Ngày Nào Đá Nát
Vàng Phai
(Kim Thanh)
Thẹn
ḿnh đá nát vàng phai (Kiều)
Giữa năm 1976, từ trại
Long Giao, tôi bị đưa ra Bắc, cùng với các thành phần
"ác ôn, có nợ máu" gồm An Ninh, T́nh Báo, Chiến
Tranh Chính Trị, Bộ Binh, Cảnh Sát, Tuyên Úy, có cả Tổng
Giám Mục Nguyễn Văn Thuận - toàn hàng độc, dữ
dằn dưới mắt Việt Cộng. Gần ba ngàn
người bị xếp như cá hộp dưới hai
khoang hầm tàu chở than, nguyên là của Việt Nam
Thương Tín được cải danh Sông Hương.
Ai ở đâu là chết dí chỗ đấy, tiểu tiện
phải bước qua những thân người nằm rũ
liệt, nghe chửi thề inh ỏi khi lỡ đạp
lên bụng một ông khó tính, mới đến được
cái thùng gỗ nhỏ đặt ở cầu thang. Nước
uống và lương khô được tḥng dây xuống, y
như cảnh trong một phim buôn bán nô lệ đă xem
đâu rồi. Hai ngày sau cặp bến Hải Pḥng. Xe lửa
và molotova bít bùng dàn chào sẵn để rước về
các vùng biên giới, như Yên Bái, Lao Kay .. Bạn bè lạc
nhau từ đây. Tôi đi Hoàng Liên Sơn. Trời nóng hừng
hực. Cửa toa đóng kín, khiến hai ông trung tá chết
ngộp, xác vứt lại bên đường. Ngồi xe
hơi th́ bị trẻ con ném đá, và những bà già Bắc
kỳ răng đen mă tấu tốc váy chửi rủa tục
tằn, với sự làm ngơ đồng lơa của bọn
cán bộ.
Hoàng Liên Sơn với rặng
Fansipan trùng điệp. Những ngày vào rừng, lên núi đốn
tre, chặt gỗ, giơ tay vốc từng nắm
sương la đà dày đục, nếm thử thấy
tê buốt - như môi hôn phút chia ĺa vội vă. Những
đêm lạnh cóng phải đứng ngủ cho bớt run
rẩy trong chiếc chăn đơn cũ mục. Trên
đường lao động, tôi gặp lại bằng hữu
thất tán từ các chiến trường xưa, không hẹn
mà bị "gom bi" đầy đủ. Nh́n nhau cười
như mếu, thấm thía lời huênh hoang của một
tên cán bộ VC: "Các anh có mà chạy đằng giời
!"
Thỉnh thoảng lên núi, tôi và
đồng tổ đội gặp một nhóm Biệt
Kích, bị bắt từ thời Tổng thống Ngô
Đ́nh Diệm, đang lao động "tự giác",
không có vệ binh canh giữ. Họ nh́n đám tân tù binh, vẻ
thương hại, lắc đầu thông cảm,
nhưng cũng có anh không dằn được bực tức,
lớn giọng: "ĐM, mấy cha làm ăn, đánh
đấm như thế nào mà bây giờ kéo nhau ra đây cả
lũ ?". Cả lũ im lặng, tủi hổ, nghe xót
xa bởi lời trách móc không sai. Nói thế, nhưng khi thấy
bọn tôi lóng cóng không buộc chặt nổi bó nứa, họ
ùa đến ân cần phụ giúp, hướng dẫn tận
t́nh, hoặc chia cho sắn luộc và bánh in khô Trung Cộng.
Sức khỏe suy sụp dần.
Sau một lần khiêng gỗ té xỉu giữa đường,
tôi được chuyển vào đội Rau Xanh, gồm
toàn bô lăo - c̣n gọi là đội "sứt cán găy gọng".
V́ c̣n trẻ và ḿnh mẩy tay chân tạm lành lặn, tôi bị
ưu ái nhường ngay chức trưởng tổ phân,
ngày ngày phải hốt đủ mười chuyến phân
bắc, tức phân người, "có chất lượng"
giao cho tổ khác đem ủ thẳng dưới các luống
khoai, hoặc chế biến thành nước tưới
rau. Lúc đầu thấy hăi hùng, muốn nôn oẹ, rồi
ráng nhập thiền để mất đi cảm giác, ư
niệm, nh́n nhưng chẳng biết đó là ǵ nữa. Hết
phân bắc đến phân chuồng (trâu ḅ), cũng tởm
không kém, rồi phân xanh (lá ngâm mục).
