Bài Quốc ca cuối cùng
(Cao Hoàng)
Hai đứa chúng tôi cùng chặt một
cây lớn. Tôi có một cái búa đẽo c̣n Lâm con có con dao rựa.
Chặt chung một cây th́ có kết quả nhanh hơn là mỗi
đứa ôm một cây. V́ con rựa th́ chỉ chặt
được cây nhỏ, cây lớn mà dùng rựa khó lắm,
nên hai đứa thay phiên nhau cái búa đẽo cho đến
khi cây ngă xuống. Tôi cao hơn chặt phía trên bên này, Lâm con
thấp chặt phía dưới bên kia. Luật ở đây
khi cây sắp đổ phải la cho to. Nẫy giờ mải
nói chuyện: hết chuyện đi học đến chuyện
đi lính, đi tù, không thèm la cho lớn, cây bự đổ
xuống chút nữa là chết trọn thủ trưởng
lẫn chính tri viên, đang âm thầm đi kiểm soát. Thủ
trưởng Nguyễn văn Thôi - người Bắc, cái
tên này thường được đặt cho cậu út
của một gia đ́nh đông con - vừa nhặt lại
đôi dép râu văng đi khá xa vừa nói:
- Nếu hôm nay chúng tôi không nhảy kịp
th́ các anh rầy rà to đấy.
Trong khu rừng hoang vu này mắt Lâm con
đỏ ngầu v́ mệt mỏi chứ không phải v́
thù hận, hai tay nó mân mê con rựa bén ngọt. Chính trị
viên vội kéo thủ trưởng đi, miệng c̣n nói với:
- Cẩn thận nhé! vợ con ở nhà mới
có nhờ chứ!
Câu nói đùa thôi, nhưng thoáng nghe như
một lời đe dọa.
Bấy giờ là mùa xuân, nhưng ở
đây không có mưa, cây khô, lá úa. Gió tháng ba không đủ
lung lay những băi cỏ tranh mênh mông ngút ngàn mà lúc nào
cũng chỉ muốn phựt lửa. Lệnh ban ra cứ
năm anh th́ làm một cái nhà vuông vức, cạnh bốn
mét để ở. Làm những túp lều ấy th́ chúng tôi
đă quá quen. Cây rừng ngay đó, tha hồ mà làm kèo cột,
đ̣n tay; mây tre cần th́ đi xa thêm một tư; tranh lợp
mái nhà ư? cắt mỏi tay không hết. Có điều khá
ngạc nhiên là tại sao không làm nhà lớn để ở
tập thể như từ trước đến giờ.
Có khi ở mấy trại cũ, hai cái nhà lớn cạnh
nhau, mỗi cái chứa cả trăm người, mà người
ta vẫn ra lệnh phá cái vách chung cho đúng tinh thần của
xă hội mới: giúp đỡ nhau triệt để!
Dù cho đó chỉ là sự bốc đồng
thoải mái lâu lâu mới có, những cái lều đă mau
chóng thành h́nh cùng lúc với nhà của ban chỉ huy trại
và các nhà kho lớn hơn. Căn "hộ" xinh xắn
của chúng tôi ở dưới một tàn cây cao và gần
bên một gịng suối; lẽ dĩ nhiên bây giờ không có một
giọt nước. Tôi nhận ra cái suối v́ những ḥn
đá tṛn xếp hàng dài ở chỗ trũng và cũng v́
bên bờ suối cây cỏ bớt khô hơn. Có thể một
vài tháng trước gịng suối c̣n nước chảy róc
rách.
Một buổi chiều có gió, những bông
hoa màu tím lạt theo gió bay đi; tôi chợt nhận ra cái
cây cao lớn đó lại là một cây có hoa rất đẹp.
Ôi thật là thơ mộng trong chốn lưu đày. Tôi vội
nhẩm trong đầu một bức thư cho người
yêu: "Em ạ, sau nhà có một
gịng suối nước chảy róc rách và một cây cao trổ
hoa tím, mỗi khi gió thổi, hoa từng chiếc rơi rơi
.. Năm nay hoa rụng , sang năm hoa lại rụng, không
biết anh có về bên em?". Những lá thư lăng mạn
tiểu tư sản kiểu đó chẳng bao giờ
đến tay nàng. Mà rủi nàng có nhận được
th́ c̣n có thể rung động được không? hay nàng
cũng đă cọc cằn chai đá như anh lính một
chân về từ chiến trường?
Một buổi chiều Lâm lớn ́ ạch
vác ở đâu về một cái thùng xăng của xe nhà
binh đă rỉ sét. Nó bảo:
- Gần đây thôi là một băi chiến
trường, tao thấy có nhiều giao thông hào mà cỏ với
đất lấp gần kín. Mẹ, chúc nữa là té giập
mặt vô cái thùng xăng này. Dựt được nó lên c̣n
dính nguyên cái tay áo màu xanh, lỏng rơi vài khúc xương,
hổng biết của lính ḿnh hay lính nó.
