Đường
Lên HIÊN, Lên GIÀNG
(VƯƠNG MỘNG LONG)
Gia đ́nh tôi dọn
về khu chùa Âm-Bổn, Hội-An khi tôi học xong Đệ
Lục trung học Trần Quư Cáp.
Tôi có bốn người bạn thân, Trần ngọc
Lợi, Lê văn Bảy, Ngô Rân, và Lê hữu Mục. Năm đứa chúng tôi chơi với
nhau từ Đệ Thất.
Tối tối chúng tôi tụ họp trên lề xi
măng sát bờ sông Thu-Bồn, trên đường Bạch-Đằng,
đối diện với nhà bác Trần ngọc Mai, thân
sinh của anh Trần ngọc Lợi. Chúng tôi tâm sự, chuyện văn, học
bài dưới ánh điện đường. Đôi khi cao hứng, chúng tôi ngâm
nga những bài thơ vừa học trong giờ giảng
văn, thơ Nguyễn Khuyến, thơ Tản Đà,
thơ Xuân Diệu .. vân vân. Thời
cụ Diệm, đất nước thanh b́nh. Nhà, phố, ban đêm không cần
khóa cửa. Tuổi trẻ hồn
nhiên. Tâm hồn tôi thơ thới. Đời tôi chưa vướng
chút âu lo ǵ về ḥa b́nh hay chiến tranh. Có khi, Thứ Bảy, tôi và bạn
quây quần bên nhau cho tới nửa đêm mới chia tay,
ai về nhà nấy. Trừ những
ngày nước lũ, mùa dông, ḍng Thu-Bồn lúc nào cũng mờ
mờ hơi khói sương, đầy nét mơ màng. Ḍng sông ấy là một trong những
ḍng sông tôi yêu quư nhứt. Lớn
lên, tôi sống xa Hội-An, nhưng mỗi khi có dịp ghé
về, tôi thường lang thang nhiều giờ, bên bờ
sông, nh́n những con đ̣ ngang, đ̣ dọc, nh́n bèo trôi, mây
bay ..
Lên tới Đệ
Ngũ, bạn bè tôi phần nhiều, đă biết yêu. Thư qua, thư lại giữa
các cặp t́nh nhân trao đổi ngay trước mắt
tôi, hằng ngày, trong lớp.
Những mối t́nh đầu ở thành phố
Fai-Foo cổ lỗ, nhỏ bé này cũng thường bị
nhiều kẻ xâm lăng đe dọa. Trước khi có lệnh động
viên v́ t́nh h́nh đất nước lâm nguy, thày giáo là địch
thủ đáng gờm nhất của những chàng học
tṛ đang yêu. Lớp tôi có chị
Tô thị Vân, Bắc-Kỳ, tóc dài.
Nhà chị Vân ở gần giếng Bá-Lễ. Ngơ vào giếng, có cây hoa mộc
lan; đêm đêm, mộc lan tỏa hương, thơm ngát
một vùng. Tết Trung-Thu hàng
năm, chị Vân và em gái chị là Tô thị Lan được
chọn đóng vai Hai Bà Trưng, ngồi trên xe hoa diễn
hành. Năm chúng tôi lên Đệ
Tứ th́ thày Huy dạy Quốc-Văn làm giáo sư hướng
dẫn. Thày Huy mê chị Tô thị
Vân ra mặt. Dù chị Vân không
ưa ǵ thày Huy, nhưng những người đang theo
đuổi chị Vân như anh Bảy, anh Rân, đều
ghét thày cay đắng. Những
lúc thày ấp cái h́nh Hai Bà Trưng (Vân, Lan) vào ngực,
đôi mắt hiu hiu, th́ bọn bạn tôi ức lắm, họ
chỉ muốn .. thoi cho thày vài thoi.
Nhưng, xem chừng
như nhiều cô nữ sinh trường tôi cũng thích
nâng khăn sửa túi cho các giáo sư. Con đường Hoàng-Diệu chỉ
dài khoảng hai trăm thước, mà cũng có cả tá
nam sinh ôm hận, bỏ ăn, bỏ học, ngẩn
ngơ khi cô nữ sinh xinh đẹp, con gái quan phó tỉnh
lên xe hoa về nhà .. thày.
