp phải nhượng bộ với nhau.
Trong cái trường chỉ có một
pḥng học đó có nhiều em thấy ḿnh mặc quần
áo giống bạn (dù không phải là đồng phục)
nên các em hiểu thế nào là cùng chung sự thiếu thốn.
Hóa ra ở đâu những nông gia, những
người nghèo cũng có những nét đáng yêu trong đời
sống khổ cực.
Đôi lúc làm vườn, nhớ đến
quê nhà tôi hay nghêu ngao câu hát: Làng tôi không xa
kinh kỳ sáng chói/ Có những
cánh đồng cát dài/ Có lũy
tre c̣m tả tơi/ Ruộng
khô có những ông già rách vai/ Cuốc
đất bên đàn trẻ gầy/ Có người bừa
thay trâu cày / Làng tôi luôn luôn
vương vài đám khói/ Những
mái tranh buồn nhớ người/ Xơ xác điêu tàn v́ ai/ Nửa đêm thanh vắng không một
bóng trai/ Có tiếng o nghèo thở
dài/Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi. (Quê nghèo - Phạm
Duy)
Đôi lúc tôi nghe chồng tôi kể chuyện
nông trại ở quê nhà, ngày c̣n trẻ, tôi cũng nhớ
đến câu hát của anh học tṛ nghèo: When I was just a youngster and hardly in my teens/
I went to school on many a day with my faded old blue jeans/ The patches they
were many the seat was all thread bare/ But a poor girl didnt notice and a poor
boy didnt care (Life of a poor boy- E.C McCarty)
Từ chén nước mắm trong mâm
cơm Việt Nam đến những chiếc áo may bằng
bao bột ḿ trong nông trại Mỹ là một chặng
đường thật xa nhưng cho tôi nh́n thấy cái
đẹp của sự chung đụng chia sẻ ở
nơi nào cũng giống nhau. Nhất là cái chung trong hoàn cảnh
túng nghèo. Cái đẹp đó đi vào văn chương và
âm nhạc rung động ḿnh suốt cả một đời.
TMT - Tháng
5/2014
(Khánh Dung sưu tầm và chuyển)