Home | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | SUY NGÂM~ 9 | SUY NGÂM~ 10 | SUY NGÂM~ 11 | SUY NGÂM~ 12 | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | HU'U~ ÍCH 2 | HU'U~ ÍCH 3 | HU'U~ ÍCH 4 | HU'U~ ÍCH 5 | HU'U~ ÍCH 6 | HU'U~ ÍCH 7 | HU'U~ ÍCH 8 | HU'U~ ÍCH 9 | HU'U~ ÍCH 10 | HU'U~ ÍCH 11 | VÊ` VN | VÊ` VN [tt] | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | TA.P GHI 45 | TA.P GHI 46 | TA.P GHI 47 | TA.P GHI 48 | TA.P GHI 49 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | TÀI T̀NH | NGU'̉'I -DE.P ! | THIÊN NHIÊN -DE.P ! | HAY | CU'̉'I CHÚT CHO'I | TÊ'U | LO.A !!! | THÚ VI. | THÚ VI. [tt] | LINKS

TA.P GHI [tt]

 

Ngày Nào Đá Nát Vàng Phai

(Kim Thanh)

 

Thẹn ḿnh đá nát vàng phai (Kiều)

 

Giữa năm 1976, từ trại Long Giao, tôi bị đưa ra Bắc, cùng với các thành phần "ác ôn, có nợ máu" gồm An Ninh, T́nh Báo, Chiến Tranh Chính Trị, Bộ Binh, Cảnh Sát, Tuyên Úy, có cả Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận - toàn hàng độc, dữ dằn dưới mắt Việt Cộng. Gần ba ngàn người bị xếp như cá hộp dưới hai khoang hầm tàu chở than, nguyên là của Việt Nam Thương Tín được cải danh Sông Hương. Ai ở đâu là chết dí chỗ đấy, tiểu tiện phải bước qua những thân người nằm rũ liệt, nghe chửi thề inh ỏi khi lỡ đạp lên bụng một ông khó tính, mới đến được cái thùng gỗ nhỏ đặt ở cầu thang. Nước uống và lương khô được tḥng dây xuống, y như cảnh trong một phim buôn bán nô lệ đă xem đâu rồi. Hai ngày sau cặp bến Hải Pḥng. Xe lửa và molotova bít bùng dàn chào sẵn để rước về các vùng biên giới, như Yên Bái, Lao Kay .. Bạn bè lạc nhau từ đây. Tôi đi Hoàng Liên Sơn. Trời nóng hừng hực. Cửa toa đóng kín, khiến hai ông trung tá chết ngộp, xác vứt lại bên đường. Ngồi xe hơi th́ bị trẻ con ném đá, và những bà già Bắc kỳ răng đen mă tấu tốc váy chửi rủa tục tằn, với sự làm ngơ đồng lơa của bọn cán bộ.

Hoàng Liên Sơn với rặng Fansipan trùng điệp. Những ngày vào rừng, lên núi đốn tre, chặt gỗ, giơ tay vốc từng nắm sương la đà dày đục, nếm thử thấy tê buốt - như môi hôn phút chia ĺa vội vă. Những đêm lạnh cóng phải đứng ngủ cho bớt run rẩy trong chiếc chăn đơn cũ mục. Trên đường lao động, tôi gặp lại bằng hữu thất tán từ các chiến trường xưa, không hẹn mà bị "gom bi" đầy đủ. Nh́n nhau cười như mếu, thấm thía lời huênh hoang của một tên cán bộ VC: "Các anh có mà chạy đằng giời !"

 Thỉnh thoảng lên núi, tôi và đồng tổ đội gặp một nhóm Biệt Kích, bị bắt từ thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, đang lao động "tự giác", không có vệ binh canh giữ. Họ nh́n đám tân tù binh, vẻ thương hại, lắc đầu thông cảm, nhưng cũng có anh không dằn được bực tức, lớn giọng: "ĐM, mấy cha làm ăn, đánh đấm như thế nào mà bây giờ kéo nhau ra đây cả lũ ?". Cả lũ im lặng, tủi hổ, nghe xót xa bởi lời trách móc không sai. Nói thế, nhưng khi thấy bọn tôi lóng cóng không buộc chặt nổi bó nứa, họ ùa đến ân cần phụ giúp, hướng dẫn tận t́nh, hoặc chia cho sắn luộc và bánh in khô Trung Cộng.

 Sức khỏe suy sụp dần. Sau một lần khiêng gỗ té xỉu giữa đường, tôi được chuyển vào đội Rau Xanh, gồm toàn bô lăo - c̣n gọi là đội "sứt cán găy gọng". V́ c̣n trẻ và ḿnh mẩy tay chân tạm lành lặn, tôi bị ưu ái nhường ngay chức trưởng tổ phân, ngày ngày phải hốt đủ mười chuyến phân bắc, tức phân người, "có chất lượng" giao cho tổ khác đem ủ thẳng dưới các luống khoai, hoặc chế biến thành nước tưới rau. Lúc đầu thấy hăi hùng, muốn nôn oẹ, rồi ráng nhập thiền để mất đi cảm giác, ư niệm, nh́n nhưng chẳng biết đó là ǵ nữa. Hết phân bắc đến phân chuồng (trâu ḅ), cũng tởm không kém, rồi phân xanh (lá ngâm mục).

 Mới đầu, đa số c̣n phát biểu linh tinh lắm. Hệ thống ăng-ten chưa được thiết lập qui mô. Trong đội Rau Xanh có ông Đại úy già gân Hoàng Bá Linh. Ông Linh là người Quảng B́nh, hay Quảng Trị, trực tánh, ưa kể chuyện tiếu lâm và chuyện chế độ cũ, nói năng rất "phản động", thuộc loại điếc không sợ súng. Trong một buổi học tập của đội, ông đă phát biểu, lên án "bọn CTCT ngụy" như sau: "Bọn ngụy tuyên truyền rất bố láo bố lếu về Bác Hồ vĩ đại, vô vàn kính yêu của ta, ví dụ họ nói nguyên văn như ri, tổ cha thằng già Hồ Chí Minh là tên giết người bán nước, làm tay sai cho thằng Xịt Ta Lin và thằng Mao Xếnh Xáng .. Họ xuyên tạc bộ đội anh hùng của ta nguyên văn như ri, là chúng nó ốm đói quá, bảy thằng Việt Cộng đu một cọng đu đủ mà không găy .. Thật là mất dạy hết sức !" v .. v .. Và cứ thế ông nói dai, nói dài, nói lớn "nguyên văn như ri, như ri", với giọng nặng trịch, nhừa nhựa thuốc lào. Tất cả sĩ quan tù binh xanh mặt, cản không được, ngồi im, lo lắng cho ông. Phải hơn hai phút sau thằng cán bộ quản giáo mới hiểu ra, lên tiếng cắt ngang, hầm hầm quát bảo ông im ngay. Nó ức lắm, nhưng lúc ấy v́ quá bất ngờ chưa biết kết ông vào tội ǵ. Hôm sau, ông bị dẫn đi "làm việc" khá lâu, rồi bị biệt giam một tháng. Ra khỏi pḥng biệt giam, ông tiếp tục mở máy, như cũ, nhe hàm răng lơ thơ vài chiếc, cười hề hề: "Tui đâu ngán thằng mô !".

