LÊN RỪNG THĂM BẠN
(Lâm Chương)
Từ trên đồi cao nh́n xuống,
giữa đại ngàn mênh mông xanh ngắt, đám rẫy của
anh Khan nhỏ như một chiếc chiếu, màu nhạt
lá non. Tôi lặn lội t́m đến giang sơn biệt lập
của anh khi mùa bắp đang rộ trái. Lọt thỏm
giữa đám rẫy là lều tranh. Giữa lều, treo một
chiếc vơng làm bằng bao bố. Những ngày ở
đây, tôi ngủ trên chiếc vơng này. Cái sạp tre để
sát vách, chỗ ngủ hàng đêm của anh Khan.
Đối diện vách bên kia, anh kê
những viên đá làm ba ông táo nấu ăn. Mọi thứ
trong lều đều đơn giản. Phía ngoài, gần
bên hông lều, một cái hố đang đào dở. Hố
rộng bằng căn pḥng nhỏ. Theo lời anh, c̣n phải
đào sâu hơn nữa, khoảng hai thước.
Lúc mới đến, tôi hỏi:
"Đào hố để làm ǵ?"
Anh nói: "Bắt khỉ."
Tôi ngạc nhiên: "Bắt khỉ?"
"Ừ , bắt khỉ."
"Để ăn thịt?"
"Khỉ ốm, chỉ có da bọc
xương. Thịt khỉ lại tanh, không ai ăn."
"Không ăn th́ bắt để
làm ǵ?"
"Để đuổi khỉ."
"Bắt
khỉ để đuổi khỉ? Tôi
không hiểu."
"Cứ ở đây vài hôm th́ hiểu."
Anh Khan không giải thích. Có lẽ anh
muốn dành cho tôi một lư thú bất ngờ.
Buổi sáng sớm, trời c̣n mát,
và buổi chiều, khi mặt trời xuống lấp lửng
trên đọt cây rừng, nắng cũng dịu bớt,
tôi phụ anh Khan trong công việc đào hố. Anh xúc đất
vào cái ki đan bằng nan tre. Tôi kéo đất lên, đổ
chung quanh hố. Anh gầy nhưng sức dẻo và bền,
tôi không b́ kịp. Làm việc với anh, tôi đuối, phải
nghỉ từng chặp. Những lúc tôi nghỉ, anh một
ḿnh xúc từng xẻng đất quăng lên. Anh làm đều
đặn, khoan thai như đang tập thể dục
dưỡng sinh. Đối với anh, không có ǵ phải vội
vàng. Anh quan niệm rằng con
người lầm lẫn khi chạy đua với thời
gian. Đời sống ngắn ngủi
mà một lúc muốn chụp bắt nhiều thứ. Và sau
cùng, cái thứ mà họ không muốn chụp bắt đến
với họ. Đó là sự tử vong. Khi nằm ngắc
ngoải, họ nghĩ lại và thấy rằng họ
chưa kịp sống cho đúng nghĩa một người
đă sống. Nghe anh bày tỏ cái quan niệm sống này,
tôi rất chán, nhưng vẫn hỏi sống thế nào cho
đúng nghĩa một người đang sống? Anh nói,
không tham cầu, không chờ đợi, tận hưởng
sự hiện hữu trong từng giây phút. Tôi hỏi tận
hưởng luôn cả nghịch cảnh, và nỗi niềm
đau khổ? Anh nói nghịch cảnh hay đau khổ là
do tâm cảm. Tại sao không coi đó là sự thay đổi
món ăn của tinh thần? Đă từng ăn những
món dở, mới biết thế nào là món ngon. Tôi cười,
rằng tư tưởng anh được chắp nối
một phần triết Đông, một phần triết
Tây. Anh nói, anh chẳng cần biết Đông hay Tây. Anh sống
theo kiểu của anh. Và anh cũng nói, tôi đă đến
đây rồi, nên bỏ quên sách vở, để cho cái
đầu được nghỉ ngơi thư thái.
Buổi trưa, lúc trời bắt
đầu nắng gắt, tạm ngừng công việc
đào hố. Tôi theo anh Khan đi kiểm soát chung quanh rẫy.