Thế rồi Lâm lớn vác con dao bự
với một khúc cây, cắt thùng xăng một lỗ hổng
lớn h́nh chữ nhật. Ban ngày trời nóng như thiêu
đốt, nhưng tối đến lạnh cũng ra ǵ!
Áo quần th́ cứ mỗi năm mỗi rách tả tơi,
chứ nói chi tới mền gối,. Lâm lớn bỏ củi
vào trong thùng xăng đó, thế là chúng tôi có lửa. Củi
rừng thiếu ǵ, quơ chỗ nào cũng có; ḷ lớn
than nhiều, nóng hừng hực, đă quá! Có ở trong hoàn
cảnh này mới thấy giá trị của lửa, mới
thấu được nỗi vui mừng của người
thượng cổ khi t́m ra lửa mà sinh hoạt của
chúng tôi bây giờ chắc cũng không khác họ bao nhiêu. Có
lửa là có nước trà ngay, có trà th́ phải có thuốc;
tất nhiên chỉ là trà cành nhăn lồng với thuốc rê.
Đêm đêm, sau khi họp tổ xong,
chúng tôi trở về căn cḥi lá, đốt lửa trong
cái thùng xăng cũ và tṛ chuyện đến khuya bên ly trà
thơm ngát hương rừng, bên khói thuốc cay cay từ
hai cái điếu tre thay phiên nhau nhả khói mịt mù mà
chúng tôi gọi là "Đà Lạt khói sương".Tôi
nghe được rất nhiều chuyện kể thật
thà trong căn lều ấy: truyện người anh hùng
tù binh bất tử, nghĩa là là bị đem xử tử
hoài không chết! Truyện người yêu thương
người, truyện người chém giết nhau, cả
những chuyện t́nh ướt nhẹp của mấy cô
em đi thăm cải tạo trên đường rầy
xe lửa. Đêm càng khuya, chuyện càng nồng và lửa
càng bập bùng dữ dội. Có khi chúng tôi ḥ hát với cây
đàn tự chế vẫn mang theo, để cho: "hồn ai đấy đă
trót yêu giống Lạc Hồng, đem thân hiến cho rừng
hoang, hăy về cùng chúng tôi đêm nay,sống tiếp, say sưa
bên khúc nhạc rừng". Ôi căn lều yêu dấu ấy
làm cho t́nh người thêm bao la, làm cho t́nh bạn thêm bền
chặt, mà tôi tưởng dù có mưa to gió lớn cũng
không thể nào lay đổ được..
Giờ này cũng đă bốn giờ
chiều rồi, nắng đổ nghiêng, cái nắng cháy da
cháy thịt mà không núp vào đâu được nữa; tôi
ngừng chặt cây lột mũ nói với Lâm con:
- Nếu hồi năy, cây đè chết hai
thằng cớm đó th́ tao với mày sẽ ra sao?
- Th́ nó lôi ḿnh ra bắn, như bắn Ngô
Nghĩa chứ sao.
- Ông đếch có chịu đâu, ḿnh
mượn hai bộ đồ của tuị nó rồi
đi luôn.
- Mày với tao trốn th́ ba thằng ở
nhà mập đ̣n. Chắc phải về rủ nó đi
luôn.
Bỗng tôi thoáng thấy một con chim
đen bự, bóng loáng bay qua cái vù, ngó theo thấy nó đậu
vào một cây khô rất gần chỗ chúng tôi đứng.
Từ trong bọng cây đó lại có một con chim nữa
bay vụt ra. Lâm con cũng trông thấy, nó la lên:
- Con nhồng làm ổ! con nhồng làm ổ!
Thế là hai đứa tôi vất búa liệng
dao, cưỡi trên ḿnh cây đổ mà coi ; nhưng đợi
hoài chỉ thấy êm ru. Lâm con nói:
- Để tao lên coi.
- Coi chừng đó, cây mục mày rớt
xuống là vợ con hết có nhờ.
- Đừng có lo, nó không nhờ tao th́ nhờ
thằng thủ trưởng cũng được mà.
Nói vậy chứ tôi biết Lâm con leo
trèo giỏi, Mỗi lần nấu canh chua là nó t́nh nguyện
đi hái lá xay, lá bứa liền. Có khi nó chặt cả cành
vác về, vậy tôi mới biết rơ mặt "cái đồ
ngang cành bứa". Canh chua rau muống bột ngọt lá bứa
vẫn cứ tuyệt như thường, đó là nhờ
tài nấu của Lâm lớn.
Lâm con mới leo chưa được nửa
cây mà hai tên nhồng đă la như nhà nó cháy không bằng,
cánh to mỏ bự chớp qua nháng lại làm Lâm con sợ
quá tụt xuống. Nó kiếm cái mũ đội lên đầu
cho chắc ăn rồi lại leo tiếp. Kỳ này nó leo
tới nơi tới chốn, mặc cho mấy con nhồng
la hoảng, nó kiếm thế đứng khá chắc, rồi
thọc tay vô bọng cây. Mới có nửa phút, nó lôi ra một
quả trứng:
- Có ḿnh ên một trái hà!