Bạn tôi, có đứa
đă trải qua vài trận thất t́nh. Người thất t́nh thường
hay làm thơ buồn day, buồn dứt. H́nh như người thất
t́nh dễ trở thành thi sĩ lắm! Thi sĩ nào cũng biết hút thuốc
lá. Khói thuốc làm cho thi nhân có
hứng để viết. Thuốc
Cotab thơm ngon hơn Ruby nhiều, nhưng đắt lắm,
chỉ có thày giáo mới hút Cotab.
C̣n học sinh chỉ dám rít Ruby, hợp với túi tiền. Ba đồng, bốn điếu
Ruby. Buổi đó chưa có
Ruby Quân-Tiếp-Vụ loại bao in h́nh anh Chiến Sĩ Cộng-Hoà
chân co, chân duỗi. Mới chỉ
có Ruby loại bao màu hồng, có h́nh những đồng tiền
vàng dính nhau. Khói Ruby vào phổi
làm cho tâm hồn ta dạt dào, lâng lâng, ngẩn ngơ. Trong sân trường tôi, thi sĩ
lềnh bềnh, phiêu dạt đầy sân .. Những tập
thơ bằng giấy "pơ lua pho" với chữ
viết bằng ng̣i bút "rông" được chuyền
tay, nâng niu như trứng.
Trong số những công tử mới tập tành phun
châu, nhả ngọc thời ấy, có vài vị sau này trở
thành thi sĩ thực thụ như (Huỳnh) Hoàng Quy, Thái
tú Hạp, Phùng Tiến ..
Tôi chưa biết
thất t́nh là ǵ nhưng cũng cố theo kịp bạn
bè, bắt đầu tập tành hút thuốc lá. Dù bị mẹ tôi cấm đoán,
đôi lúc, tôi vẫn lén mua vài điếu Ruby lẻ, kiếm
nơi thanh tịnh, ngồi hút một ḿnh. Tôi không biết cách ém khói, rồi
để khói ph́ ra đàng mũi, hay nhả khói thành ṿng
tṛn, như những tay lăo luyện.
Tôi hớp từng ngụm khói vào mồm, rồi thở
ra bằng mồm. Tuổi tôi
lúc đó làm ǵ có nhiều kinh nghiệm sống để mà
viết lên cho thành truyện?
Tôi đành tưởng tượng. Cứ ngồi một ḿnh, cho trí
tưởng tượng phiêu du theo khói thuốc, thế là
có bao nhiêu đề tài để viết. Mỗi khi làm được bài
thơ nào ưng ư, tôi thường lấy phấn đủ
màu mè ngũ sắc "yết" nó lên cái bảng đen
giữa lớp để chia sẻ công tŕnh của ḿnh với
bạn bè. Vài tháng một lần,
tôi và mấy người bạn cùng lớp, "xuất bản"
một tập thơ viết tay trên giấy "pơ
lua", chỉ để tặng, không bán (v́ có ai mà thèm
mua!) Chúng tôi sưu tầm những
bài thơ hay trên các nguyệt san, đặc san, rồi sao
chép lại thành tuyển tập chuyền tay nhau. Một hôm, tôi vớ được
"Paris Có Ǵ Lạ Không Em" của Nguyên Sa, tôi viết
nó lên bảng cho bạn bè thưởng lăm. Ai cũng khen thơ ông này có cái
phong thái mới lạ, dễ thương ..
Thường th́,
khi mê thơ của ai, tôi hay ṭ ṃ t́m hiểu xem người
thơ ấy sống cuộc đời thường ra
sao? Ngày đó tôi mê thơ Thái
Can. V́ thế, lúc rảnh rang,
tôi hay đạp xe qua phố Nguyễn thái Học. Đường Nguyễn thái Học
có nhà của Bác sĩ Thái Can.
Bác sĩ Thái Can chính là tác giả bài thơ bất hủ
"Anh Biết Em Đi Chẳng Trở Về". Bác Can cũng là thân sinh của chị
Thái thị Mai và anh Thái Thanh, bạn học (Đệ Tứ
1) ngang lớp với tôi trong trường Trần Quư
Cáp. Xe đi ngang nhà Bác sĩ
Thái Can thế nào tôi cũng nghển cổ nh́n vào, quan
sát. Đă nhiều lần bác
Can bắt quả tang đôi mắt láo liên, dớn dác của
tôi, khiến tôi đỏ mặt.