 Sau tám tháng, cả trại bị "biên chế" đi Sơn La, ở chung với tù h́nh sự, loại "đầu gấu" chuyên giết người, hiếp dâm, trộm cướp. Một vùng đèo heo hút gió, nước độc rừng thiêng, gần Điện Biên Phủ, qua hết dăy núi cao là sang đất Lào. Quanh năm chỉ thấy mây trời lơ lửng và đám người Mán, người Mèo tiếng nói líu lo, mỗi lần xuống núi mặc áo quần sặc sỡ, đàn ông thổi khèn mở đường, đàn bà gồng gánh theo sau. Cùng trại có các linh mục, cảnh sát, sĩ quan đủ binh chủng, vài nhà văn quân đội như, tôi chỉ c̣n nhớ, Thảo Trường, Thanh Tâm Tuyền, Văn Quang và Phan Lạc Phúc. Có hai ông cựu và đương kim Đại tá Linh mục Tuyên úy Lê Trung Thịnh và Đinh Cao Thuấn. Tôi nằm kế bên Trung tá Đặng B́nh Minh, phi đoàn trưởng trực thăng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, mùa đông được anh cho một áo jacket nhà binh rằn ri cũ. Cách tôi hai người là Trung tá Vũ Hoài Đức, chỉ huy phó trường ĐH/CTCT, người hiền lành, đạo đức y như Đại tá Chỉ huy trưởng Nguyễn Quốc Quỳnh. Ở một đội khác có một cựu tùy viên của cố Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, đeo kính trắng, tên Hùng, không nhớ họ. Ai nấy thiếu ăn, xác xơ, bắt đầu thấm đ̣n độc của Việt Cộng: chủ trương cải tạo bao tử, nghĩa là bắt đói triền miên, để chế ngự ư chí, và cả tư cách nữa ! Lao động vinh quang là trồng lúa, sắn, ngô, khoai trên những thửa đất hoang, khô cằn sỏi đá.

 Hơn hai năm sau, Trung Cộng uy hiếp biên giới, Việt Cộng lo sợ, vội vàng chuyển tất cả về Vĩnh Phú mà chúng gọi là miền trung du, đất tổ Hùng Vương. Hùng Vương đâu chả biết, chỉ thấy toàn núi rừng thâm u và bộ mặt kinh niên hắc ám của các cai tù, và những thằng Ăng-Ten, Trật Tự, Thi Đua lăng xăng, ngu ngốc làm khổ đồng đội c̣n hơn chính kẻ thù. Trại rộng thênh thang chia làm bảy khu, gọi là K , cách nhau trung b́nh năm, sáu cây số, nằm tít phía sau thung lũng sông Hồng. Từ Sài G̣n ra Vĩnh Phú thăm chồng, các bà "vợ ngụy" xem như chặng đường thánh giá mới, phải vượt rừng băng sông, đi đủ các loại xe, kể cả xe trâu và xe đạp ôm.  K7 gần nhất, giam riêng các biệt kích. Ở giữa, một K dành cho các thiếu niên phạm pháp, đa số về tội ăn cắp - có đứa chỉ mới tám tuổi. Tôi ở K1, xa nhất, tuốt sâu trong núi.

Tại Vĩnh Phú, có anh bạn trường Đại Học CTCT Đà Lạt, Nguyễn Ngọc Nhung, Đại úy trưởng pḥng Khảo Hạch, kiếm đâu ra được chức thủ kho dụng cụ lao động, cũng nhàn. Một hôm, Nhung kể, một tên công an vẻ phách lối đến mượn cái xẻng. Theo thủ tục phải ghi tên vào sổ. Thủ kho, người Bắc, lịch sự hỏi:

- Xin cán bộ cho biết quư danh.

 Tên nọ không hiểu "quư danh", há mồm, ngơ ngác, suy nghĩ một hồi, rồi đột nhiên sừng sộ:

- Anh vi phạm "lội qui". Ai cho anh lói tiếng lước ngoài hử ?

 Nhung sửng sốt, á khẩu. May phước, nhờ các bạn tù xúm vào thông dịch giùm, anh mới thoát nạn, sau khi bị sỉ vả tận t́nh.

 - Giờ lày mà c̣n ôm chân đế quốc, lói tiếng nóng ..

 Nhung không phải là trường hợp duy nhất. Bọn cai tù Việt Cộng là chúa nghi ngờ, nhạy cảm và mặc cảm. Một câu nói vô t́nh, vô tội, đùa vui cũng bị "nâng cao quan đỉểm" và những phát biểu viên linh tinh đều bị gọi đi "làm việc" tận t́nh. Một thiếu úy trẻ, một bữa trưa Chúa Nhật nghỉ lao động, vừa phơi chiếu bắt rệp, vừa cao hứng hát bài "Giết người trong mộng" và gào lên thống thiết, giết người đi, giết người đi, bị ăng-ten báo cáo và tên quản giáo xuống điều tra, qui tội phản động, âm mưu sát hại Cách mạng, và xách đi biệt giam một tuần lễ. Hay một anh khác, không hiểu sao, một hôm lớn tiếng chửi đổng: "ĐM thằng Mỹ-Thiệu", cũng bị buộc là "tư tưởng c̣n lấn cấn, anh tức giận bọn Mỹ-Thiệu là v́ chúng nó bỏ rơi anh, chứ ǵ ?"

Ở trại mới, đầu tiên, tôi "được" chỉ định về đội Nông Nghiệp. Phải lội vào một thửa ruộng bỏ hoang từ bao đời để luân phiên kéo cày thay cho trâu ḅ. Nước bùn đen đặc quánh, đỉa bơi lổn ngổn, tḥ chân xuống thấy ghê rợn - làm tôi nhớ những đầm lầy cũng kinh khiếp dưới tầng cuối địa ngục mà thi hào Dante Alighieri phải vượt qua với Virgile, trong Inferno. Một số đội viên - có Đại úy Cảnh sát Phạm Bá Điềm, bạn thân từ Sơn La - đă bị đỉa cắn mấy hôm trước, lên cơn sốt cấp tính, chỉ hai ngày là hôn mê, rồi chết. Người sống sót rụng dần lông chân, không mọc lại nữa. Phải mất thêm vài mạng, đội mới được lệnh "giải thể".