Có những chỗ bị chồn, sóc cắn phá làm bắp
hư hại. Và, vài nơi trên những luống khoai lang bị
heo rừng ủi. Anh lần theo những dấu chân, để
biết lối nào heo thường vào rẫy. Phải trừ
khử những con heo phá hoại này. Anh Khan nói thế.
Tôi thấy chung quanh rẫy có treo những
cái thùng thiếc, buộc ḷng tḥng thêm vài viên đá, và nối
sợi dây dài đến lều.
Tôi hỏi: "Để làm ǵ?"
Anh nói: "Chuyện đơn giản
thế này cũng không biết. Măi chạy theo máy móc tinh xảo,
lo t́m hiểu những chuyện xa vời tận mặt
trăng mặt trời, đến lúc quay trở lại với
đời sống thiết thực cận kề th́ loay
hoay, bối rối."
"Anh chưa trả lời câu hỏi
của tôi."
"Mùa bắp ra trái, thú rừng
thường hay đến kiếm ăn. Nhất là khỉ,
heo rừng, chồn, sóc phá hại mùa màng. Thú rừng rất
sợ tiếng động. Lâu lâu, giựt sợi dây làm
thùng thiếc khua động để thú rừng bỏ chạy."
"Tôi coi trong sách vở, nói người
ta làm những h́nh nộm, trông giống như người
đang giữ vườn, để đánh lừa thú vật
không dám đến gần."
"Chẳng có sách vở nào nói h́nh
nộm để đuổi thú. H́nh nộm chỉ có tác dụng
đuổi chim mà thôi. Trên những cánh đồng, mùa lúa
chín, người ta làm h́nh nộm ở nơi trống trải,
dễ nh́n thấy, để chim muông không dám đáp xuống
ăn lúa. C̣n đây là rẫy bắp giữa rừng, nhiều
cây cối rậm rạp che khuất, làm h́nh nộm không có
tác dụng với thú rừng."
Tôi đến với anh Khan
được ba ngày. Ḷng đă chán. Anh ít nói đến
độ lầm ĺ. Sau những bữa cơm chiều, anh
thường ngồi bập thuốc rê, trầm tư.
Lưng anh hơi c̣ng xuống. Trông giống một h́nh
tượng cô đơn, im lặng ngồi chịu đựng
với thời gian. Tôi nói với anh như thế. Anh chỉ
mỉm cười, xa vắng. Tôi cố gợi chuyện,
bằng cách hỏi tại sao anh tách rời vợ con, lên rừng
một ḿnh như người ở ẩn? Tại sao khi ra
khỏi tù, anh vụt đổi thái độ và lối sống?
Anh ngó mông ra rừng, nói chậm răi, thỉnh thoảng dừng
lại một lúc lâu để bập vài hơi thuốc. Mỗi
lần nh́n lại chặng đường đă đi qua,
thật kinh khủng. Chiến tranh như con quái vật khổng
lồ, theo nó th́ bị nó ăn nuốt, cưỡng lại
th́ bị nó chà đạp. Đàng nào cũng chết, chỉ
có điều chết trước hay sau mà thôi. Anh may mắn
chưa kịp chết th́ chiến tranh chấm dứt,
bước sang giai đoạn khác. Trong t́nh thế mới,
anh bị đẩy vô tù. Ở tù đă khốn nạn,
nhưng ở tù dưới chế độ được
mệnh danh là ưu việt, lại càng khốn nạn
hơn. Những con người của chế độ
ưu việt này, đă phát triển đến cao độ
cái tính nham hiểm và gian trá. Họ biến tù nhân thành những
con ma đói, và hạ xuống ngang hàng với súc vật.
Điếu thuốc đă tàn, anh Khan ngừng lại vấn
thêm điếu khác. Lúc nào cũng có điếu thuốc
đang cháy khi anh nói, và anh cứ bập hoài, như để
trấn an một nỗi niềm, hay để suy nghĩ,
gạn lọc từng câu. Ngày anh được thả ra
khỏi nhà tù, có người bạn cùng chung cảnh ngộ,
kể cho anh nghe hai câu chuyện ngụ ngôn, gọi là chút
quà tiễn bạn, làm vốn sống khi ra khỏi địa
ngục.