Mới đầu, đa số c̣n
phát biểu linh tinh lắm. Hệ thống ăng-ten
chưa được thiết lập qui mô. Trong đội
Rau Xanh có ông Đại úy già gân Hoàng Bá Linh. Ông Linh là người
Quảng B́nh, hay Quảng Trị, trực tánh, ưa kể
chuyện tiếu lâm và chuyện chế độ cũ,
nói năng rất "phản động", thuộc loại
điếc không sợ súng. Trong một buổi học tập
của đội, ông đă phát biểu, lên án "bọn
CTCT ngụy" như sau: "Bọn ngụy tuyên truyền
rất bố láo bố lếu về Bác Hồ vĩ đại,
vô vàn kính yêu của ta, ví dụ họ nói nguyên văn như
ri, tổ cha thằng già Hồ Chí Minh là tên giết người
bán nước, làm tay sai cho thằng Xịt Ta Lin và thằng
Mao Xếnh Xáng .. Họ xuyên tạc bộ đội anh
hùng của ta nguyên văn như ri, là chúng nó ốm đói
quá, bảy thằng Việt Cộng đu một cọng
đu đủ mà không găy .. Thật là mất dạy hết
sức !" v .. v .. Và cứ thế ông nói dai, nói dài, nói lớn
"nguyên văn như ri, như ri", với giọng nặng
trịch, nhừa nhựa thuốc lào. Tất cả sĩ
quan tù binh xanh mặt, cản không được, ngồi
im, lo lắng cho ông. Phải hơn hai phút sau thằng cán bộ
quản giáo mới hiểu ra, lên tiếng cắt ngang, hầm
hầm quát bảo ông im ngay. Nó ức lắm, nhưng lúc ấy
v́ quá bất ngờ chưa biết kết ông vào tội ǵ.
Hôm sau, ông bị dẫn đi "làm việc" khá lâu, rồi
bị biệt giam một tháng. Ra khỏi pḥng biệt giam,
ông tiếp tục mở máy, như cũ, nhe hàm răng
lơ thơ vài chiếc, cười hề hề: "Tui
đâu ngán thằng mô !".
Sau tám tháng, cả trại bị
"biên chế" đi Sơn La, ở chung với tù h́nh
sự, loại "đầu gấu" chuyên giết
người, hiếp dâm, trộm cướp. Một vùng
đèo heo hút gió, nước độc rừng thiêng, gần
Điện Biên Phủ, qua hết dăy núi cao là sang đất
Lào. Quanh năm chỉ thấy mây trời lơ lửng và
đám người Mán, người Mèo tiếng nói líu lo, mỗi
lần xuống núi mặc áo quần sặc sỡ, đàn
ông thổi khèn mở đường, đàn bà gồng gánh
theo sau. Cùng trại có các linh mục, cảnh sát, sĩ quan
đủ binh chủng, vài nhà văn quân đội như,
tôi chỉ c̣n nhớ, Thảo Trường, Thanh Tâm Tuyền,
Văn Quang và Phan Lạc Phúc. Có hai ông cựu và
đương kim Đại tá Linh mục Tuyên úy Lê Trung Thịnh
và Đinh Cao Thuấn. Tôi nằm kế bên Trung tá Đặng
B́nh Minh, phi đoàn trưởng trực thăng của Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu, mùa đông được
anh cho một áo jacket nhà binh rằn ri cũ. Cách tôi hai
người là Trung tá Vũ Hoài Đức, chỉ huy phó
trường ĐH/CTCT, người hiền lành, đạo
đức y như Đại tá Chỉ huy trưởng
Nguyễn Quốc Quỳnh. Ở một đội khác có một
cựu tùy viên của cố Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm,
đeo kính trắng, tên Hùng, không nhớ họ. Ai nấy thiếu
ăn, xác xơ, bắt đầu thấm đ̣n độc
của Việt Cộng: chủ trương cải tạo
bao tử, nghĩa là bắt đói triền miên, để
chế ngự ư chí, và cả tư cách nữa ! Lao động
vinh quang là trồng lúa, sắn, ngô, khoai trên những thửa
đất hoang, khô cằn sỏi đá.