- Bỏ lại cho tụi nó ấp
đi, mai mốt ḿnh trở lại hốt thằng nhỏ,
khỏe re?
Thay v́ bỏ quả trứng vô bọng,
nó bỏ vô túi áo trên rối cẩn thận leo xuống.
- Sao vậy?
- Ngày mai hả ? Cả đống tụi
nó ra đây. Hai con nhồng thấy người ta th́ la làng,
ai mà không biết cái ổ của nó.
Ngưng một lát, nó tḥ tay vô túi móc ra:
- Cho mày đó, bộ mày không biết ấp
sao?
Tôi chưng hửng; té ra cái thằng Lâm
con này thiệt là khôn. Tôi mân mê quả trứng nhồng;
tưởng ǵ! nhỏ xíu, màu xanh da trời lốm đốm
nâu mà dài thọng, coi bộ c̣n nhỏ hơn trứng cút.
Chưa ǵ hết tôi đă lo đan lồng.
Việc ấp trứng đă có "chị" Lâm lớn
lo rồi, nếu gặp ca lao động nặng th́ tôi sẽ
gánh cho nó. Tên nó là Lâm nên nó có đi học trường Nông
Lâm Súc là phải rồi. Cầm quả trứng trong tay có
lót mấy lớp lá khô, nó lo lắng:
- Thằng Tuấn ḷ rèn ngày mai mày lén khẩn
cấp g̣ cho tao cái thùng tôn vuông vức mỗi bề hai
gang,trên có nắp, đục lỗ thông hơi năm mặt
trừ mặt dưới.
Nó bảo tôi:
- Mày đi lấy rơm rác hay cỏ
tranh khô cuốn cho tao một cái ổ chim ngon lành coi.
- Lâm con mày qua tổ một biểu thằng
Giáp cho tao mượn cái kẹp thủy được
không?
Thằng này rất bực ḿnh khi ai gọi
nó trước mặt là Lâm con, nó vặn lại:
- Chứ mày làm cái giống ǵ?
- Tao lo cái đèn dầu, lẹ lên, đừng
có kiếm chuyện, lạnh thêm chút nữa là thúi mẹ nó
con nhồng.
Măi rồi cái trứng nhồng cũng phải
nhúc nhích. Y như gà con, nó đục một lỗ nhỏ
xíu, lúc lắc đă đời ở trong đó tới chiều
mới chịu chui ra. Trần trụi run rẩy, chừng
vài tiếng th́ nó há mỏ ra đ̣i ăn. Sơn trân hải
vị ǵ khó chứ cào cào châu chấu th́ thiếu giống
ǵ. Hôm nào đi làm về tụi nó cũng móc ra cả đống.
Tôi đan thêm cái rọ nhỏ, bỏ lũ này vào cho nhồng
con ăn dần, cẩn thận ngắt cái đầu cứng
ngắc và cặp gị gai góc. Chỉ tuần lễ là lông
đă mọc kha khá, che bớt cái bầu diều mỏng
dính như tờ giấy bóng.
Không thiếu ǵ các sư phụ đi
ngang qua chỉ tôi cách nuôi nhồng, tập nói như thế
nào. Tôi biết người ḿnh ai cũng là những ông thầy,
cứ ừ hử mà nghe:
- Nhồng càng lớn th́ phải cho mồi
càng nhỏ. Có lẽ đúng, v́ họ đă quan sát nhồng
bố, nhồng mẹ thay phiên tha mồi từ lúc con c̣n bé
đến lớn.
- Chớ có cho ăn thịt nạc, mà phải
cho ăn con ǵ c̣n nguyên bộ đồ ḷng như cào cào hay
thạch sùng th́ mới tiêu hóa được.
- Vậy cũng nói - tôi cự - Mẹ, mỗi
năm ngày thằng chả chết mới có một hai cục
nhỏ xíu, giờ lấy ǵ cho nó ăn mà lo.
- Chừng một tháng đem ra băi rộng
tập, vừa tập vừa cho ăn lúc nó đói.
Chẳng bao lâu con nhồng của tôi
đă đủ lông đủ cánh bộ dạng lanh lẹ
như một cậu trai choai choai. Lúc này không có một thằng
sư phụ nào qua đây nữa để tôi hỏi xem
con nhồng này là trai hay gái. Cuối cùng tôi khoái giống cái
hơn nên đặt tên nó là Mỹ Huyền cho đúng với
bộ lông đen óng ả, cái mỏ đỏ như trái
điều, cái tai vàng tḥng xuống như đeo vàng ṛng.