Thửa ruộng lại bị bỏ hoang, tôi trở về đội Rau Xanh, như hồi ở Hoàng Liên Sơn, lại vào tổ phân, lần này giao cho thợ bón kiêm "tưới viên" là phi công Air Vietnam Nguyễn Hữu Trí, trung tá biệt phái. Nói chuyện mới biết Trí bay đường Hồng Kông và Tokyo, có chuyến với Bội Trân, em tôi, mà anh tả đúng h́nh dáng, nên tôi tin lắm. Chim bằng găy cánh, Trí tiếc nhớ trời xanh, giờ giải lao ngước nh́n lên cao, uất ức, thở dài.

Tết đầu tiên tại Vĩnh Phú, trại được nghỉ lao động ba ngày, và tự do đi lại các khu vực. Tôi t́m đến dăy nhà giam riêng "ḅ lục" (tiếng lóng chỉ đại tá) để thăm Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, vị chỉ huy trưởng kính thương của trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt - quân trường mà tôi được phục vụ hơn hai năm trong chức vụ Trưởng khoa Nhân Văn Xă Hội và Sĩ quan Phụ khảo cho đến ngày tan hàng. Tôi thấy ông cũng vừa bước ra sân, nơi đang diễn nhiều tṛ vui do tù sáng chế để giết thời gian và nỗi nhớ nhà. Ông nhận ra tôi ngay. Chung quanh rất đông người, và dĩ nhiên ăng-ten được rải đầy. Gặp ông, tôi mừng quá, nói lớn:

- Chào bác, bác vẫn khỏe chứ ạ ?

 Ông nắm tay tôi một lúc lâu, và chậm răi nói, giọng xúc động:

- Cám ơn anh, tôi vẫn khỏe. C̣n anh thế nào, có bệnh hoạn ǵ không?  Tôi biết anh ở đây lâu rồi, mà không gặp được.

 Tôi cố nuốt những giọt lệ làm nghẹn cổ họng, xót thương cho phận vàng phai và đá nát. Cho đất nước bất hạnh. Cho cả chính ḿnh. Hồn bỗng rưng rưng, thầm gọi tên một thời yêu thương và thù hận tưởng đă chết theo cùng với mùa xuân tang tóc và những giấc mơ phai. Một thời v́ ông chợt hiện về nguyên vẹn như mới hôm qua.

 

Sài G̣n, đầu tháng 5, 1975. Hai ngày sau khi đứng nh́n từ một góc đường Lê Văn Duyệt, uất hận và nước mắt lưng tṛng, những chiếc xe tăng chở đầy Cộng quân vào thủ đô - nghe tên VC nằm vùng Trịnh Công Sơn hồ hởi ca mừng chiến thắng, kêu gọi nối ṿng tay lớn tay nhỏ - và chạy tới chạy lui ḍ la tin tức người thân, bạn bè ai c̣n ai thoát, tôi t́m được địa chỉ của Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và đạp xe đến thăm cùng với hai cựu SVSQ khóa 4, Nguyễn Gia Hưng và Nguyễn Dự, bất ngờ gặp lại trên đường. Phu nhân và cô con gái, v́ quen mặt hồi ở Đà Lạt, tiếp tôi không e dè. Đại tá Quỳnh ra pḥng khách, áo sơ mi bỏ trong quần tây, chân đi săng-đan. Trông ông mệt mỏi, có vẻ chán nản, dù bề ngoài vẫn giữ phong cách nho nhă, lịch sự cố hữu. Chúng tôi không nói ǵ nhiều. Có lẽ trước thảm họa chung, ai cũng có nỗi ưu tư riêng, cùng nặng nề như nhau. Suốt ba hôm liền, tôi bị hối hận dày ṿ, tự trách đă vụng suy, khí khái hăo, không nghe lời cô em tiếp viên đưa gia đ́nh lên chuyến Air Vietnam cuối cùng, khiến tất cả đành phải ở lại, một số dắt díu nhau trở về Nha Trang để thấy cửa nhà, tài sản rơi vào tay bọn cách mạng 30 - hạng khố rách áo ôm trước kia đă chịu ơn ba mẹ tôi, nay trở mặt, gán lên đầu ông bà đủ thứ tội. C̣n Đại tá Quỳnh, tôi không biết ông đang tiếc ǵ, nghĩ ǵ, v́ suốt buổi chỉ nghe ông lặp đi lặp lại :

 - Không thể ngờ nhanh như thế !

 Đâu phải một ḿnh ông. Không ai ngờ, kể cả Dương Văn Minh, tên tướng thiếu tài, khờ dại, được sinh ra chỉ để phản bội, và bọn "hàng thần lơ láo" tại dinh Độc Lập trưa ngày 30/4. Kể cả lũ vượn người khoác lác ở Bắc bộ phủ. Kể cả tên đồng minh Kissinger xảo quyệt, tác giả của cái gọi là hiệp định Paris quái gở bán đứng miền Nam, người được báo chí Mỹ bơm lên như nhà ngoại giao vĩ đại, nhưng thực chất chỉ là một tên trí thức cơ hội chủ nghĩa và đầy ảo tưởng, chưa tiêu hóa kịp những bài học bang giao quốc tế ở trường Đại học Harvard. Kể cả anh tướng hai sao và ba hoa nọ đă thề thốt ở lại để ăn mắm tôm cà pháo với đồng bào, vậy mà vào phút chót nhờ có trực thăng riêng mới vọt ra được hạm đội Mỹ. Không thể ngờ nhanh như thế !  Tôi chỉ biết gật đầu, đồng ư với ông. Cuối cùng, tôi cất tiếng hỏi:

- Đại tá có ư định sẽ làm ǵ ?

 Ông lưỡng lự vài giây, rồi trả lời:

 - Tôi chưa biết sẽ phải làm ǵ. Nhưng ở hoàn cảnh nào tôi cũng chấp nhận những ǵ tệ hại nhất sẽ xảy đến cho tôi.