Hơn hai năm sau, Trung Cộng uy
hiếp biên giới, Việt Cộng lo sợ, vội vàng
chuyển tất cả về Vĩnh Phú mà chúng gọi là miền
trung du, đất tổ Hùng Vương. Hùng Vương
đâu chả biết, chỉ thấy toàn núi rừng thâm u
và bộ mặt kinh niên hắc ám của các cai tù, và những
thằng Ăng-Ten, Trật Tự, Thi Đua lăng
xăng, ngu ngốc làm khổ đồng đội c̣n
hơn chính kẻ thù. Trại rộng thênh thang chia làm bảy
khu, gọi là K , cách nhau trung b́nh năm, sáu cây số, nằm
tít phía sau thung lũng sông Hồng. Từ Sài G̣n ra Vĩnh Phú
thăm chồng, các bà "vợ ngụy" xem như chặng
đường thánh giá mới, phải vượt rừng
băng sông, đi đủ các loại xe, kể cả xe
trâu và xe đạp ôm. K7 gần
nhất, giam riêng các biệt kích. Ở giữa, một K
dành cho các thiếu niên phạm pháp, đa số về tội
ăn cắp - có đứa chỉ mới tám tuổi. Tôi ở
K1, xa nhất, tuốt sâu trong núi.
Tại Vĩnh Phú, có anh bạn
trường Đại Học CTCT Đà Lạt, Nguyễn
Ngọc Nhung, Đại úy trưởng pḥng Khảo Hạch,
kiếm đâu ra được chức thủ kho dụng
cụ lao động, cũng nhàn. Một hôm, Nhung kể, một
tên công an vẻ phách lối đến mượn cái xẻng.
Theo thủ tục phải ghi tên vào sổ. Thủ kho,
người Bắc, lịch sự hỏi:
- Xin cán bộ cho biết quư
danh.
Tên nọ không hiểu "quư
danh", há mồm, ngơ ngác, suy nghĩ một hồi, rồi
đột nhiên sừng sộ:
- Anh vi phạm "lội
qui". Ai cho anh lói tiếng lước ngoài hử ?
Nhung sửng sốt, á khẩu. May
phước, nhờ các bạn tù xúm vào thông dịch giùm, anh
mới thoát nạn, sau khi bị sỉ vả tận t́nh.
- Giờ lày mà c̣n ôm chân đế
quốc, lói tiếng nóng ..
Nhung không phải là trường hợp
duy nhất. Bọn cai tù Việt Cộng là chúa nghi ngờ,
nhạy cảm và mặc cảm. Một câu nói vô t́nh, vô tội,
đùa vui cũng bị "nâng cao quan đỉểm"
và những phát biểu viên linh tinh đều bị gọi
đi "làm việc" tận t́nh. Một thiếu úy trẻ,
một bữa trưa Chúa Nhật nghỉ lao động, vừa
phơi chiếu bắt rệp, vừa cao hứng hát bài
"Giết người trong mộng" và gào lên thống
thiết, giết người đi, giết người
đi, bị ăng-ten báo cáo và tên quản giáo xuống
điều tra, qui tội phản động, âm mưu sát
hại Cách mạng, và xách đi biệt giam một tuần
lễ. Hay một anh khác, không hiểu sao, một hôm lớn
tiếng chửi đổng: "ĐM thằng Mỹ-Thiệu",
cũng bị buộc là "tư tưởng c̣n lấn cấn,
anh tức giận bọn Mỹ-Thiệu là v́ chúng nó bỏ
rơi anh, chứ ǵ ?"
Ở trại mới, đầu
tiên, tôi "được" chỉ định về
đội Nông Nghiệp. Phải lội vào một thửa
ruộng bỏ hoang từ bao đời để luân phiên
kéo cày thay cho trâu ḅ. Nước bùn đen đặc quánh,
đỉa bơi lổn ngổn, tḥ chân xuống thấy
ghê rợn - làm tôi nhớ những đầm lầy cũng
kinh khiếp dưới tầng cuối địa ngục
mà thi hào Dante Alighieri phải vượt qua với Virgile,
trong Inferno. Một số đội viên - có Đại úy Cảnh
sát Phạm Bá Điềm, bạn thân từ Sơn La - đă bị
đỉa cắn mấy hôm trước, lên cơn sốt
cấp tính, chỉ hai ngày là hôn mê, rồi chết. Người
sống sót rụng dần lông chân, không mọc lại nữa.
Phải mất thêm vài mạng, đội mới được
lệnh "giải thể".