Tôi phải ra sức g̣ lưng, đạp cho xe lướt
nhanh. Chắc bác tưởng
tôi bắng nhắng lạng xe trước nhà bác chỉ v́
nhan sắc của cô con gái cưng của bác? Thực t́nh, tôi không nghển cổ
kiếm h́nh bóng chị Mai đâu, mà tôi ḍm xem bác Thái Can vui
hay buồn? Tôi cứ thắc
mắc rằng, bị một trận t́nh, thua thất
điên bát đảo như thế, chắc tim bác phải
ê ẩm, rầu rĩ, lâu lắm?
Lời thơ của bác buồn ghê ..
Anh biết em đi chẳng trở về!
Dặm ngàn liễu rũ với
sương che.
Thôi đừng quay lại nh́n anh nữa.
Anh biết em đi chẳng trở về!
(Thơ Thái Can)
Bạn cùng lớp
tôi ai cũng rơ tôi là "Công-Tử Nhất-Bộ" v́ mỗi
năm, tôi chỉ có một bộ đồng phục. Tôi may bộ đồng phục
đó sau khi lănh học bổng mỗi cuối niên khóa. Một cái sơ-mi trắng và một
cái quần xanh. Tôi mặc
đồng phục đi học.
Về tới nhà, tôi thay quần áo ra, đem giặt. Khi ở nhà hoặc đi kèm trẻ,
tôi mặc quần áo nhà binh, vừa rẻ, vừa bền. Mờ sáng, đi gánh nước,
tôi cởi trần, mặc quần dài xăn tới đầu
gối. Đoạn đường
từ nhà tôi tới giếng nước nhà cô Cư, đèn
đường mờ mờ.
Lịch tập thể dục hàng tuần của
trường Trần Quư Cáp chia ra, học tṛ con trai tập
thể dục vào những ngày chẵn, Thứ Hai, Tư,
Sáu. Học tṛ con gái tập thể dục vào những ngày lẻ,
Thứ Ba, Năm, Bảy. Bạn
gái cùng lớp tôi, đi tập thể dục, thường
xuyên đụng đầu một "thi nhân" đang
hùng hục leo dốc với hai thùng nước đầy,
đung đưa bên hông. Bọn
nữ tặc túm năm, tụm ba, chặn đường
tôi, réo gọi om x̣m, "Anh Vọi ơi! Anh Vọi
ơi! Dừng chân cho chúng em tỏ
một đôi lời đi! .. Anh Vọi ơi!" Tiếng chúng nó the thé vang vang trong
phố. Cường độ
âm thanh tiếng réo của bọn yêu tinh ấy chắc cũng
cao cỡ vài trăm decibels, làm cho những trái sung trên cây,
trong vườn, sau chùa Âm-Bổn rơi lộp độp. Bạn bè trong lớp thường
gọi tôi là anh Vọi.
Số là, trong
chương tŕnh Quốc-Văn lớp Đệ-Lục do
cô Bạch Vân dạy, mỗi đứa trong lớp tôi phải
chọn thuyết tŕnh một tác phẩm của Tự- Lực
Văn- Đoàn. Tôi đă chọn
tiểu thuyết "Trống Mái" của Khái
Hưng. Vọi là tên một
anh dân chài khù khờ, nhân vật chính trong "Trống
Mái". V́ tôi cũng có vẻ
khù khờ như Vọi, nên sau buổi thuyết tŕnh, tôi
mang thêm một cái tên nữa là anh Vọi. Gặp nhau, thay v́ kêu tên tôi, bạn
tôi cứ, "Anh Vọi ơi! .. Anh Vọi ơi!" Thét rồi, cái tên "Anh Vọi"
thành quen. Ngày tháng thoi
đưa, chúng tôi lớn lên lúc nào không nhớ rơ .. Trong lớp
tôi, cũng có đôi người thầm thương anh Vọi. Măi sau này tôi mới biết.
Một hôm, Đệ
Tứ, gần vào hè, giờ ra chơi, tôi và vài anh bạn ra
khu tập thể dục quay xà ngang. Áo tôi bị quấn vào xà, xẻ dọc. Mấy cô bạn gái xúm vào vá víu áo
tôi. Vá giùm áo tôi xong, bạn
đă tan hàng, riêng một nàng chần chờ không chịu rời
gót. Cô ấy tên Thu-Cúc. Phạm thị Thu-Cúc tuổi Mùi,
người Vĩnh-Điện, trọ học ở nhà bà
con, gần Chùa Cầu. Thu-Cúc
tóc thề ngang vai, trắng trẻo, dễ thương,
nhưng hơi đẫy đà.