 Như là mặt trái của bổn phận và vinh quang, tôi hiểu như thế qua những lời chậm răi, đắn đo của ông. Những lời tôi nghe quen từ lâu rồi bỗng mang một ư nghĩa cao đẹp, phi thường trong bối cảnh bấy giờ. Những lời đă theo tôi suốt tám năm đày ải, và cùng với h́nh ảnh của Guillaumet, viên phi công lâm nạn lầm lũi bước lê trên cát sa mạc, không chịu ngồi chờ chết, trong Terre des hommes của Saint-Exupéry, đă khích lệ, vực tôi đứng dậy để tiếp tục sống c̣n. Tôi cảm động, và khi từ biệt, siết chặt tay ông, khẽ nói:

 - Có một điều Đại tá nên chắc chắn là dù ngày mai ra sao, tôi sẽ không bao giờ quên Đại tá và những ǵ Đại tá đă làm cho tất cả chúng tôi.

 Và cho riêng tôi. Ông là một chỉ huy trưởng nhân hậu, có đức có tài, hơn ai hết, đă làm tôi thấy yêu thích và kiêu hănh với đời quân ngũ bất đắc dĩ. Một chỉ huy trưởng quả cảm và xứng đáng, có tinh thần trách nhiệm cao độ quyết ở lại với thuộc cấp cho đến phút cuối, mặc dù ông có một người con rể là đại tá không quân Mỹ và đủ phương tiện để tẩu thoát một ḿnh như đám tướng tá tham sinh úy tử kia đă tranh nhau đào ngũ trước khi tai họa giáng xuống. Quả vậy, chín giờ sáng 30/4, tại Tiểu đoàn 50 CTCT, đường Phan Đ́nh Phùng, bấy giờ là bộ chỉ huy tiền phương của trường Đại học CTCT, ông vẫn chỉ thị các sĩ quan hiện diện và sinh viên sĩ quan các khóa tiếp tục chiến đấu và pḥng thủ, để rồi, cuối cùng, phải buông súng, bất lực trước mệnh nước. Tôi không bao giờ quên được khẩu lệnh cuối cùng, ngắn ngủi, thật buồn bă của ông cho ban tham mưu, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng:

- Phát hết lương khô và cho anh em tan hàng !

..  Thế rồi, mỗi người chia một nẻo. Ông cũng đi tŕnh diện "cải tạo" ở một nơi nào đó. Tôi bị tống vào Long Giao để gặp lại gần toàn bộ sĩ quan Đại Học CTCT, trong số có người bạn thân, Đại úy Đỗ Huy Hoàng, chủ bút tờ Ức Trai của trường. Những chiều lao động về rảnh rỗi, tôi ṃ sang đội của Hoàng, hoặc Hoàng sang tôi, để tâm sự vụn cho bớt nhớ nhà. Nhất là bớt tức. Có cái ǵ uẩn ức, hằn học nằm trong tiềm thức của mỗi tên tù. Đau xót và căm giận c̣n hơn bị t́nh phụ. Nhưng không biết tức ai. Lănh đạo hèn nhát đă cao bay xa chạy. Thù hận Cộng Sản th́ chẳng ai dám hé môi nói với ai. Cuối cùng, chỉ có Thượng Đế nghe đủ những lời ta thán, chửi thề vu vơ. Trong câu chuyện, chúng tôi điểm mặt từng người quen, và khi biết toàn trường vào tù, cả hai cùng thở dài, ngán ngẩm. Tôi c̣n gượng chọc Hoàng:

 - Ức Trai hay Ức Gái ǵ rồi cũng chui vô rọ hết !

 Tại Long Giao, lúc ấy, tôi ở cùng đội, cùng tổ với Đặng Phùng Hậu, bác sĩ trưởng bệnh xá trường Đại Học CTCT, và một nhóm quân y. Cả tổ, v́ tự ái, tự trọng, không ai than văn về chuyện ăn uống, đói khát trong tù, kể cả sau này khi viết hồi kư. Hậu vui tính, kể đủ chuyện, nhờ vậy những ngày ảm đạm, bực bội qua khá nhanh. Mỗi tối, Hậu th́ thầm nói chuyện với tôi về thời cuộc, và lần nào anh cũng lẩm bẩm kết thúc bằng câu:

 - Địt cụ, đau như hoạn, tức như ḅ đá !

 Trong câu chuyện, anh em thường hỏi về Đại tá Chỉ huy trưởng. Không ai biết chính xác ông ở đâu. Có tin ông đă chết. Hoặc đang ở ngoại quốc. Hoặc trốn trong một khu rừng già. Nhiều đêm trằn trọc, tôi khổ tâm v́ dĩ văng, cứ ám ảnh măi, như cuốn phim quay lại, tự động, chậm chạp, lê thê. Nhớ không sót từng khuôn mặt, từng buổi giảng dạy, từng dịp lễ. Nhớ từng đêm Giáng sinh giá buốt và tiếng chuông nhà thờ ngân nga, từng buổi dạ vũ tưng bừng, mệt nhoài, từng con phố ch́m trong sương mờ che khuất đường về ..

 

 Bây giờ Đại tá Quỳnh đứng đó, bên tôi, giữa một ngày xuân héo hon, tại một nơi mà chúng tôi không bao giờ ngờ sẽ được dành cho ḿnh. Người ông gầy nhom, gương mặt hốc hác, má trũng sâu. Tự nh́n lại h́nh hài, tôi thấy đâu hơn ǵ. Chỉ một thoáng mơ, bỗng hiện về trong đáy hồn rời ră cả khung trời yêu thương Đà Lạt và kỷ niệm rực rỡ của tháng ngày cũ có hạnh phúc c̣n thơm hương mimosa, có t́nh yêu chưa biết nói lời phản trắc, có một Đại tá Quỳnh uy nghi trong quân phục đại lễ gắn cấp hiệu cho sinh viên các khóa, nay c̣n đâu !  Mới có bốn năm vật đổi sao dời mà cả hai thầy tṛ đă trở thành thảm hại đến thế ư ?  Ông mặc bộ treillis bạc màu, chân đi dép râu, sau lưng viết chữ Quỳnh thật to bằng mực tím. Thấy không ai để ư tôi bèn hỏi rất khẽ:

 - Đại tá nghĩ sẽ có ngày về không ?

 Ông lấy tay che một bên tai, có vẻ chú ư lắm mới nghe lọt hết. Và trả lời nhanh, chắc ngại bọn Ăng-ten cứ lượn qua lượn lại trước mặt:

 - Tôi nghĩ là rất khó ḷng, mặc dù vẫn cố hy vọng. Điều quan trọng là anh gắng giữ ǵn sức khỏe tốt để có sức chịu đựng. Gặp anh em khác cho tôi gửi lời thăm !

 Một thằng sà tới, tôi vội nói lớn:

 - Bác được thư gia đ́nh thường chứ ?

 Đại tá Quỳnh chưa kịp đáp th́ hắn đă gay gắt bảo tôi, giọng trọ trẹ:

 - Tôi lưu ư anh, không được quan hệ với các anh đại tá.