Thửa ruộng lại bị
bỏ hoang, tôi trở về đội Rau Xanh, như hồi
ở Hoàng Liên Sơn, lại vào tổ phân, lần này giao
cho thợ bón kiêm "tưới viên" là phi công Air Vietnam
Nguyễn Hữu Trí, trung tá biệt phái. Nói chuyện mới
biết Trí bay đường Hồng Kông và Tokyo, có chuyến
với Bội Trân, em tôi, mà anh tả đúng h́nh dáng, nên tôi
tin lắm. Chim bằng găy cánh, Trí tiếc nhớ trời
xanh, giờ giải lao ngước nh́n lên cao, uất ức,
thở dài.
Tết đầu tiên tại
Vĩnh Phú, trại được nghỉ lao động
ba ngày, và tự do đi lại các khu vực. Tôi t́m đến
dăy nhà giam riêng "ḅ lục" (tiếng lóng chỉ đại
tá) để thăm Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, vị
chỉ huy trưởng kính thương của trường
Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt - quân
trường mà tôi được phục vụ hơn hai
năm trong chức vụ Trưởng khoa Nhân Văn Xă Hội
và Sĩ quan Phụ khảo cho đến ngày tan hàng. Tôi thấy
ông cũng vừa bước ra sân, nơi đang diễn
nhiều tṛ vui do tù sáng chế để giết thời
gian và nỗi nhớ nhà. Ông nhận ra tôi ngay. Chung quanh rất
đông người, và dĩ nhiên ăng-ten được
rải đầy. Gặp ông, tôi mừng quá, nói lớn:
- Chào bác, bác vẫn khỏe
chứ ạ ?
Ông nắm tay tôi một lúc lâu, và chậm
răi nói, giọng xúc động:
- Cám ơn anh, tôi vẫn khỏe.
C̣n anh thế nào, có bệnh hoạn ǵ không? Tôi biết anh ở đây lâu rồi,
mà không gặp được.
Tôi cố nuốt những giọt
lệ làm nghẹn cổ họng, xót thương cho phận
vàng phai và đá nát. Cho đất nước bất hạnh.
Cho cả chính ḿnh. Hồn bỗng rưng rưng, thầm gọi
tên một thời yêu thương và thù hận tưởng
đă chết theo cùng với mùa xuân tang tóc và những giấc
mơ phai. Một thời v́ ông chợt hiện về nguyên
vẹn như mới hôm qua.
Sài G̣n, đầu
tháng 5, 1975. Hai ngày sau khi đứng nh́n từ một góc
đường Lê Văn Duyệt, uất hận và nước
mắt lưng tṛng, những chiếc xe tăng chở
đầy Cộng quân vào thủ đô - nghe tên VC nằm
vùng Trịnh Công Sơn hồ hởi ca mừng chiến thắng,
kêu gọi nối ṿng tay lớn tay nhỏ - và chạy tới
chạy lui ḍ la tin tức người thân, bạn bè ai c̣n
ai thoát, tôi t́m được địa chỉ của
Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và đạp xe
đến thăm cùng với hai cựu SVSQ khóa 4, Nguyễn
Gia Hưng và Nguyễn Dự, bất ngờ gặp lại
trên đường. Phu nhân và cô con gái, v́ quen mặt hồi
ở Đà Lạt, tiếp tôi không e dè. Đại tá Quỳnh ra
pḥng khách, áo sơ mi bỏ trong quần tây, chân đi
săng-đan. Trông ông mệt mỏi, có vẻ chán nản,
dù bề ngoài vẫn giữ phong cách nho nhă, lịch sự cố
hữu. Chúng tôi không nói ǵ nhiều. Có lẽ trước thảm
họa chung, ai cũng có nỗi ưu tư riêng, cùng nặng
nề như nhau. Suốt ba hôm liền, tôi bị hối hận
dày ṿ, tự trách đă vụng suy, khí khái hăo, không nghe lời
cô em tiếp viên đưa gia đ́nh lên chuyến Air Vietnam
cuối cùng, khiến tất cả đành phải ở lại,
một số dắt díu nhau trở về Nha Trang để
thấy cửa nhà, tài sản rơi vào tay bọn cách mạng
30 - hạng khố rách áo ôm trước kia đă chịu
ơn ba mẹ tôi, nay trở mặt, gán lên đầu ông bà
đủ thứ tội. C̣n Đại tá Quỳnh, tôi không biết
ông đang tiếc ǵ, nghĩ ǵ, v́ suốt buổi chỉ
nghe ông lặp đi lặp lại :
- Không thể ngờ nhanh như thế
!