Tôi hỏi Cúc:
- Ủa! Mọi người đi hết
rồi, Cúc c̣n đứng đây làm ǵ? Cúc đỏ mặt lí nhí hỏi
lại:
- Áo Long bị rách,
về nhà có bị mẹ la rầy không? Tôi cảm động:
- Chắc không
đâu! Cũng gần hè rồi,
mặc cái áo này vài tuần nữa, nghỉ học, lănh học
bổng xong là Long có áo mới liền! Thấy xung quanh không có ai, Cúc bạo
dạn hỏi tôi:
- Cúc có chuyện
riêng muốn nói, Long có nghe không?
Tôi ngạc nhiên nhưng trả lời ngay:
- Ừ! Cúc muốn
ǵ cứ nói đi! Cúc tuôn ra một
tràng mà tôi không ngờ:
- Cúc thương
Long, Long có thương Cúc không?
Có người đi dạm hỏi Cúc đấy! Nếu Long không thương Cúc th́
Cúc về quê lấy chồng!
Tôi điếng người.
Người ta nói con gái Quảng thật thà, bạo dạn,
nồng nàn, quả đúng! Tôi
nh́n bạn:
- Thực ra, cho tới
giờ này Long cũng chưa rơ ḿnh đă yêu ai hay chưa! Long coi Cúc là bạn thôi. Nếu có người
thương Cúc, hỏi cưới Cúc, th́ Cúc về lấy
chồng đi! Tôi thấy
đôi mi Thu Cúc sụp xuống, vài giây sau đôi mắt ấy
ngước lên nh́n tôi u uẩn:
- Dù sao Cúc cũng
phải nói cho bạn rơ rằng, gần ba năm nay có một
người con gái đă yêu bạn vô cùng .. thôi nhé ngày mai ..
Cúc sẽ về quê ..
Bạn tôi nhanh chân
trở gót vào lớp. Tôi thấy
tay nàng đưa lên quệt nước mắt. Đôi chân nàng như díu vào nhau ..
Hôm sau Thu Cúc không tới trường. Mọi người không rơ nguyên do
v́ sao cái máy thuộc bài ấy lại vắng mặt ngày thi
Vạn-Vật đệ nhị lục cá nguyệt. Cuối niên khóa, bạn bè trong lớp
Đệ Tứ 3 kháo nhau chuyện Thu Cúc về quê, lấy
chồng .. Sắp lên đệ
nhị cấp, ḷng tôi cảm thấy lo lắng bâng
khuâng. Chúng tôi đă chuẩn bị
kỹ và đă chọn lựa xong con đường khoa bảng
tương lai. Những người bạn thân chia tay nhau
nơi ngă ba phân ban (A,B,C) của hệ thống giáo dục
đương thời. Ba con
đường dẫn tới ba cái bệ phóng vào đời
khác nhau. Tôi sẽ lên Đệ
Tam ban Toán (B). Những người
quen trong lớp, như chị Tô thị Vân, theo ban Vạn-Vật
(A), anh Phùng Tiến theo ban Văn-Chương (C). Bốn anh bạn thân của tôi
không có ai chịu dấn thêm bước nữa. Anh Bảy thi đậu vào trường
Sư-Phạm Tiểu Học.
Anh Rân và anh Mục đứng lại nơi ngă ba, học
Đệ Tứ thêm năm nữa.
Riêng anh Lợi th́ nghỉ học để lấy vợ. Không biết anh Trần ngọc Lợi
và chị Ngô thị Xuân Lan tí toáy làm sao mà chị Xuân Lan có bầu. Chị Lan đi sanh trước
ngày chúng tôi đi thi Trung Học Đệ Nhứt Cấp
vài tuần.
Tôi có hẹn với
Nguyễn Nhị (anh bạn quê quán ở Nông-Sơn) rằng,
sau khi thi trung học, tôi sẽ lên nhà anh, cùng anh mượn
cái trường tiểu học của xă để dạy
hè, kiếm chút tiền c̣m.
Trong hành trang, ngoài sách vở, quần áo, tôi c̣n mang theo
những tập thơ chép tay của tôi và những bạn
đồng học khác.