Thiếu ǵ cha mẹ đặt tên gái cho
thằng nhỏ có con cu rơ ràng là Châu là Dung là Bích là Huyền;
có đứa nào dám căi không à! Tôi đây đặt tên gái cho
con nhồng của tôi cũng đâu có biết trúng hay trật.
Mà cứ nghĩ lại đi, mấy ông nội tên con gái ấy
lại thường có danh đấy. Cứ đặt tên
đứa con gái của ḿnh là Nguyễn Bội Châu hay Lê Bội
Châu đi, tôi bảo đảm vô học lần đầu
ở lớp nào cũng bị gọi là anh Châu đấy.
Tôi cũng mong Mỹ Huyền của tôi sau này sẽ khá, ít
ra là hơn tôi bây giờ.
Nhưng một biến chuyển xảy
ra. Thủ trưởng mới tới không khoái mấy cái lều
con, không khoái nấu ăn lẻ tẻ, đốt lửa
tưng bừng. Chúng tôi bắt đầu vào rừng kiếm
cây thẳng, đ̣n dài, mây tre lá cọ để chuẩn bị
làm nhà lớn ở chung cho mau tiến bộ. Có điều,dù
là lều hay nhà thật lớn th́ những vật liệu
cũng giống hệt nhau là cây rừng, mây, tre, lá. Thật
là giản dị không cần một cái đinh nào cả: thời
đại đồ kim loại đă đi qua không chút nuối
tiếc. Chỉ có tôi than thầm sao những ngày hạnh
phúc ở trong cái lều nhỏ đă qua mau, và đó
cũng lá khoảng thời gian duy nhất mà tôi thấy câu
"nhất nhật tại tù .." trật lất.
Trại mới cao ráo hẳn, có bốn
cái nhà dài dựng song song với nhau dành cho bốn tổ của
đội một. Đội hai và ba nằm kế tiếp
đội một nhưng cách một khoảng xa chừng
trăm thước. Tôi ở tổ bốn đội một,
thành ra ở sát ngay b́a rừng, cũng dễ chịu khi buổi
chiều đi lao động về là chơi với con nhồng,
giờ đă khôn lanh nói năng đủ điều. Trại
này tương đối dễ: ai muốn nuôi con gà con qué
th́ cứ việc nuôi, trồng cây ớt cây cà cũng
được. Khi tôi đi, nhồng bay lên cây trong khu rừng
gần đó, khi tôi về nó bay xuống. Thương ai nó
đậu trên vai rủ rỉ rù ŕ, Ghét ai nó móc đũa
muỗng bàn chải răng của người ta tha đi
khắp chỗ, t́m lại muốn khùng. Người lạ
không dễ ǵ bắt nó nên tôi cũng đỡ lo.
Hồi nhỏ, trước nhà tôi có một
ông nuôi con két. Bà bán đặu hũ có lần than thở
"không biết có cái cậu nào cứ chọc ghẹo tôi
hoài", c̣n nhà kế bên th́ tức lắm. Nhà này chứa bạc
quanh năm suốt tháng mà con két cứ lâu lâu la thật to và
thật nhanh bằng cái giọng xứ dân gầy:
- Bớ .. .. cảnh soác, cảnh soác!
Nhồng vốn thông minh hơn két xanh nhiều
lần, ở đây lại đông vui nên nó tha hồ trổ
tài, có khi nó văng tục bừa băi theo các thầy của
nó. Con két hồi nhỏ không thấm thía ǵ với cô Mỹ
Huyền này cả; nhưng tôi có nghe nói két trắng thông minh
lắm, có khi hát cả bài bằng tiếng người.
Mới sáng, kẻng chưa gơ, cô đă
bay tà tà vào lán:
- Dậy, dậy đi lao động
- Đạt chỉ tiêu, đạt chỉ
tiêu ..
Chiều c̣n nắng, c̣n được
nghỉ ngơi, cô đă mời đi họp đội.
đau nhất là thỉnh thoảng cô nhắc nhở "lao
động tốt, học tập tốt th́ về" ôi
thật là "Con oanh học nói trên cành mỉa mai". Có
đứa bực ḿnh với đại cái ǵ đó ném vào
cô, cô tránh né rất tài, bay vụt ra cây cao; cành nhỏ lá non
hơi trĩu xuống một tí rồi bật lên rung rinh
như làn sóng. Cô dang đôi tay mềm mại của một
vũ công nhà nghề lấy thăng bằng, cái áo đen
đẹp tuyệt trần nổi bật trên màu xanh lá non,
mỏ đỏ au hé mở và tiếp tục ca bài mỉa
mai đó.
Hôm ấy chúa nhật được nghỉ,
Lâm lớn dẫn ở đâu về một tên bạn, giới
thiệu trịnh trọng với tôi:
- Sư tổ của những nhà nuôi
chim.