Đâu phải một ḿnh ông. Không ai ngờ,
kể cả Dương Văn Minh, tên tướng thiếu
tài, khờ dại, được sinh ra chỉ để
phản bội, và bọn "hàng thần lơ láo" tại
dinh Độc Lập trưa ngày 30/4. Kể cả lũ vượn
người khoác lác ở Bắc bộ phủ. Kể cả
tên đồng minh Kissinger xảo quyệt, tác giả của
cái gọi là hiệp định Paris quái gở bán đứng
miền Nam, người được báo chí Mỹ bơm
lên như nhà ngoại giao vĩ đại, nhưng thực
chất chỉ là một tên trí thức cơ hội chủ
nghĩa và đầy ảo tưởng, chưa tiêu hóa kịp
những bài học bang giao quốc tế ở trường
Đại học Harvard. Kể cả anh tướng hai
sao và ba hoa nọ đă thề thốt ở lại để
ăn mắm tôm cà pháo với đồng bào, vậy mà vào
phút chót nhờ có trực thăng riêng mới vọt ra
được hạm đội Mỹ. Không thể ngờ
nhanh như thế ! Tôi chỉ
biết gật đầu, đồng ư với ông. Cuối
cùng, tôi cất tiếng hỏi:
- Đại tá có
ư định sẽ làm ǵ ?
Ông lưỡng lự vài giây, rồi
trả lời:
- Tôi chưa biết sẽ phải
làm ǵ. Nhưng ở hoàn cảnh nào tôi cũng chấp nhận
những ǵ tệ hại nhất sẽ xảy đến
cho tôi.
Như là mặt trái của bổn
phận và vinh quang, tôi hiểu như thế qua những lời
chậm răi, đắn đo của ông. Những lời tôi
nghe quen từ lâu rồi bỗng mang một ư nghĩa cao
đẹp, phi thường trong bối cảnh bấy giờ.
Những lời đă theo tôi suốt tám năm đày ải,
và cùng với h́nh ảnh của Guillaumet, viên phi công lâm nạn
lầm lũi bước lê trên cát sa mạc, không chịu
ngồi chờ chết, trong Terre des hommes của
Saint-Exupéry, đă khích lệ, vực tôi đứng dậy
để tiếp tục sống c̣n. Tôi cảm động,
và khi từ biệt, siết chặt tay ông, khẽ nói:
- Có một điều Đại tá
nên chắc chắn là dù ngày mai ra sao, tôi sẽ không bao giờ
quên Đại tá và những ǵ Đại tá đă làm cho tất cả
chúng tôi.
Và cho riêng tôi. Ông là một chỉ
huy trưởng nhân hậu, có đức có tài, hơn ai hết,
đă làm tôi thấy yêu thích và kiêu hănh với đời quân
ngũ bất đắc dĩ. Một chỉ huy trưởng
quả cảm và xứng đáng, có tinh thần trách nhiệm
cao độ quyết ở lại với thuộc cấp
cho đến phút cuối, mặc dù ông có một người
con rể là đại tá không quân Mỹ và đủ
phương tiện để tẩu thoát một ḿnh
như đám tướng tá tham sinh úy tử kia đă tranh
nhau đào ngũ trước khi tai họa giáng xuống. Quả
vậy, chín giờ sáng 30/4, tại Tiểu đoàn 50 CTCT,
đường Phan Đ́nh Phùng, bấy giờ là bộ chỉ
huy tiền phương của trường Đại học
CTCT, ông vẫn chỉ thị các sĩ quan hiện diện
và sinh viên sĩ quan các khóa tiếp tục chiến đấu
và pḥng thủ, để rồi, cuối cùng, phải buông
súng, bất lực trước mệnh nước. Tôi
không bao giờ quên được khẩu lệnh cuối
cùng, ngắn ngủi, thật buồn bă của ông cho ban
tham mưu, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng:
- Phát hết
lương khô và cho anh em tan hàng !