 Tôi phản pháo liền:

 - Nhưng anh là ai ? Hôm nay ngày Tết được miễn !

 Thằng nọ mặt hầm hầm, lớn tiếng:

 - Tôi ở trong ban Trật Tự. Đề nghị (tiếng Việt Cộng có nghĩa "yêu cầu") anh chấm dứt quan hệ linh tinh.

Tôi quay sang Đại tá Quỳnh :

 -Thôi xin từ giă bác, chúc bác mạnh khỏe, b́nh an trong năm mới.

 Rồi nh́n thẳng mặt thằng Trật Tự, giận dữ bỏ đi. Tôi gặp Đại tá Quỳnh được một tháng th́ hai đội ḅ lục - đội trưởng là Lê Đ́nh Luân và Dương Hiếu Nghĩa - chuyển xuống K5, cách đó độ sáu cây số, cùng với các linh mục tuyên úy mà bọn Công an đặc biệt căm thù.

 

Rồi một hôm, mẹ tôi lặn lội đến thăm, có Bội Trân hộ tống. Lần đầu được phép, sau năm năm chờ đợi. Mất ba ngày đường trên hai chuyến xe lửa từ Nha Trang ra Hà Nội, từ Hà Nội lên Ấm Thượng. Qua sông Hồng bằng phà máy, tới K1 bằng xe trâu. Tại nhà tiếp tân, lúc đó khá đông người, ba mẹ con ôm nhau khóc, rồi nói cười, mừng mừng tủi tủi, trước những cặp mắt cú vọ của lũ vệ binh và quản giáo. Mẹ thút thít, xoa nắn hai cánh tay và ngực tôi, như lúc nhỏ tôi ham chơi quên ăn, chê con gầy quá, tội con quá !  Mẹ bạc gần nửa mái đầu, da sạm nắng, tay nổi gân xanh. Suốt năm, Bội Trân nói, mẹ đi thăm nuôi "mệt nghỉ" rồi lo t́m đường cho con vượt biên, làm sao mà không già yếu cho được. Ba ông con trai lớn và một chàng rể tương lai đi cải tạo bốn nơi khác nhau, cô con gái út bị bắt ngay trên ghe nhỏ, giam tại A30. Chưa đứa nào thoát được, mẹ tiếp lời, trừ Thể Trân ra riêng, v́ cả nhà bị chúng nó theo dơi sát nút.

 Bội Trân vẫn đẹp như trước kia, nổi bật giữa pḥng tiếp, dù thôi trang điểm. Nhưng tóc cài hờ hững, mắt buồn vời vợi, mất hết vẻ hồn nhiên, tinh nghịch cố hữu, khiến tôi ngậm ngùi tưởng đến những mỹ nhân tự thuở xưa hương sắc không phai giữa gió đời vùi dập, kiêu sa trước nghịch cảnh, như các nhân vật nữ trong những vở kịch cổ Hy Lạp. Em kể, và mẹ lắng nghe, thỉnh thoảng gật gật đầu, phụ họa:

 - Nhà ḿnh tịch thu được chúng nó trả lại một nửa, nửa kia làm trụ sở thanh niên phường. Ba làm rẫy, mẹ lén nấu rượu chuối cho ba uống thay Martel. Em phụ bán nước mía với em Huyền Trân. Chị Thể Trân đến được Mă Lai với chồng con và hiện định cư tại Pháp. Chị nói anh ngang tàng, đôi lúc chị tức anh lắm, nhưng vẫn thương anh, hơn bất cứ ai, bởi anh là mẫu người của đàn ông, có chết cũng không than van, cầu khẩn, lúc nào cũng hào hùng, kiêu hănh, giống như con chó sói bị thương trong bài "La mort du loup" của Vigny ḿnh học năm nào đó ..  Anh nhớ không, hồi nhỏ, một lần anh đánh lộn với mấy thằng lối xóm chuyên chận đường chọc ghẹo tụi em, bị chảy máu mũi, mắt sưng vù, mà anh vẫn cắn răng chịu đau, không khóc, lại c̣n bị ba mắng cho nữa ..

 Tôi lắc đầu, cười buồn. Ôi, xa rồi kỷ niệm, nhắc làm chi hỡi em ?  Và đổi đề tài:

 - Kha bây giờ ra sao ?  Biết chịu đựng nổi không em ?

 Kha là hôn phu của Bội Trân, phi công A37, dưới tôi hai lớp tại Jean-Jacques Rousseau. Sắp cưới th́ mất nước. V́ Bội Trân ở lại, Kha cũng không đi.

 Nghe tôi hỏi, Bội Trân chớp mắt, buồn rầu nh́n ra sân. Bầu trời thấp, đục, giăng mây xám, như sắp đổ mưa. Gió rừng tuôn qua vách nứa ngập gian nhà trống trải, không cửa, lạnh từng cơn. Em th́ thầm:

- Mẹ và em đă ghé thăm Kha ở Hà Nam Ninh trên đường lên anh đây. Cũng tàn úa, như anh, như mọi người, sức khỏe giảm sút nhiều .. Em sẽ chờ anh ấy, bao lâu cũng được.

 Tôi quay sang mẹ, bùi ngùi nói:

 - Tất cả đều do lỗi của con. Phải chi ngày đó con biết nghe lời em đưa gia đ́nh ..

 Mẹ ngắt lời:

 - Cả nước đều lầm, đâu phải riêng con. Chuyện cũ, thôi đừng nghĩ đến nữa.

 Bội Trân tiếp:

 - Nhưng có thế này em mới được về "về vườn" ở hẳn với ba mẹ chứ !  Em vẫn thương anh và hănh diện v́ anh.

Mẹ và em nói đủ thứ chuyện, nhưng không đề cập đến một tin tôi chờ mà ngại không dám hỏi. Dường như hiểu ư, lúc mẹ quay qua tiếp một bà đồng hành ngồi cùng bàn, Bội Trân nắm bàn tay tôi, siết chặt, và khẽ nói:

 - Lệ Ngà đă lấy chồng. Hai năm sau khi anh ra đi. Em đâu ngờ !

 Tự dưng tôi buột miệng, không chút mỉa mai:

 - Hai năm là c̣n khá thủy chung đấy chứ em !