Truyện một: Có một
thương gia giàu có, hay đi buôn bán nhiều nơi, gom
góp những vật quư trong thiên hạ về làm của
riêng. Trong số những vật quư này, có con sáo biết nói
tiếng người. Một hôm, người thương
gia nói với con sáo rằng: "Sáo ơi, ta có việc sắp
đi ngang qua quê hương thuở trước của
mày. Vậy, mày có ǵ nhắn cho bạn cũ ở đó, ta
chuyển lời cho." Con sáo nói: "Ông chủ làm ơn
cho tôi gởi lời thăm các bạn, và hỏi chúng có nhắn
ǵ cho tôi hay không."
Khi đến quê hương của
con sáo, người thương gia ngước nh́n lên ṿm
cây, nơi có đàn sáo đang đậu, ông nói: "Đàn
sáo ơi, con sáo quư của nhà ta, gởi lời thăm chúng
bây. Và hỏi chúng bây có nhắn lại lời ǵ cho nó hay
không?" Đàn sáo im lặng. Người thương gia
đứng chờ một lúc. Và lạ thay, từ trên cây,
đàn sáo rớt xuống chết hàng loạt.
Người thương gia trở
về, con sáo của ông hỏi: "Ông chủ ơi, các bạn
tôi thế nào?" Người thương gia nói: "Ta
đă chuyển lời thăm của mày, hỏi chúng có nhắn
ǵ cho mày không, chúng chỉ im lặng. Và sau đó rớt xuống
chết như bị lời trù rủa ghê gớm."
Ngày hôm sau, người thương
gia thấy con sáo quư của ḿnh nằm chết trong chuồng.
Ông xách con sáo vất ra ngoài như một thứ đồ
bỏ. Bỗng, con sáo vỗ cánh bay đi mất, trước
sự ngạc nhiên của người thương gia.
Dứt chuyện thứ nhất, anh
Khan nh́n tôi chờ đợi một sự góp ư. Tôi hỏi
ư nghĩa chỗ nào? Anh giải thích, con sáo bị nhốt
trong lồng v́ nó có giá trị. Giả chết là một cách
đánh lừa người thương gia, rằng nó không
c̣n giá trị nữa. Nhờ thế mà nó thoát được
sự giam cầm. Trong
chế độ ưu việt này, người nào tỏ
ra có giá trị, sẽ bị theo dơi ḍm ngó. Nếu không dùng
được, họ tiêu diệt, chứ không cho sống. Tốt nhất là giả ngây khờ,
chẳng ai thèm để ư, sẽ được yên thân.
Tôi mừng v́ anh Khan đă bắt đầu tỏ thái
độ cởi mở, ít ra anh cũng không c̣n giữ thế
thủ với tôi. C̣n chuyện thứ hai, tôi hỏi.
Truyện hai: Trong một buổi lâm triều,
sứ giả của một nước láng giềng, dâng tặng
nhà vua ba bức tượng h́nh người, và xin cho biết
bức tượng nào giá trị nhất. Nhà vua và cả
đám quần thần cầm lên, săm soi hoài, thấy ba
bức tượng đều giống nhau, trọng lượng
cũng bằng nhau, khó mà phân định bức tượng
nào giá trị nhất. Cuối cùng, vua cho truyền rao trong
dân chúng, t́m người thông minh giúp vua giải quyết vấn
đề ba bức tượng.
Khi nghe chuyện này, có một nông dân
cầm theo ba cọng rơm, lên đường đến
kinh đô, xin vào yết kiến nhà vua để t́m hiểu
giá trị của ba bức tượng. Anh xỏ cọng
rơm vào lỗ tai bức tượng thứ nhất, cọng
rơm thông qua lỗ miệng. Anh xỏ cọng rơm vào lỗ
tai bức tượng thứ hai, cọng rơm thông qua lỗ
tai phía bên kia. Anh xỏ cọng rơm vào lỗ tai bức
tượng thứ ba, xỏ đến cuối cọng
rơm, nhưng vẫn không thấy thông ra chỗ nào.
Anh nông dân cầm bức tượng
thứ ba đưa cho nhà vua và nói, đây là bức tượng
giá trị nhất.