Nông-Sơn trùng điệp núi đồi. Mặt đất khu nhà máy và mỏ
than th́ màu đen. Những ngọn
đồi khác vây quanh toàn là rừng thưa và cỏ tranh
chen lẫn nhau. Dưới
thung lũng là những khe ruộng lúa mùa và những cánh
đồng mía. Mía đang lên cờ. Gió lượn quanh khe, làm rạp
những ngọn cờ mía. Gió
vô h́nh, vậy mà tôi có cảm tưởng rằng ḿnh đă
nh́n thấy gió đang "đi" trong thung lũng. Gió đi từ ruộng mía, lên
đồi tranh, rồi gió trốn vào rừng. Ngôi trường làng bé tí teo. Học tṛ tới trường, có
em chỉ bận trên ḿnh cái quần xà-lỏn. Mỗi em h́nh như chỉ có một
tập vở bẩn thỉu, góc tập bị cuốn cong
veo. Tôi bùi ngùi tự nhủ thầm
rằng, tuổi thơ của tôi, về phần vật chất,
c̣n sáng sủa hơn tuổi thơ của những em bé
này. Buổi chiều không có lớp;
học tṛ mắc đi kiếm củi, giữ trâu, ṃ cua,
trong lạch. Hoàng hôn, tôi
thường tản bộ ra ngồi bên ghềnh đá.
Đây là đầu nguồn của sông Thu-Bồn. Ḍng nước uốn khúc quanh
chân núi Chúa. Dưới thung lũng, trong ruộng bùn, những
con trâu đang thoải mái nằm dầm ḿnh nghỉ
ngơi. Chiều hè,
sương trắng rơi từ từ trên rừng
xanh. Gió nhè nhẹ đưa những
sợi mây mỏng như tơ bay về cuối trời. Tôi lần dở những tập
thơ viết tay trên giấy pơ-lua và trên tập vở,
ḷng chợt buồn vô cớ.
Tuổi thanh niên, mà sao có những lúc tôi thấy ḷng trống
vắng quá? Tôi bâng khuâng nghĩ
về tương lai, mà không biết tương lai ḿnh sẽ
ra sao ..
Ở Nông-Sơn
được một tuần lễ, th́ chị Quá và chị
Thảo (bị ở lại Đệ Tứ) nhắn tôi về
gấp để kèm toán cho họ luyện thi trung học. Tiền công hai chị hứa trả
cho tôi cao hơn nhiều so với số tiền sẽ nhận
được do dạy học ở Nông-Sơn. Thực t́nh, tôi không muốn rời
Nông-Sơn. Nơi đây xa hẳn
phố phường phồn hoa, tục lụy. Cảnh ở đây như cảnh
tiên. Người ở đây
tuy nghèo nhưng rất hiền hoà, hiếu khách. Tôi không muốn chia tay những
đứa học tṛ nhỏ của tôi, những bé quê
chăn ḅ, mót củi, thực thà, dễ thương. Nhưng tôi chợt nghĩ tới
niên học sắp đến. Chính phủ sẽ không trợ
cấp học bổng cho học sinh đệ nhị cấp.
Tôi rất cần tiền để mua sách vở, áo quần,
giày vớ. Tôi buồn rầu
lên xe đạp rời núi Chúa.
Vào năm Đệ
Tam, v́ không c̣n học bổng, trong niên khoá, tôi phải đi
dạy kèm buổi tối. Học
tṛ của tôi là hai bé trai tiểu học, em của chị
Thảo. Cuộc sống của
gia đ́nh tôi khá hơn, v́ mỗi tháng tôi kiếm thêm
được ba trăm đồng. Nhưng công việc học hành của
tôi lại bận bịu hơn.
Tôi phải chăm chỉ hơn, v́ lệnh động
viên đă bắt đầu.
Chậm chân rớt lại đàng sau, có thể bị
gọi đi lớp hạ sĩ quan. Đối với vấn đề
văn nghệ, văn gừng, thơ phú, tôi cũng thờ
ơ. Thời gian này tôi không có
bạn gái, v́ không có nữ sinh nào theo phân ban Toán (B). Nhiều lần áo tôi rách
bươm, không người vá giùm.