 Tôi tưởng sẽ phải đứng tim, ngất xỉu. Nhưng lạ quá, chỉ thấy buốt nhói một chút như kim châm. Có lẽ v́ đă chuẩn bị đón nhận sự thật quá lâu, từ năm năm rồi. Một thiên thu. Chợt nhớ một anh bạn Thiết giáp vừa vào Long Giao mấy tháng đă nhận được thư vợ xin anh cho phép "bước thêm một bước nữa" và kư vào tờ đơn ly dị và giấy nhường tài sản kèm theo, và cả đời tôi không quên được giọng cười khinh bạc của anh sau khi viết trả lời: "Nhất trí. Cho cô hết. Nhưng khuyên cô không nên bước, mà nên chạy cho nó kịp !". Tôi không được như anh ta. Bởi vô vàn kỷ niệm ngát hương ngày mới yêu ùa về, thay nhau vỡ như bong bóng. Lệ Ngà. Bạn học thân thiết của Bội Trân. Tà áo thiên thanh và ḍng tóc buông lơi trong nắng sớm phi trường Liên Khương, những lần em bay lên gặp anh. Lệ Ngà. Những ly rượu Bordeaux sóng sánh ngọt lịm môi em trong quán L'Eau Vive và bản sonate 23 của Beethoven, Appassionata, trên phím dương cầm, thánh thót như từng giọt lệ rơi, thiết tha như lời tuyệt vọng gọi người t́nh về. Những ṿng tay cuống quưt t́m nhau trong hoàng hôn tím trên đồi Cù. Những chân bước tung tăng qua những đồi thông dưới mưa, từng hạt long lanh như kim cương. Những lời thề nguyền yêu đương cho đến lúc đầu bạc răng long. Lệ Ngà. Hạnh phúc dối gian và ảo vọng phù du. Tôi nhắm mắt giây lâu, nghe vị đắng và cơn giận thấm dần xương tủy. Và thở dài nhè nhẹ, nh́n Bội Trân không nói. Đâu phải t́nh cờ em nhắc đến con chó sói bị thương, cùng đường, của Vigny.

Em tiếp, giọng buồn rưng rưng:

 - Không hiểu sao Ngà biết em sắp đi thăm anh. Đến gặp em, lần đầu tiên sau mấy năm biệt tích. Em không nỡ đuổi. Khóc suốt buổi, nhưng không nói một lời ǵ về anh. Khi chia tay, chị ta nhờ em trao anh những phong chocolat Meunier mà chị ta nói ngày xưa anh rất thích, và cho em một số tiền làm lộ phí, nhưng dĩ nhiên em không nhận ǵ hết .. Em biết tính anh quá mà !

 Tôi nói cám ơn em. Rồi cả hai im lặng, đuổi theo ư nghĩ riêng ..

 Hai giờ trôi qua mau. Tên cán bộ vén tay áo xem đồng hồ, bảo tất cả chuẩn bị ra về, vác quà vào trại. Khi ôm hôn tôi từ biệt, lợi dụng tiếng ồn ào, Bội Trân nói một hơi, thật nhanh, qua màn lệ, bằng tiếng Pháp:

 - Ba dặn anh đừng bao giờ tin bọn Cộng sản, đừng khai thật, khai sao lặp lại y như vậy, đừng tin các phong trào phục quốc, tất cả đều là cạm bẫy của Việt Cộng. Em nghe đài VOA và BBC nói các nghị sĩ, dân biểu Mỹ, và cả thế giới đang quan tâm đến số phận của các anh. Đừng tuyệt vọng nghe anh. Nhớ đọc kinh, cầu nguyện nhiều xin Chúa và Đức Mẹ che chở. Cả nhà chờ anh đó. Em thương anh. Em thương anh.

 

Mẹ và em về hơn hai tháng, tôi được chỉ định vào đội Xây Dựng, có nhiệm vụ cất nhà ở cho tù, heo, và cán bộ, và bắc cầu qua suối cho dân. Lúc đầu tôi phụ tá cho Lưu Ninh, Thiếu tá Bộ Binh, trong tổ vữa (trộn hồ), và sau khi Ninh qua "khâu" lợp, tôi được thăng chức tổ trưởng, và tổ phó là Đào Văn Bảnh, Trung tá Bộ Tổng Tham Mưu. Bảnh tính t́nh điềm đạm, cởi mở, sau trở thành một trong những bạn tù thân thiết nhất. Không có tổ viên. Suốt ngày hai tên h́ hục trộn hàng đống vữa lớn, nhỏ, để sẵn, chờ một toán đem xe cải tiến, do ông cựu nhà báo Việt Tấn Xă Đinh Phụng Tiến chỉ huy, đến xúc giao cho các thợ xây. Trong đội, nằm cạnh tôi, có Đại đức Nguyễn Long, quê Quảng Ngăi, lo nấu nước, làm tạp dịch. Ông hiền lành, thật thà, đạo đức, ưa giúp đỡ mọi người. Nhiều đêm, vài anh nổi cơn, oang oang kể chuyện đàn bà con gái, chơi bời trước kia. Ông cũng bị nghe, và lần nào cũng lầm rầm bên tai tôi:

 - Mô Phật !  Chơi chi mà chơi dữ rứa hè !

 Bữa nọ, một bà già khu gia binh cho đội một con chó con vừa chết. Một anh gốc Hố Nai xung phong trổ tài nấu rựa mận với muối, rau muống, và củ riềng - mọc đầy bên vệ đường. Mỗi người được chia hai miếng bằng ngón chân cái. Ai cũng "hồ hởi" ăn, trừ Đại đức Long. Ông đi t́m tôi, cho phần của ông, mặc dù quanh năm ai cũng thiếu chất thịt và ông chưa được thăm nuôi. Ông nói:

 - Tôi c̣n tu. Anh ăn giùm cho !

 Đổi lại, tôi tặng ông phần sắn, nhưng ông nhất quyết không nhận.

 Một hôm, đội được điều động làm công tác "đột xuất" (bất ngờ) là ra "nghĩa địa", tức một băi đất trống sát chân núi, làm cỏ và cắm mộ bia cho các tù binh đă nằm xuống. Tôi đếm gần hai trăm mộ - kỳ thực chỉ là những nấm đất vùi sơ với mảnh gỗ nhỏ ghi vội tên người chết. Trong số có vài ông tỉnh trưởng, trung đoàn trưởng. Có Trung tá Nguyễn Văn Năm, thuộc trường Đại học CTCT, người hiền như Bụt, nổi tiếng về khoa bói toán, bấm độn, và một người quen biết từ trại Sơn La, Trung tá Đặng B́nh Minh - cả hai trúng nắng cùng một lúc ngoài hiện trường lao động, được chở về trại cùng trong một chiếc xe trâu, hôn mê và qua đời cùng một giờ. Anh em kể, vợ phi công Minh, một dược sĩ trẻ đẹp, mới thăm anh vài ngày trước, từ Hà Nội trở lại thăm tiếp đúng lúc anh vừa mất, được dẫn ra nghĩa địa, khóc như mưa, rồi cắt tóc để lại trên mộ cùng với một bài thơ. Tôi vừa giẫy cỏ vừa thầm khấn các anh phù hộ cho tất cả đồng đội c̣n sống được tai qua nạn khỏi và mau về sum họp với gia đ́nh. Và thắc mắc không hiểu sao bữa nay bọn cai tù lại tử tế như vậy. Th́ ra, về sau mới biết, có một phái đoàn cao cấp đến thăm trại.