.. Thế rồi, mỗi người
chia một nẻo. Ông cũng đi tŕnh diện "cải
tạo" ở một nơi nào đó. Tôi bị tống
vào Long Giao để gặp lại gần toàn bộ sĩ
quan Đại Học CTCT, trong số có người bạn
thân, Đại úy Đỗ Huy Hoàng, chủ bút tờ Ức
Trai của trường. Những chiều lao động về
rảnh rỗi, tôi ṃ sang đội của Hoàng, hoặc
Hoàng sang tôi, để tâm sự vụn cho bớt nhớ
nhà. Nhất là bớt tức. Có cái ǵ uẩn ức, hằn
học nằm trong tiềm thức của mỗi tên tù.
Đau xót và căm giận c̣n hơn bị t́nh phụ.
Nhưng không biết tức ai. Lănh đạo hèn nhát đă
cao bay xa chạy. Thù hận Cộng Sản th́ chẳng ai
dám hé môi nói với ai. Cuối cùng, chỉ có Thượng
Đế nghe đủ những lời ta thán, chửi thề
vu vơ. Trong câu chuyện, chúng tôi điểm mặt từng
người quen, và khi biết toàn trường vào tù, cả
hai cùng thở dài, ngán ngẩm. Tôi c̣n gượng chọc
Hoàng:
- Ức Trai hay Ức Gái ǵ rồi
cũng chui vô rọ hết !
Tại Long Giao, lúc ấy, tôi ở
cùng đội, cùng tổ với Đặng Phùng Hậu,
bác sĩ trưởng bệnh xá trường Đại Học
CTCT, và một nhóm quân y. Cả tổ, v́ tự ái, tự trọng,
không ai than văn về chuyện ăn uống, đói khát trong
tù, kể cả sau này khi viết hồi kư. Hậu vui tính,
kể đủ chuyện, nhờ vậy những ngày ảm
đạm, bực bội qua khá nhanh. Mỗi tối, Hậu
th́ thầm nói chuyện với tôi về thời cuộc,
và lần nào anh cũng lẩm bẩm kết thúc bằng
câu:
- Địt cụ, đau như
hoạn, tức như ḅ đá !
Trong câu chuyện, anh em thường
hỏi về Đại tá Chỉ huy trưởng. Không ai biết
chính xác ông ở đâu. Có tin ông đă chết. Hoặc
đang ở ngoại quốc. Hoặc trốn trong một
khu rừng già. Nhiều đêm trằn trọc, tôi khổ
tâm v́ dĩ văng, cứ ám ảnh măi, như cuốn phim quay lại,
tự động, chậm chạp, lê thê. Nhớ không sót từng
khuôn mặt, từng buổi giảng dạy, từng dịp
lễ. Nhớ từng đêm Giáng sinh giá buốt và tiếng
chuông nhà thờ ngân nga, từng buổi dạ vũ tưng
bừng, mệt nhoài, từng con phố ch́m trong
sương mờ che khuất đường về ..
Bây giờ Đại tá Quỳnh
đứng đó, bên tôi, giữa một ngày xuân héo hon, tại
một nơi mà chúng tôi không bao giờ ngờ sẽ
được dành cho ḿnh. Người ông gầy nhom,
gương mặt hốc hác, má trũng sâu. Tự nh́n lại
h́nh hài, tôi thấy đâu hơn ǵ. Chỉ một thoáng
mơ, bỗng hiện về trong đáy hồn rời ră cả
khung trời yêu thương Đà Lạt và kỷ niệm rực
rỡ của tháng ngày cũ có hạnh phúc c̣n thơm
hương mimosa, có t́nh yêu chưa biết nói lời phản
trắc, có một Đại tá Quỳnh uy nghi trong quân phục
đại lễ gắn cấp hiệu cho sinh viên các khóa,
nay c̣n đâu ! Mới có bốn
năm vật đổi sao dời mà cả hai thầy tṛ
đă trở thành thảm hại đến thế ư
? Ông mặc bộ treillis bạc
màu, chân đi dép râu, sau lưng viết chữ Quỳnh thật
to bằng mực tím. Thấy không ai để ư tôi bèn hỏi
rất khẽ:
- Đại tá nghĩ sẽ có ngày về
không ?
Ông lấy tay che một bên tai, có vẻ
chú ư lắm mới nghe lọt hết. Và trả lời
nhanh, chắc ngại bọn Ăng-ten cứ lượn
qua lượn lại trước mặt:
- Tôi nghĩ là rất khó ḷng, mặc
dù vẫn cố hy vọng. Điều quan trọng là anh gắng
giữ ǵn sức khỏe tốt để có sức chịu
đựng. Gặp anh em khác cho tôi gửi lời thăm !