Tôi lại hỏi ư nghĩa thế
nào? Anh Khan cười, nụ cười ít thấy nơi
một kẻ trầm tư, rằng nếu không có lời
b́nh giải kiểu Mao Tôn Cương, th́ tôi khó mà lănh hội
được cái thâm thúy của người xưa. Câu
chuyện trên muốn nói, thứ nhất, tai nghe mà bép xép ra
lỗ miệng, th́ họa
ṭng khẩu xuất, nghĩa là tai họa theo cái miệng
mà ra. Thứ hai, nghe
tai này lọt qua tai kia, không nhớ ǵ cả,
là thứ vô dụng. Cả hai loại người trên, chẳng
giá trị ǵ. Thứ ba, nghe và cất kỹ trong ḷng, không
nói ra. Đây là loại người ư tứ kín đáo. Sống trong chế độ
ưu việt, áp dụng BA KHÔNG: không nghe, không thấy, không
biết, có thể tránh được nhiều tai vạ. Tôi
nói, tránh được tai vạ để giữ tính mệnh,
nhưng sống mà buồn quá, cũng chán. Anh Khan ngước
nh́n lên đám mây cao, nói trời lặng thinh, nhưng bốn
mùa vẫn luân chuyển, vạn vật vẫn không ngừng
sinh hóa. Không ai có thể biết được ngày mai sẽ
xảy ra chuyện ǵ. Hăy chờ xem.
Một ngày, sau bữa cơm chiều,
có hai gă người Thượng ghé rẫy của anh Khan.
Anh giới thiệu, một người tên Y Nôm, người
kia tên SơLum. Cả hai đều nước da ngăm
đen, thân h́nh rắn rỏi. Họ dắt theo một con
chó, loại chó săn, cao gị, bụng thon, tai vểnh, lông có
vằn như cọp. Và mang theo những cái rế đan bằng
mây rừng, giống cái rế lót nồi ở những vùng
quê. Như đă hẹn trước, anh Khan đưa họ
đi quan sát dấu chân heo rừng. Dài theo những lối
heo thường ra vào phá rẫy, họ đặt những
cái rế lật ngửa lên. Giữa rế để một
miếng mồi bằng loại thịt đă có mùi hôi,
được móc với một chùm lưỡi câu. Mỗi
lưỡi câu cột dính với vành tṛn phía trong của cái
rế, bằng sợi cước dài khoảng gang tay.
Tôi hỏi: " Làm thế mà có thể
bắt heo rừng được sao?"
Y Nôm hỏi lại: "Chứ ông
cán bộ nghĩ phải làm thế nào?"
"Tôi nghe người ta nói, dùng một
thân cây níu quằn xuống làm cần bẫy, cột sợi
dây làm tḥng lọng, đặt trên mặt đất. Khi heo
dẵm phải, cần bẫy bật, và cái tḥng lọng siết
gị heo treo lên."
"Ông cán bộ chỉ nghe người
ta nói, chứ ông không có để cái tay làm công việc. Làm
cái bẫy như thế cũng được, nhưng
không tốt và có hại cho con người."
"Tại sao không tốt mà lại
có hại cho người?"
Y Nôm cười, lắc đầu.
Anh Khan nói: "Nó không đủ lời
giải thích đâu. Này nhé, trên đường heo đi,
không dễ t́m được cây nào thích hợp để
làm bẫy. Và khi đă làm bẫy rồi, không dễ ǵ con
heo dẵm chân phải cái ṿng tḥng lọng. Giả dụ,
heo đă dẵm vào tḥng lọng, cần cây bật siết
gị heo treo lên. Nó có thể cắn đứt dây, hoặc cắn
đứt ĺa một cái gị bỏ lại để thoát
thân."
"Trời đất! Nó dám tự
cắn đứt cái gị à?" Tôi kêu lên kinh ngạc.
"Có nh́n thấy cái gị bỏ lại,
mới biết loài heo rừng gan dạ phi thường.
Làm cái bẫy như trên, đă khó lại tốn nhiều
công, nhưng kết quả rất ít. Và chừng nào heo
chưa mắc bẫy th́ c̣n duy tŕ cái bẫy. Nếu lỡ
có ai ngang qua, vô t́nh dụng phải, sức bật của cần
bẫy có thể gây nguy hiểm."
"Thế c̣n cái rế kia, bắt
heo cách nào?"
"Cách nào th́ chờ xem. Có thể
ngày mai, ngày mốt. Không lâu đâu."