 Cuối năm 1980, cả đội của tôi được điều động đến K5 xây hội trường và khu gia binh cho công an. Tại đây, tôi rất mừng được thấy lại Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, mỗi buổi sáng tập họp. Kỳ này, trông ông đỡ tiều tụy. Tết 1981, mẹ tôi và Bội Trân ra Vĩnh Phú lần thứ hai, với Huyền Trân, cô em út xinh đẹp vừa tṛn mười tám. Tôi soạn một ít bánh ḿ khô, đường và ḿ gói, mấy viên thuốc cảm, bỏ vào một bọc ni-lông, chờ buổi chiều các đội đi tắm suối chung lẻn đến phía các "ḅ lục", gặp Đại tá Quỳnh trao cho ông, nói:

- Tôi mới được thăm, xin biếu Đại tá.

 Hai tháng sau, đến lượt ông được thăm, và một buổi sáng tôi đang đánh vữa th́ đội của ông đi ngang. Ông gật đầu ra dấu cho tôi đến sát hàng rào kẽm gai và dúi vào tay một gói lương khô đủ loại. Thằng vệ binh thấy được, chạy tới khám. Không có thư từ, mật hiệu, nó trả lại, mồm càu nhàu:

- Quà với cáp linh tinh !

 Lúc này, tổ vữa làm việc gần bếp và giếng nước cơ quan. Một hôm, một trung sĩ công an c̣n trẻ, lạ hoắc, lén vệ binh, đến gần, run run hỏi nhỏ:

 - Các anh có B6, cho tôi xin một ít. Nhà tôi mới sinh bị phù (thủng) nặng.

 Việc xảy ra đột ngột, tôi và Bảnh đưa mắt nh́n nhau, không đáp, sợ bị gài bẫy. Anh ta vội tiếp:

- Nói thật đấy mà ! Không tin, các anh cứ vào đây xem.

Suy nghĩ một hồi, tôi đánh liều đi theo anh ta, c̣n Bảnh ở lại canh chừng đống vữa và tên vệ binh. Vào nhà, thấy chị vợ da mét xanh, mặt mày, tay chân sưng húp, nằm bên đứa con đỏ hỏn, bé như con chuột. Chị ta nói thuốc bệnh xá cấp thiếu, và không có thức ăn bổ dưỡng.

 Hai anh chàng phân vân măi. Đối tượng giúp đỡ phải là bạn tù chứ, của đâu mà lo cho Công an ! Nhưng hầu hết anh em đều đă được thăm nuôi, hoặc nếu chưa, đă được Bảnh, tôi và bạn bè chia sẻ phần nào rồi. Cuối cùng, động ḷng trắc ẩn, cả hai góp lại được chừng bốn mươi viên B6 để dành từ các lần tiếp tế, đă quá hạn, nhưng không c̣n ǵ hơn, và một hộp sữa đặc cho đứa bé, đem giấu dưới một gốc cây, làm hiệu cho anh ta đến lấy. Hai tuần sau, một buổi trưa, chị vợ đang nấu bếp cơ quan thấy hai chàng thợ vữa đến, vội tiến ra, nh́n trước nh́n sau, bảo:

 - Cảm ơn hai anh, hôm nay em đă đỡ nhiều. Có xuất cơm trắng và miếng thịt trâu bồi dưỡng em mang cho hai anh ở gốc cây kia. Nhớ xem chừng cán bộ bảo vệ, kẻo em bị kiểm điểm ..

 Rồi từ đội Xây Dựng, tôi được Linh mục Trần Thanh Cao, giỏi nhạc, đẹp trai, vui tính, có quen biết ngoài đời, bốc về đội văn nghệ mới thành lập do ông làm đội trưởng, để tỵ nạn lao động vài tháng, mặc dù tôi dốt đặc về ca nhạc kịch. Nhân tài, cũng cỡ tôi, biệt phái từ các đội. Có ba anh giả ba sơn nữ Phà Ca mang gùi, đeo ṿng, lắc lư múa theo bài Tiếng chày trên sóc Bom Bo, trông xa, và v́ thiếu đàn bà lâu ngày, thấy cũng hấp dẫn không thua Thanh Nga. Có tổ cải lương với đầy đủ vai hề, đào thương, kép độc. Đội được lệnh tŕnh diễn giúp vui một phái đoàn thanh tra trung ương. Cha Cao cho tôi vào ban hợp xướng, bè alto ngang phè phè. Ông khuyến khích các ca viên:

 - Ăn sắn và hút thuốc lào mà hát như vậy là được rồi !

 Một hôm, có tên trại phó đến thăm. Ban hát đang tập một bài có nhắc tên Hồ Chí Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá ǵ đó, do cha Cao đặt ḥa âm thành bốn bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm chú nghe, vui vẻ, rồi bỗng nhăn mặt, gọi cha Cao lại, giận dữ quát:

 - Anh bôi bác Cách mạng đấy phỏng ?  Tên Bác kính yêu như thế mà .. mà anh dám đổi nà Hô, Hố, Hộ, Hổ như thế th́ .. th́ nà anh nếu náo thật !

Cha toan phân trần, nhưng hắn gạt đi:

 - Bỏ, bỏ tất !  Bè với không bè !

 Lần khác, hắn đến xem tập kịch. Hắn lại nhăn mặt, lại gọi cha Cao, chỉ tay về phía ông trung tá nhà văn trọng tuổi, bút danh Kư giả Lô Răng, đóng vai một cán bộ huyện. Tôi đứng gần cha Cao, nghe hắn bảo:

 -Thay anh kia cho tôi !  Cán bộ cách mạng chúng tôi không bao giờ đi chân thọt !  Anh có ư đồ phải không ?

 Cha Cao ngẩn người ra, cứng họng. Bấy giờ, tôi mới nh́n kỹ ông kịch sĩ xui xẻo. Quả thật, chân bước của ông hơi khập khiễng.

 Văn nghệ xong, đội giải tán trong sự tiếc nuối của các nghệ sĩ bất đắc dĩ. Cha Cao đi trồng mía, tôi bị hoàn trả về đội xây, đánh vữa trở lại với Đào Văn Bảnh.