Suốt mùa hè cuối
năm Đệ Tam tôi kèm Toán, Lư, Hóa cho hai chị em con nhà
giàu ở đường Cường-Để. Cô chị tên là Tuyết Huệ
đă có bồ là anh Tung, con trai ông trưởng ty Thú Y. Anh Tung học ngang lớp với
tôi. Cô em tên là Thục Anh. Hai chị em nhà này tính t́nh trái
ngược hẳn nhau. Tuyết
Huệ lúc nào dáng dấp cũng đượm buồn. Thục Anh th́ vui tươi, nói
cười như con sáo suốt ngày. Thục Anh học nhanh hơn Tuyết
Huệ. Bạn bè tôi thấy
tôi có hai cô học tṛ xinh đẹp, lại con nhà giàu, họ
thường nói bóng gió để ghẹo tôi, "Mi đúng
là chuột sa hũ nếp!".
Thuở đó, ở Hội-An, chuyện gia sư
thương học tṛ, học tṛ thương gia sư,
không có ǵ là lạ. Đôi lần
cuối giờ học, khi Thục Anh tiễn tôi ra cửa,
tôi thấy có những cặp mắt ṭ ṃ của xóm giềng
theo dơi. Tôi cũng thấy những
cái nguưt dài, đuôi mắt đắng cay, của chị em
nhà bên kia đường đối diện. Tôi th́ cứ ngơ ngơ chẳng
có ư thương ai. Anh Vọi
chỉ mong dạy cho xong bài, chiều về rủ anh Sếu
Vườn hàng xóm là Doăn thiện Niệm, phóng xe đạp
xuống đập Phước-Trạch câu cá. Gần năm mươi năm
sau (2006), cô học tṛ ngày xưa, từ Oakland (CA) gọi
điện thoại cho anh gia sư đang ở Seattle (WA),
giọng Thục Anh vẫn liến thoắng, trách móc,
"Ngày đó anh bỏ Hội-An, anh lên Pleiku. Anh mê "em
Pleiku má đỏ môi hồng" anh quên Hội-An". Tôi chợt chạnh ḷng, bâng khuâng
..
Rồi ba năm vất
vả, bù đầu, bù cổ cũng qua. Xong cái bằng Tú Tài 2, tôi nhờ
anh bạn Hồ Hùng giới thiệu với người
anh của anh ta là hiệu trưởng một trường
bán công ở Điện-Bàn.
Ông ta thuê tôi dạy giờ môn Toán những lớp nhỏ
đệ nhứt cấp.
Người ta nói rằng, nếu làm thày giáo, có thể
xin hoăn dịch. Thời gian này
chiến tranh đă bắt đầu nhen nhúm ở đâu
đó, xa xa .. Tôi mới mở
hàng nghề gơ đầu trẻ được một tuần
lễ th́ bọn bạn cùng lớp tôi ùn ùn kéo nhau ra Huế
thi vào Đại-Học Y-Khoa.
Học ngành này cũng được hoăn dịch. Tôi bỏ dạy học, theo chân tụi
bạn đâm đơn xin học nghề thày thuốc. Tôi được chấm đủ
điểm theo học lớp Dự-Bị Y-Khoa năm ấy. Trước khi vào trường
để học cái nghề bác sĩ "hái ra tiền",
tôi phải lo cho cái dạ dày trước đă.
Thế là, suốt
một tháng mùa hè nắng cháy, tôi lang thang trong đường
phố Cố Đô, thăm ḍ những nhà cần người
kèm trẻ, dạy giờ. Mỏi
chân, tôi dừng bên ḍng An-Cựu, vớt nước sông ấp
lên mặt cho mát. Người
ta thường hát, "An-Cựu nắng đục mưa
trong". Thực tế h́nh
như không đúng như vậy?
Hè đó, tôi đă ngồi trên bực thang bên bờ,
soi bóng ḿnh trong nước An-Cựu biết bao lần. Tôi thấy nước trong veo,
nh́n rơ tận đáy. Dưới
đáy nước, những con cá bống thệ to bằng
ngón chân cái, ḅ từ từ trên nền cát. Con bống quẫy đuôi. Cái quẫy đuôi tạo nên những
quầng cát cuộn, lập lờ, lấp lánh. Trên mặt sông, từng cụm lục
b́nh hoa tím lững thững trôi.
Trong ḷng sông, in h́nh một bầu trời xanh, mây trắng
dật dờ. Nhăn hai bên
đường đă có lồng.
Phượng nở hoa, ve sầu hát, chim hót, bướm
bay. Mùa hè, dưới nắng,
nước An-Cựu trong vắt.