"Nếu trong vài ngày, heo không
đi qua lối đặt những cái rế, th́ có cần
phải thay mồi không?"
"Không cần. Heo là loài ăn tạp.
Mồi càng bốc mùi càng hấp dẫn."
Khi hai gă người Thượng
đi khỏi, tôi hỏi anh Khan, tại sao Y Nôm gọi tôi
là cán bộ? Anh nói, tất cả những ai đến với
buôn bản vùng cao, mang cái dáng dấp phi lao động, chỉ
biết đứng nh́n, hỏi những câu ngớ ngẩn,
và chỉ trích phê b́nh, lư thuyết suông mà chẳng làm
được ǵ , họ đều gọi là cán bộ.
Anh nói tiếp, trong thời chiến tranh, người
Thượng đă đóng góp tích cực một phần
xương máu cho sự thành công chiếm đoạt miền
Nam. Người ta hứa hẹn với họ, rằng họ
sẽ được đền bù xứng đáng bằng
cách cải thiện cho đời sống dân buôn bản tốt
đẹp hơn. Nhưng chiến tranh chấm dứt
đă lâu rồi, chế độ đă thành h́nh vững chắc,
mà đời sống của họ vẫn thế, thậm
chí c̣n khó khăn hơn. Họ không c̣n được làm
ăn tự do nữa. Thỉnh thoảng, có những ông cán
bộ từ miền xuôi lên đây, gọi sự tự do
này là sự tùy tiện, thiếu tổ chức. Người
ta đặt ra kế hoạch, bắt họ phải làm
theo khuôn mẫu. Những kẻ không có một chút kinh nghiệm
nào về đời sống giữa núi rừng, dạy
khôn cho kẻ được sinh ra và lớn lên từ bao
đời cha ông ở đây. Tóm lại, người ta nói
về vấn đề cải thiện đời sống,
mà không hề cung cấp phương tiện. Người
ta chỉ muốn tổ chức lại mô h́nh xă hội,
để dễ bề kiểm soát mà thôi. Trên đường
trở lại căn lều, anh Khan nói từ ngày có tôi
đến đây, anh đă phá lệ Ba Không: không nghe, không
thấy, không biết.
Sáng hôm sau, anh Khan và tôi đang ăn
khoai lang lót dạ, nghe có tiếng chó sủa, và tiếng kêu
ơi ới ngoài rừng.
Anh Khan nói: "Y Nôm, SơLum gọi."
Tôi theo anh ra nơi đặt bẫy.
Hai gă người Thượng, mỗi người cầm
một cây lao, đầu có bịt sắt nhọn, đứng
vây một lùm cây rậm. Con chó sủa, nhiều lần dợm
ḿnh muốn chồm vô, nhưng không dám.
SơLum ngoắc tôi: "Ông cán bộ lại
đây coi."
Theo ngón tay chỉ của SơLum, một
con heo rừng lông xám, hai bên mép có nanh dài và cong. Loại heo
độc chiếc, đủ khả năng tách bầy,
đi kiếm ăn một ḿnh riêng lẻ. Nh́n cái tư thế
mắc bẫy của con heo, tôi hiểu được tất
cả những ǵ hôm qua c̣n thắc mắc. Heo táp miếng mồi,
nuốt tới cổ, không trôi được v́ đă mắc
phải những lưỡi câu, cột bởi những sợi
cước dính vào ḷng chiếc rế. V́ sợi cước
ngắn nên cái rế áp sát vào mơm. Heo dùng chân trước
đẩy chiếc rế ra, nhưng không dám đẩy mạnh
v́ sợ sợi cước căng, làm lưỡi câu móc
đau cuống họng. Đẩy một hồi, chân
trước vô t́nh lọt vào một cái lỗ của chiếc
rế. Coi như một cái chân đă bị trói. Cái chân
trước c̣n lại, sẽ tiếp tục đẩy nữa,
rồi cũng sẽ lọt vô cái lỗ khác, không rút ra
được. Thế là cái mơm heo và hai chân trước
hoàn toàn bị khóa bằng chiếc rế. Heo không dám làm
động mạnh chiếc rế, sợ lưỡi câu
móc đau cuống họng. Khi đă mắc bẫy, heo chỉ
có thể lê lết xa nơi đặt bẫy một khoảng
mười thước không hơn. Và, người thợ
săn chỉ c̣n một việc phải làm sau cùng, là phóng
lao đâm vào những chỗ nhược của con heo mà
không sợ bị nó tấn công ngược lại.