Vưu, tên anh ta, dáng người mảnh
mai, da trắng xanh, con mắt sâu thăm thẳm. Tôi đă gặp
cả chục sư phụ dạy nuôi chim, nay lại
được gặp sư tổ, đem ḷng ngưỡng
mộ nên mời ngồi trên cái sạp gỗ thùng đạn.
Lâm đă có ngay điếu thuốc lào và đang kiếm
nước trà mời khách. Chưa biết tài dạy chim
như thế nào, nhưng chỉ mười phút sau tôi
đă lạc vào cái kiến thức bao la của một nhà
sinh vật học. Đầu tiên anh nói về con quạ,
con vật xấu xí và dơ bẩn như đa số chúng
ta nghĩ. Quạ có trí thông minh vượt bực và khả
năng đoàn kết chống lại kẻ thù chung có khi
là người. Hăy thử làm chết hay bị thương
một con quạ đi, cả bầy chúng nó có khi hàng mấy
trăm con bay lượn trên nhà bạn kêu la chửi rủa
hàng tháng trời. Anh tiếp: hồi đi du học bên Mỹ,
chính anh trông thấy ngay ngă tư, một con quạ bỏ một
hột cứng trên chỗ vạch sơn dành cho bộ hành
qua lại lúc đèn đỏ bật lên. Khi đèn xanh, xe
chạy qua cán bể hột, con quạ lại đợi
đến lúc đèn đỏ bay xuống lượm cái
nhân mềm bên trong và cứ tiếp tục như thế.
Tôi góp chuyện với anh là khi tôi c̣n bé chừng mười
hai tuổi, tôi leo lên mái hiên nhà bắt tổ chim. Vừa
đặt tổ chim có hai anh sẻ mỏ vàng ngơ ngác xuống
sân gạch, c̣n đang say mê ngắm nghía cái chiến lợi
phẩm to lớn này, tôi bị hàng chục con sẻ tấn
công; tôi hết hồn chống đỡ túi bụi. Khi nhớ
ra cái tổ chim th́ hỡi ơi lũ chim sẻ khác đă kẹp
nách nhấc bổng hai chim con bay mất, chỉ c̣n lại
tổ không. Anh gật gù cho điều đó hoàn toàn
đúng sự thật; v́ trong đám sẻ đó có một
anh sẻ Khổng Minh hay Tôn Tẫn ǵ đó bày kế
dương đông kích tây. Anh kể tiếp anh đă
được xem một cuốn phim tài liệu về một
loài chim nghệ thuật. Đó là những nghệ nhân của
loài chim: con trống xây dựng một vườn hoa, trang
trí với cổng chào, mái nhà trước khi mời con mái
đến tỏ t́nh. Anh nhấn mạnh rằng kiểu
trang trí này thay đổi liên tục tùy theo vật liệu
nó kiếm được; bằng hoa cỏ núi rừng nếu
chúng ở gần thiên nhiên; bằng những đồ vật
của người, nếu chúng đủ sức tha
được, có khi ở gần trại lính nó tha cả
vỏ đạn về trang trí.
Sự phối hợp đẹp mắt
và tài t́nh đền nỗi anh nghĩ anh không làm nổi.
Vưu c̣n nói đến và diển tả ra những điệu
múa, những nghi lễ mà hai con chim thực hiện trước
khi giao t́nh. Anh hỏi bâng quơ không biết Kinh Lễ của
Khổng Tử có viết về những nghi thức này cho
người không hả? Tôi vẫn lắng nghe nhưng
đưa mắt t́m con nhồng mà năy giờ anh chưa
đá động. Như hiểu ư anh bảo:
- Con nhồng này không phải là con nhồng
nữa đâu. Nó có ǵ gọi là chim ngoài cái h́nh hài. Từ nhỏ
đă sống với người, chắc chắn sẽ
tinh ma quỷ quái như người. Đùng có sợ những
con nhồng khác gọi đàn đi theo tụi nó.
Và anh lại nói tiếp về hiện
tượng chim gọi đàn một cách rất khoa học
mà trước đây tôi chỉ được đọc
một cách khác nơi những nhà văn. Bỗng anh cao giọng
hơn:
- Chim hàng triệu năm trước là
loài ḅ sát tiến hóa thành, anh cười cười, để
yên tôi biến nó thành người - một người có
tư cách.
Vưu đứng dậy bước ra
sân, miệng huưt gió một điệu lạ lùng, bàn tay
giơ lên mời gọi. Con nhồng của tôi lật
đật bay xuống đậu lên ngón tay của hắn.
Ở trong tổ này có ai mà gọi được nó xuống.
Cho dù là nó rất đói, cầm con cào cào trên tay dễ ǵ mà
gọi được nó xuống, ngoại trừ là tôi hay
Lâm lớn. Nhưng Vưu như có ma thuật: nó bảo
đậu lên vai là đậu lên vai, bảo bay một ṿng
là bay một ṿng; đă thế em Huyền lại c̣n áp đầu
vào tai nó mà rù ŕ mới bực ḿnh làm sao chứ! Tới
đây Vưu rút trong bụng một cây sáo đen thui, nhe
răng cuời nói hai tiếng thiệt gọn:
- Tặng anh.