 Bất ngờ, lại bị "biên chế" nữa. Các sĩ quan cấp tá và tuyên úy một sáng sớm phải lên đường di chuyển về một nơi nào không rơ. Tôi ngồi trong hàng nh́n theo bóng Đại tá Quỳnh và bạn bè, có cả Đại đức Long và cha Cao, lầm lũi bước lên xe, mang theo những túi tư trang gọn nhẹ, như chính cuộc đời trống vắng, buồn tênh của đám tù nhân. Lần đó, tôi nghĩ khó c̣n gặp lại nhau, và tự dưng ḷng nao nao như mất người thân thuộc.

 Năm sau, đội Xây Dựng được trở về K1. Mỗi tối, khi cửa buồng giam đóng lại, từng nhóm tụm năm tụm ba nhỏ to nói chuyện, đánh cờ, uống nước trà, hoặc bàn luận thời cuộc từ những tin tức hiếm hoi, thường phóng đại, do các bà thăm nuôi cung cấp. Thời gian này, tôi được nhóm thân hữu đặt biệt danh "b́nh luận gia tin tức quốc tế". Một cách thành thật, tự tin, tôi phân tích theo chiều hướng có lợi, hợp với ước vọng của mọi người, trong khi thực tế có lẽ khác xa. Bọn cán bộ h́nh như về sau cũng muốn thả lỏng, miễn đừng ai phá phách, trốn trại, trốn lao động, hoặc công khai "phản động". Những giàn ăng-ten bị bứng hết, và anh em có thể phát biểu vung vít, thoải mái, trong nội bộ từng nhóm. Bảy năm rồi c̣n ǵ !  Đau khổ đă thành thói quen. Nhớ vợ thương con cũng đă ch́m sâu vào tận cuối hồn. Không c̣n những anh đêm khuya khóc rưng rức trong chăn của thời gian đầu xa gia đ́nh êm ấm. Trái tim hóa thành đá hết rồi. Giờ đây, phản kháng, dưới h́nh thức nào đó, bùng lên từ sự chịu đựng câm nín dồn ép qua nhiều năm. Có người khai bệnh nghỉ lao động dài dài. Hoặc "giả khùng" chửi xéo chế độ. Hoặc c̣n đập cả vệ binh hỗn láo để rồi, dĩ nhiên, bị biệt giam và hành hạ dă man. Tôi bắt đầu để râu, làm tên quản giáo Vinh - nói ngọng, chữ tr thành t, chữ l  thành n - rất ngứa mắt, bắt kiểm điểm, nên thấy hắn từ xa tôi lánh mặt.

 Trong buồng giam có một anh chuyên "chiếu phim", tức kể chuyện, thật hay và duyên dáng. Tối đến, tù nhân bu quanh, thay nhau rót trà, mời kẹo, đấm lưng cho anh ta, để được nghe kể đủ thứ chuyện, từ Cô gái Đồ Long đến La valse dans l'ombre qua Thần điêu đại hiệp. Một anh nữa, Trung úy Phạm Hữu Lư, xuất thân khóa 2 trường Đại học CTCT, bạn đồng tù rất tư cách và tự trọng của tôi, hát nhạc vàng rất mùi. Suốt một đêm giao thừa, Lư ca một hơi hơn một chục bản t́nh lâm ly, như Chiều mưa biên giới anh đi về đâu hoặc Xuân này nếu con không về, chắc mẹ buồn lắm, làm ai nấy mắt cay sè, muốn khóc. Bọn vệ binh gác cửa, đa số là thanh niên nhà quê mới lớn, nghệt cổ ra nghe, thậm chí c̣n bảo "anh lào đó hát nại" vài câu ..

 

   Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và hầu hết các nhân vật trong "truyện" này kẻ trước người sau đă đến bến bờ tự do. Từ Rose City, thỉnh thoảng tôi gọi ông hay viết thư thăm hỏi.  Đại úy Hoàng Bá Linh, Thiếu tá Lê Ân, Trung tá Đào Văn Bảnh đă tạ thế sau khi ra khỏi tù, trong những hoàn cảnh khác nhau. Phi công Nguyễn Hữu Trí không rơ trôi dạt phương nào, cũng như cha Trần Thanh Cao và thầy Nguyễn Long.

 Mẹ tôi qua đời năm 2006, thọ 86, tại quê nhà. Huyền Trân và chồng con vẫn sống tại Nha Trang. Ba tôi mất, không được gặp mặt. Những người em "cải tạo" lần lượt trở về, lần lượt định cư tại các nước, trừ Kha chết trong tù. Bội Trân ở vậy, không yêu ai nữa, đúng theo lời thề hứa, trước khi trở thành một nữ tu ḍng kín Carmélite, giữa tuổi thanh xuân, làm nhiều con tim tan nát. Lệ Ngà yên ngủ giấc ngàn thu, sau một cơn bạo bệnh, trả hết cho dương gian những si mê và t́nh yêu mật đắng. C̣n tôi, sau bao năm vật vă để vá lại mảnh đời rách nát đă bắt tay được với hạnh phúc, một thứ hạnh phúc - nhỏ nhoi so với nỗi đau ngút ngàn từng trải qua. Nhưng hồn vẫn bồng bềnh theo kỷ niệm chỉ chực ̣a vỡ mỗi năm vào cuối tháng 4, hay mỗi lần nhớ đến mẹ và em từ bên trời cũ, hoặc tiếng Đại tá Quỳnh khi ông c̣n khỏe hơn, từ Florida, vang lên trong điện thoại.

 

Nữ tu Marie-Amélie Bội Trân luôn nhắc tôi hăy quên, hăy tha thứ, tha thứ, tha thứ, và nói tất cả chỉ là thử thách Chúa đă gửi đến. Nhưng đối với bạo quyền Việt Cộng, tôi nói, làm sao tha thứ cho được? Đó là một bọn người gian manh, độc tài, chuyên chế, đă d́m cả đất nước vào cảnh lầm than, đói khổ, qua 39 năm, và bây giờ lại c̣n đốn mạt bán nước cho quan thầy Trung Cộng - mối họa muôn đời của dân tộc. Hận thù, tôi sẽ không bao giờ quên, mặc ai phỉnh gạt, kêu gào ḥa giải ḥa hợp. V́ tôi vẫn tin, theo như lời viên đại tướng tổng tài La Mă nói với Juda Ben-Hur lúc chàng c̣n là một tù nhân chèo thuyền (galérien) trong phim cùng tên, Ben-Hur, rằng hận thù cho sức mạnh, làm ta sống c̣n.

 

Portland, 20/4/2014, Chúa Nht Phc Sinh.

KIM THANH

 

(Trnh Cui Huôn sưu tm và chuyn)

 

website counter