Tôi ở trọ tại số 1 đường Báo-Quốc. Chùa Báo-Quốc nằm trên đỉnh
đồi. Nhà tôi trọ ở dưới chân đồi,
bên kia đường. Đêm
đêm nghe kinh kệ, chuông chùa; đôi lúc tôi đă có ư giă từ
cuộc đời ô trọc, đi tu, để t́m
đường cứu nhân độ thế ..
Tháng 9 năm 1963, một
người bạn tôi đi khám sức khoẻ ở Quân Y
Viện Duy-Tân, Đà -Nẵng.
Anh ta lo hoàn tất hồ sơ sức khoẻ để
theo học khóa Sĩ Quan Hải-Quân. Tôi theo bạn vào thăm Quân Y Viện. Khi tôi đang lang thang quanh khu nhận
bệnh th́ một chiếc xe Jeep tải thương ào tới. Bên hông xe có treo cái bánh sơ-cua vẽ
h́nh đầu cọp nhe nanh.
Xe đậu trước cửa pḥng nhận bệnh. Trên băng-ca, một thương
binh, đầu, ḿnh băng kín.
Chiếc Jeep thứ hai, có cần câu máy truyền tin,
bám đuôi sau xe thứ nhứt.
Một sĩ quan nhảy xuống. Anh ta ôm xốc người
thương binh, chạy ào vào pḥng nhận bệnh. Anh trung úy Biệt Động Quân
hối hả, "Cấp cứu! Xin quư vị cứu giùm
người lính này cho tôi! Thủ
tục nhập viện sẽ làm sau! Mau lên!
Quư vị làm ơn!" Cả
pḥng nhận bệnh nhốn nháo.
Bác sĩ, y tá, nhân viên cứu cấp, vội vă chuyển
người thương binh sang xe đẩy, đưa
anh vào pḥng mổ. Anh trung úy
không được phép vào pḥng giải phẫu. Anh bồn chồn, đi loanh quanh
bên cái xe Jeep. Miệng anh bập
bập điếu thuốc lá, khói phà liên hồi. Một sĩ quan khác, một thiếu
úy, trên ngực có huy hiệu h́nh con rắn leo trên cây kiếm
chúi đầu xuống (quân y) ngồi chờ trước
vô-lăng xe tải thương, dáng băn khoăn. Tôi mon men làm quen:
- Thiếu úy!
Đánh nhau ở đâu vậy, thiếu úy?
- Trên Giàng! Cậu có nghe Hiên, Giàng không? Trên núi, sát biên giới Lào.
- Đánh lớn lắm
hả thiếu úy? Tôi ṭ ṃ hỏi
thêm.
- Cũng không lớn
lắm. Đại đội
chạm đại đội.
Có điều là đụng địch trong rừng
già, tản thương chậm trễ, khó khăn ..
- Bên ḿnh bị thiệt
hại có nặng không thiếu úy?
- Thường
thôi! Một chết, năm bị
thương. Chỉ một ca
này là nặng.
- Ông trung úy kia làm
chức vụ ǵ vậy hả thiếu úy? Sao ổng có vẻ lo lắng cho
anh lính bị thương quá vậy?
- Trung úy đại
đội trưởng đó!
Chúng tôi sống chết có nhau.
Anh binh nh́ bị thương, ông trung úy lo lắng cũng
là chuyện thường ngày ở đây thôi! Khi nào cậu vào lính, có dịp ra
chiến trường, cậu sẽ thấm cái t́nh
"huynh đệ chi binh .."
Suốt mấy
ngày sau, trong đầu tôi cứ ám ảnh với khúc phim tản
thương đầy xúc cảm trong quân y viện. Không bút nào tả nổi vẻ
đẹp vừa oai dũng, vừa cảm động của
một sĩ quan hai tay ẵm một thuộc cấp bị
thương ào vào pḥng nhận bệnh. Câu "Xin quư vị cứu giùm ..
Quư vị làm ơn!" cứ văng vẳng bên tai tôi. Tiếng cầu xin của người
chỉ huy ấy thống thiết như tiếng của một
người mẹ. Hoạt cảnh
ngắn ngủi hôm đó đă khiến đời tôi thay
đổi.