Tôi mân mê cây sáo gỗ mà thấy giựt
ḿnh. Thằng này chuẩn bị kỹ quá: quen tôi qua thằng
bạn thân nhất; chuẩn bị một kiến thức
về chim nói cả tiếng đồng hồ chưa dứt.
Biết tôi là tay chơi sáo, nó mang tặng tôi một tuyệt
phẩm bằng gỗ mun. Chắc là nó muốn rước
em Huyền về dinh nó nghỉ ngơi.
- Cái sáo này anh làm đó hả?
- Làm khỉ ǵ được, anh coi kỹ
đi, coi tụi ḿnh ở đây làm nổi không (hắn lật
đật cải chính)
Tôi nh́n kỹ hơn: khẩu độ
này chắc là sáo giọng La. Các lỗ đục rất sắc
cạnh, có lỗ lớn lỗ nhỏ, đó là cách để
chỉnh một thang âm hoàn hảo; khoảng cách của các
lỗ vừa phải dễ xử dụng. Sáo được
nối làm ba khúc, đường ráp nối khít khao, chắc
nịch, chứng tỏ một chuẩn xác phi thường.
Nhưng kỳ công là ở những bông hoa cúc bằng xa cừ
cẩn giữa ḿnh sáo. Để diễn tả cái nét thanh
tân, mùi hương nhẹ của hoa cúc, người ta
đi những nét cẩn chỉ nhỏ như sợi tóc.
Mô Phật. Tại sao người ta lại làm được
tinh vi đến như thế này? Tôi đưa sáo lên môi thổi
thử. Ai bảo gỗ mun làm chết tiếng? Mun cũng
có nhiều loại chứ. Tiếng trầm vừa ngân vừa
ḍn, tiếng cao vừa trong vừa sắc. Sáo mỏng lét,
nhẹ tênh, hơi gió lướt qua đầu ngón tay rung
nhẹ đê mê.
Tôi vốn mê sáo hơn mê chim, nhưng nào
phải kẻ bạc t́nh. khổ cái, tôi không xứng
đáng làm thầy em Huyền, mà cái thằng cha nhè cây sáo thần
mà đem cho th́ cũng chả mấy lăm hơi mà đ̣i
múa ŕu. Tôi ngại ngần với câu "dùng dằng nửa
ở nửa về!" sau cùng th́ đành đoạn:
- Anh mang em Huyền về đi, c̣n tôi
mượn đỡ cây sáo này.
Hắn chỉ đợi có thế, cúi rạp
ḿnh xuống chào như tên hề rồi bồng tót em Huyền
qua đội ba mất dạng. Chết mẹ! tôi muốn
chạy theo, không biết cái thằng ma quỷ đó nó sẽ
làm ǵ? không chừng trao trứng cho ác! Nhưng Mỹ Huyèn
không đi đâu xa, thỉnh thoảng nó bay về thăm,
càng ngày càng tinh ranh gấp bội. Có hôm nó bay về ngậm
một miệng toàn tiêu hột, tôi gật gù: "thứ
này là xa xí phẩm đó". Có hôm không biết nó lấy ở
đâu ra một cái ống nhỏ bằng plastic trong,dài bằng
phần ba cây đũa, trong đựng toàn bột vani. Thằng
Lâm lớn mừng lắm: "thứ này là quốc cấm,
để đó tao nấu chè".
Năm tháng vẫn nặng nề trôi qua.
Đôi khi trở lại chốn cũ: gịng suối đă
có nước chảy róc rách, cỏ mọc xanh um, cây hoa tím
vẫn c̣n đó, chưa ra hoa. Nhưng cái lều không
người ở, không lửa ấm mục nát xiêu vẹo
rất nhanh, khiến tôi không khỏi chạnh ḷng. Tuấn
đen và Nghĩa bay đă chuyển đi trại khác, tiếng
ở đây gọi là đi biên chế; nhưng tụi tôi
cũng biết đi biên chế th́ khác xa với vào biên chế.