Sau vụ bẫy heo rừng. Anh Khan
nói, Y Nôm và SơLum cho biết đàn khỉ đă kéo về lảng
vảng vùng này rồi. Nhưng chừng nào chúng đến
tảo thanh rẫy bắp th́ chưa biết. Một hôm,
tôi thấy vài con khỉ nấp ló trên cây. Anh Khan nói, đó
là những con tiền sát, đi ḍ địa bàn hoạt
động. Khỉ là loài tinh khôn sau loài người. Chúng sống
có đàn. Mỗi đàn có một con khỉ đầu
đàn. Con này sẽ dẫn đàn đi kiếm ăn rày
đây mai đó, như những bộ tộc du mục thời
xưa. Chúng đến cái rẫy nào một lần, sẽ
lẩn quẩn ở đó nhiều ngày, ăn cho tàn mạt
rồi mới chịu đi nơi khác. Con khỉ đầu
đàn, không vào rẫy. Nó ngồi trên ngọn cây cao để
canh chừng, và xua con cháu vào mục tiêu, ăn cho no, c̣n
độn hai bên má làm phần dự trữ. Trước
khi rút lui, chúng c̣n mang theo một hoặc hai trái bắp làm
chiến lợi phẩm, và đóng thuế cho con khỉ
đầu đàn. Khi nào con khỉ đầu đàn la ré
lên là báo hiệu có biến, đàn khỉ đang ăn sẽ
bỏ chạy, mất trật tự c̣n hơn cuộc di tản
chiến thuật từ cao nguyên về miền biển. Tôi
hỏi thế những cái thùng thiếc khua động
chung quanh rẫy, không có tác dụng làm chúng sợ hay sao? Anh
Khan nói, cũng có tác dụng trong những lần đầu,
nhưng nhiều lần sau chúng quen, không sợ nữa. Khi
ta ở trong lều, th́ chúng phá ngoài rẫy. Khi ta ra rẫy,
chúng kéo vô trong lều, lục phá tan hoang đồ đạc.
Một buổi trưa, nghe tiếng
khọt khẹt ngoài rẫy, anh Khan giựt dây khua thùng báo
động và chạy ra xem. Một vạt bắp bị
phá. Nhiều cây găy gục và trái bị cạp lem nhem dang dở.
Anh nói: "Chỉ mới đợt
đầu mà thiệt hại như thế, th́ đàn khỉ
này có thể đông gần trăm con."
Tôi ra b́a rẫy, nh́n lên những ngọn
cây rừng, tất cả đều im ĺm.
"Chúng đă chạy xa hết rồi."
Tôi nói.
"Chưa chắc. Có thể chúng nấp
đâu đó trong những ṿm lá. Thử ném mạnh một
viên đá lên th́ biết ngay."
Tôi ném viên đá, không thấy động
tĩnh ǵ. Anh Khan ném một khúc gỗ mục lên tàng cây khác.
Bỗng nghe ào ào trên cây. Bầy khỉ hốt hoảng chuyền
cành, đổi chỗ ẩn nấp. Chỉ trong vài giây ngắn
ngủi, tất cả đều im ĺm trở lại. Nh́n
kỹ sẽ thấy vài con thu ḿnh trong lá, hai mắt thao láo
nh́n xuống.
Trở lại lều, anh Khan chuẩn
bị bắt khỉ bằng cách đâm một chén muối
ớt thật cay, trộn với cơm nguội, để
xuống hố. Anh dựng thêm một cây tầm vông từ
dưới lên miệng hố, và giải thích, cây tầm
vông làm cái thang cho khỉ xuống hố. Gặp cơm trộn
ớt đỏ, nó sẽ bốc ăn, cay quá chảy
nước mắt, nó sẽ đưa tay dụi mắt.
Tôi cười, bàn tay dính ớt mà dụi vào mắt, th́ chỉ
c̣n có cách làm hiệp sĩ mù nghe gió kiếm mà thôi.
Chuẩn bị xong, anh Khan kéo tôi ra một
góc rẫy, nơi b́a rừng, ngồi dưới bóng cây to.