Tuần sau tôi ra
Đà-Nẵng, hướng về cầu Trịnh minh Thế,
t́m pḥng Tuyển-Mộ Nhập- Ngũ Quân-Đoàn 1. Tôi xin cái đơn gia nhập Khóa
20 /Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Từ đấy, tôi vẫn mê
thơ Nguyễn Bính, Thái Can, Nguyên Sa, nhưng tôi hút thuốc
lá Lucky và bắt đầu đọc "L'Art De
Commander" và "Tôn Ngô Binh Pháp". Cũng từ đấy, tuổi
thanh niên của tôi không c̣n những lúc thấy ḷng ḿnh trống
vắng nữa. Có cả
trăm con đường trước mặt dẫn vào
tương lai, nhưng tôi đă quyết định chọn
con đường "lên Hiên, lên Giàng" để phục
vụ quê hương.
Đầu năm
1966 tôi về lại Hội-An.
Thành phố đă đổi thay nhiều. Dinh cơ của Ty Cảnh-Sát Tỉnh
và Quận Hiếu-Nhơn đă được xây dựng
trên ngơ vào giếng, sau nhà cô Cư.
Biết t́m đâu dấu tích con đường ṃn
ngày xưa anh Vọi đi gánh nước sớm mai? T́m đâu những tiếng réo lanh
lảnh của bọn nữ yêu tinh đi tập thể dục
mỗi sáng tinh mơ ngày lẻ?
Có chăng, không đổi, là ḍng Thu-Bồn, chiều
chiều sương giăng, buồn muốn chết,
"Yên ba sầu sát nhân" - (Bạch cư Dị)
Đi ngang qua
trường Trần Quư Cáp, tôi chợt nhớ, năm nào,
trong một giờ giảng văn, thày Huy có nói "Thày
đoán rằng, sau này em Vương mộng Long và em Phùng Tiến
sẽ thành công trong nghề viết văn ..". Thày ơi!
Không phải vậy đâu!
Thực tế đă không diễn ra như thày từng
tiên đoán! Ḍng đời
không lững lờ như mặt nước Thu-Bồn lúc
xuân về. Bằng cớ là,
thày đă cưới một cô không phải chị Tô thị
Vân. Bạn bè tôi, mỗi đứa
đă đi mỗi phương.
Anh Lê hữu Mục đă lên tới cấp trung sĩ
nhứt, đồn trú măi trong vùng 3. Anh trung sĩ Trần ngọc Lợi
đă có thêm hai đứa con.
Anh giáo viên Lê văn Bảy qua đời v́ bạo bệnh. Anh Ngô Rân vừa nối nghiệp
ông cụ thân sinh, thành ông Cảnh-Sát. Tôi, anh Vọi Fai-Foo của trường
trung học Trần Quư Cáp, đă trở thành một thiếu
úy đại đội trưởng của Tiểu
đoàn 11/ Biệt Động Quân.
Sau những lần
chạm địch ở Tháp Bằng-An, Ải-Vân,
Trà-Đ́nh, Bà-Rén, Hương-An, tôi theo xe tải
thương tới Quân Y Viện Duy-Tân, gởi gắm những
thuộc cấp bị thương của ḿnh cho nhân viên
pḥng nhận bệnh. Lâu dần,
tôi thành người quen của pḥng nhận bệnh. Trong thời gian gần nửa
năm, tôi đă hành quân qua nhiều thôn làng hẻo lánh triền
sơn Trà-Kiệu, Thăng- B́nh.
Tuy tôi chưa có dịp lên Hiên, lên Giàng, nhưng tôi
đă biết thế nào là, "cái t́nh huynh đệ chi
binh". Tôi đă hiểu lư do
tại sao ngày đó, ông trung úy lo lắng bồn chồn,
khi anh binh nh́ thân ḿnh đầy máu được
đưa vào pḥng mổ. Cái
t́nh huynh đệ chi binh ấy không bút giấy nào mô tả
rơ ràng được. Chỉ biết rằng, thiếu nó,
chúng tôi không sống được. Cái t́nh ấy nặng và sâu không có
ǵ so sánh nổi. Nó là sợi
giây vô h́nh cột buộc chúng tôi khắn khít với nhau,
thượng cấp và thuộc cấp, thày và tṛ, anh và
em. Cái t́nh ấy không thể
dùng tiền mà mua. Không có nó,
chúng tôi không c̣n là quân nhân ..
* Để nhớ về bạn
bè của tôi ở trung học Trần Quư Cáp Hội-An, và những
thuộc cấp của tôi trong binh chủng BĐQ *
VƯƠNG MỘNG LONG
Seattle, tháng 11 năm 2006
(Huôn Trinh sưu tầm và chuyển)