Bây giờ đă bắt đầu vào mùa mưa, khí trời
trong hơn. Những cơn mưa đầu mùa khi khoan khi
nhặt rào rạt trên mái lá. Mưa đến chúng tôi bớt
phải lao động, nên có th́ giờ chiến đấu
với đám quần áo rách rưới, chiến đấu
với những con chuột và những con rệp càng ngày
càng lộng hành. Những con chuột to bự chạy rầm
rầm trong mái lá thỉnh thoảng rớt xuống cái bịch
bất tỉnh nhơn sự, rồi tỉnh lại phóng
chạy. Có bạn kêu trời không thấu v́ cả một
hũ chao đựng đậu phụng bị chuột lủm
hết. Có bạn phàn nàn: "đêm các cậu ấy giựt
tóc tớ, các cậu ấy tưởng tóc tớ là miến
gà đấy!". Mỗi buổi sáng coi trong mùng thấy
bao nhiêu là con rệp mọng đỏ những máu, đang
khoan thai t́m đường đào tẩu. May quá đă có
Giáp ra tay trừng trị. Có lần tóm được anh
chuột bự, Giáp nhờ tôi giữ hộ tay chân. Tôi chẳng
thèm giữ, đi t́m miếng gỗ, đóng bốn cây
đinh, cẩn thận cột anh chuột ngửa tênh hênh
rồi xoa tay coi Giáp giở tṛ ǵ. Trịnh trọng lôi ra bộ
đồ mổ thứ thiệt vợ mới mang lên, hắn
mổ chim con chuột, nhét vào đó một hạt cát lớn,
rồi khâu lại, tinh vi tỉ mỉ c̣n cao cấp hơn
má tôi may đồ mấy bậc, mặc cho anh tư rên la thảm
thiết. Xong rồi Giáp nói với con chuột:
- Lần này cảnh cáo, lần sau tái phạm
tớ khâu đít lại th́ cậu đừng có trách.
Tới phiên tôi cắt dây phóng thích, cẩn
thận đừng để nó cắn. Anh tư vùng chạy một
hơi không hề ngó lui.
- Mày làm vậy là nghĩa lư ǵ?
- Th́ cứ đợi thử đêm nay
xem.
Hỏi măi nó cũng không thèm nói nữa.
Đêm tới, chẳng thấy yên ổn ǵ, chỉ thấy
chuột cắn nhau thập phần dữ dội, nhưng
hôm sau th́ êm hơn nhiều.
Tôi lại phục tài Giáp nữa khi nó trị
rệp.
- Tụi bay lấy đinh đóng những
miếng ván lại thật chắc, nên rệp núp trong mấy
cái khe ván, đêm nó ḅ ra hút máu rồi lại rút về chiến
hào sinh con đẻ cháu. Xem này, chỗ tao nằm đâu có
cái đinh nào. Những miếng ván tao kê lên hai cây đà, lúc
nào cũng di động khi tao cựa ḿnh th́ bố thằng
rệp nào có gan chui vào đó ở? Nhưng lên giường
nằm là phải cẩn thận, hụt chân là gẫy cẳng;
ngủ không yên lăn qua lộn lại, lăn tới mép
giường là văng xuống đất vỡ đầu,
đừng có kêu réo tao băng bó với thuốc thang ..
Một buổi sáng trời êm, không
mưa không nắng, tất cả tụi tôi, cả đội,
xách hết đồ đạc ra bán chợ trời ở
cái khoảng trống ngang bốn tổ. Mỗi anh trải
chiếu hay tấm vải nhựa xuống đất, mang
tất cả nghững đồ đạc ḿnh sở hữu
kể cả tiền bạc lẫn quư kim cho công an đi ngắm.
Lệnh xét đồ lần nào cũng triệt để
bí mật và thực hiện khẩn cấp, để không
có ai có th́ giờ mà giấu mấy món quốc cấm hay
vũ khí; nhưng cũng là dịp để cho công an xem
anh nào c̣n có chút máu mặt. Lần đó tôi có 7 đồng bạc
và một quyển sách quư là quyển sách dạy đánh
đàn Tây ban cầm của ông Ferdinand Carulli viết ra từ
những năm đầu của thế kỷ 19. Cán bộ
đi qua thấy quyển sách đỏ ḷm, cầm lên ḍm dữ
dội, hỏi:
- Dấu hiệu ǵ thế?
Tôi chưa kịp trả lời, cán bộ
nói tiếp:
- Đề đánh điện đài
đấy phỏng? Tịch thu.
Tôi ú ớ không biết giải thích ra
sao, may quá đội trưởng can thiệp - thằng này
cũng đang muốn mượn chép ít bài - không th́ ông
Carulli cũng tan theo thành khói thuốc lào hay c̣n tệ hại
hơn là đằng khác. Rồi cứ từng anh đứng
đợi quan khệnh khạng đi kiểm soát.
Trong cái không khí trong lành và yên tĩnh của
"một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh"
ấy, một tiếng hát cất lên khá to, lanh lảnh, nghẹn
ngào giống như người vừa hát vừa khóc:
Chiều mưa biên giới anh đi về đâu?
Sao c̣n đứng ngóng nơi giang đầu ..
Giọng khá tốt, trên phương diện
kỹ thuật tôi chấm cao độ và trường
độ rất chuẩn.
Công an nhớn nhác:
- Đứa nào đấy, nôi cổ nó
ra đây.
Vài tay công an khác xục ngay vào trong lán
để t́m cái thằng lỳ đó. Có ở lâu trong tù mới
thấy hát như thế th́ cũng chưa có ǵ gọi là ĺ
cả. Tụi nó kể ở Suối Máu, nguyên trại tù
hát nhạc Chính Huấn cả đêm như là bài "cờ
bay, cờ bay" hoặc là bài "giặc từ Bắc
vô đây bàn tay vấy máu anh em .." như thế mới
ĺ đ̣n chứ.