Anh nói, bỏ trống cái lều, nhường cho bầy khỉ.
Nhưng suốt chiều hôm đó, không có con khỉ nào bén mảng
vào lều.
Hai hôm sau. Trên đường từ
nhà Y Nôm trở về, vừa đến rẫy đă nghe
tiếng con khỉ đầu đàn trên ngọn cây ngoài rừng
la ré lên, anh Khan chạy vội vào lều. Bầy khỉ
tuôn ra, phóng chạy. Đồ đạc trong lều bị
phá tung, vất bừa băi. Dưới cái hố, bên hông lều,
những con khỉ c̣n kẹt lại, tranh nhau leo lên bằng
cây tầm vông. Cứ con này ôm cây tầm vông leo lên, th́ con kia
sợ hăi nắm đuôi kéo xuống, giành leo lên trước.
Rốt cuộc, không con nào lên được miệng hố.
Chúng quờ quạng, loi choi, bưng mặt, dụi mắt,
và la chí choé. Anh Khan rút cây tầm vông lên. Thế là những
con khỉ dưới hố đă hoàn toàn bị nhốt.
Tôi đếm được bảy con.
Tôi hỏi: "Đă bắt khỉ
rồi. Bây giờ, làm cách nào đuổi khỉ?"
"Đến giai đoạn này, mọi
chuyện sau đều dễ dàng."
Tất cả đồ nghề
đă chuẩn bị từ trước. Anh Khan dùng thanh
cây, một đầu có buộc tḥng lọng, tṛng vào cổ
từng con, kéo lên, trói lại. Anh lấy kéo cắt lông trên
đầu khỉ, như bị cạo trọc. Và lấy
sơn màu đen đỏ trắng vàng, phết lem nhem lên
đầu, lên mặt khỉ, trông rất khôi hài. Xong, anh mở
trói, thả nó chạy vào rừng. Lại lôi con khác lên, hớt
lông, sơn đầu ..
Anh Khan giải thích, khỉ có khuynh
hướng nhập bầy. Những con khỉ này, nó sẽ
chạy đi t́m bầy để nhập. Nhưng những
con khỉ khác không c̣n nhận ra bạn nữa, và tránh xa nó
như con vật quái đản. Tự bản thân con vật
bị sơn mặt, nó không biết nó quái đản, nên bầy
khỉ càng chạy tránh, nó càng bám theo để nhập bầy.
Cứ thế, một bên chạy, một bên bám riết,
càng ngày càng đi xa, thật xa.
"Rồi nó sẽ về
đâu?"
"Rừng núi bao la muôn trùng, ai biết
sẽ về đâu."
"Những con khỉ bị bôi
sơn lên mặt, rồi sẽ ra sao?"
"Cũng không ai biết sẽ ra
sao. Nếu nó cứ bám riết theo bầy, có thể một
ngày nào đó, con khỉ đầu đàn sẽ cắn nó
chết."
Sáng mai, tôi sẽ rời khỏi lều
rẫy, bỏ lại núi rừng, từ giă anh Khan để
đi một nơi thật xa. Trong đêm, tôi nằm thao thức
trên chiếc vơng, không ngủ được. Nh́n ánh
trăng khuya lạnh lẽo soi vào căn lều trống trải,
tôi nghĩ đến những ngày cô đơn của anh
Khan giữa đám rẫy đ́u hiu. Tôi lại nghĩ đến
đàn khỉ cứ chạy măi, chạy măi, không biết giờ
này chúng dừng lại hay chưa? Anh Khan cũng không ngủ
được. Anh ngồi dậy vấn thuốc, bất
ngờ anh hỏi tôi, nghĩ thế nào về những con
khỉ bị sơn mặt? Tôi nói, nếu ở Âu Mỹ,
Hội Bảo Vệ Súc Vật sẽ can thiệp cho nó. Anh
bảo, khi tôi sang xứ người, nên t́m đến cái Hội
Bảo Vệ Súc Vật, để nhờ họ che chở.
Và nhớ hỏi họ, rằng giữa vùng rừng núi Việt
Nam, có những "con khỉ người" đang bị
sơn mặt, họ có bảo vệ không?
LÂM CHƯƠNG
(NhuQuanQuach sưu tầm, Trần Hoàng
Vân chuyển)