Bẵng đi một lát, ở một chỗ
khác lại cất lên, cũng vẫn bài Chiều mưa biên
giới của Nguyễn Văn Đông:
Ḷng trần c̣n tơ vương khanh tướng,
th́ đường trần mưa bay gió cuốn, c̣n nhiều
anh ơi ..
Công an lại càng điên lên, súng lên đạn
răng rắc. Hồi này có nhiều tù mới nhưng không
phải là đám lính miền Nam thua trận mà là những tù
rất trẻ. Công an gọi họ là tù hiện hành, tắt
của chữ Phản Động Hiện Hành. Tuổi trẻ
miền Nam bây giờ ngon lành lắm, họ vùng lên chiến
đấu kịch liệt, nhưng thiếu chỉ huy, thiếu
kinh nghiệm nên bị bắt rất nhiều; có thể họ
đang chọc giận công an. Nhưng tiếng hát lần
sau nghe chơi vơi xa vắng h́nh như người
đó vừa hát vừa di chuyển nhanh. Dù sao tiếng hát
đă dội vào tâm khảm chúng tôi bàng hoàng đau đớn.
Vậy ai là công hầu là khanh tướng mà đường
trần mưa bay gió cuốn tả tơi như thế
này?
Thằng Nghĩa bay gặm có khúc bánh ḿ
mà bay ngày qua ngày đêm qua đêm, ở dưới là pḥng
không thụt lên như mưa. C̣n lũ chúng tôi:
Gió sương ṃn rách cả vai
Ngủ b́a rừng nhơi bao cơm sấy
Súng liền tay
Mấy ngàn đêm diệt lũ giặc Hồ
Thấy lửa hung tàn bùng lên từ một
căn nhà th́ phải nhào vô cứu chứ? Đâu cần biết
căn nhà đó mới hay sắp mục, chủ nhà là
người tốt hay người xấu, giàu hay nghèo. Cứ
nhào vô mà cứu v́ nhiều người yếu duối, trẻ
thơ cần được cứu mà. Có phải muốn
làm công hầu khanh tướng ǵ đâu!
Chúng tôi vẫn đứng yên, ngoại
trừ đội trưởng, tổ trưởng và
đám công an xách AK lăng xăng đi t́m "cái thằng
bố nếu bố náo ấy". Một lúc khá lâu vẫn
êm, tôi nghĩ người ấy đă đi xa rồi, bỗng
nhiên tôi nghe rất gần ngay phía trước cũng giọng
hát ấy nhưng lớn hơn, cao hơn, hùng tráng hơn:
Thanh niên ơi mau hiến thân dưới cờ
Thanh niên ơi mau làm cho cơi bờ,
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang ṇi giống, xứng danh ..
Đùng! đùng! .. nhiều tiếng nổ
lớn liên tiếp. Đại ngàn đang yên lặng bỗng
xôn xao, tất cả tù phóng xuống nằm sát đất
chuẩn bị tránh đạn giao tranh .. nhưng rồi lại
thấy êm, th́ ra đó chỉ là vài tay công an giận quá bắn
sảng.
Đời sống tù đày lặng lẽ
chán ngắt lại tiếp tục, ngày nối ngày, đêm
qua đêm cho tới khi tôi được thả.
Mười năm sau, lưu lạc xứ
người một hôm tôi gặp lại Vưu trong một
cửa tiệm lớn bán đồ cũ. Rất dễ nhận
ra anh v́ trông anh không có ǵ thay đổi: một bộ lính
cũ, không lon lá huy chương, có thêm cái mũ đen đội
lệch và đôi giày "map". Ở đây đă lâu,
nhưng tôi chưa từng thấy anh xuất hiện trong
những ngày kỷ niệm tháng tư đen. Anh luôn luôn mặc
đồ lính v́ có lẽ nghĩ ḿnh vẫn c̣n là người
lính năm xưa; Cũng như anh thấy ḿnh bất lực
trong việc đào tạo lớp trẻ thay thế, không
thấy cái nhu cầu phải lănh đạo cộng đồng,
và nhất là khi thấy một cái nhà sơn màu đỏ th́
không la lên: "nhà tụi Cộng Sản".
Lúc bắt tay, tôi mới để ư thấy
anh cầm một con ốc xà cừ óng ánh trắng bạc,
cái màu trắng tinh khôi trên cái sáo năm xưa mà tôi chẳng
c̣n giữ được. Chắc anh định làm một
cái sáo khác! Nhưng mà tôi biết t́m đâu ra một cô nhồng
xinh đẹp để đổi chác lần nữa
đây.
CAO HOÀNG
(Thanh Long sưu tầm và chuyển)