Một thằng sà tới, tôi vội
nói lớn:
- Bác được thư gia
đ́nh thường chứ ?
Đại tá Quỳnh chưa kịp
đáp th́ hắn đă gay gắt bảo tôi, giọng trọ
trẹ:
- Tôi lưu ư anh, không được
quan hệ với các anh đại tá.
Tôi phản pháo liền:
- Nhưng anh là ai ? Hôm nay ngày Tết
được miễn !
Thằng nọ mặt hầm hầm,
lớn tiếng:
- Tôi ở trong ban Trật Tự. Đề
nghị (tiếng Việt Cộng có nghĩa "yêu cầu")
anh chấm dứt quan hệ linh tinh.
Tôi quay sang Đại tá Quỳnh
:
-Thôi xin từ giă bác, chúc bác mạnh
khỏe, b́nh an trong năm mới.
Rồi nh́n thẳng mặt thằng
Trật Tự, giận dữ bỏ đi. Tôi gặp Đại
tá Quỳnh được một tháng th́ hai đội ḅ lục
- đội trưởng là Lê Đ́nh Luân và Dương Hiếu
Nghĩa - chuyển xuống K5, cách đó độ sáu cây số,
cùng với các linh mục tuyên úy mà bọn Công an đặc
biệt căm thù.
Rồi một
hôm, mẹ tôi lặn lội đến thăm, có Bội
Trân hộ tống. Lần đầu được phép,
sau năm năm chờ đợi. Mất ba ngày đường
trên hai chuyến xe lửa từ Nha Trang ra Hà Nội, từ
Hà Nội lên Ấm Thượng. Qua sông Hồng bằng phà
máy, tới K1 bằng xe trâu. Tại nhà tiếp tân, lúc đó
khá đông người, ba mẹ con ôm nhau khóc, rồi nói
cười, mừng mừng tủi tủi, trước những
cặp mắt cú vọ của lũ vệ binh và quản
giáo. Mẹ thút thít, xoa nắn hai cánh tay và ngực tôi,
như lúc nhỏ tôi ham chơi quên ăn, chê con gầy quá, tội
con quá ! Mẹ bạc gần nửa
mái đầu, da sạm nắng, tay nổi gân xanh. Suốt
năm, Bội Trân nói, mẹ đi thăm nuôi "mệt
nghỉ" rồi lo t́m đường cho con vượt
biên, làm sao mà không già yếu cho được. Ba ông con trai
lớn và một chàng rể tương lai đi cải tạo
bốn nơi khác nhau, cô con gái út bị bắt ngay trên ghe nhỏ,
giam tại A30. Chưa đứa nào thoát được, mẹ
tiếp lời, trừ Thể Trân ra riêng, v́ cả nhà bị
chúng nó theo dơi sát nút.
Bội Trân vẫn đẹp
như trước kia, nổi bật giữa pḥng tiếp,
dù thôi trang điểm. Nhưng tóc cài hờ hững, mắt
buồn vời vợi, mất hết vẻ hồn nhiên,
tinh nghịch cố hữu, khiến tôi ngậm ngùi tưởng
đến những mỹ nhân tự thuở xưa
hương sắc không phai giữa gió đời vùi dập,
kiêu sa trước nghịch cảnh, như các nhân vật nữ
trong những vở kịch cổ Hy Lạp. Em kể, và mẹ
lắng nghe, thỉnh thoảng gật gật đầu,
phụ họa:
- Nhà ḿnh tịch thu được
chúng nó trả lại một nửa, nửa kia làm trụ sở
thanh niên phường. Ba làm rẫy, mẹ lén nấu rượu
chuối cho ba uống thay Martel. Em phụ bán nước mía
với em Huyền Trân. Chị Thể Trân đến
được Mă Lai với chồng con và hiện định
cư tại Pháp. Chị nói anh ngang tàng, đôi lúc chị tức
anh lắm, nhưng vẫn thương anh, hơn bất cứ
ai, bởi anh là mẫu người của đàn ông, có chết
cũng không than van, cầu khẩn, lúc nào cũng hào hùng,
kiêu hănh, giống như con chó sói bị thương trong bài
"La mort du loup" của Vigny ḿnh học năm nào đó
.. Anh nhớ không, hồi nhỏ,
một lần anh đánh lộn với mấy thằng lối
xóm chuyên chận đường chọc ghẹo tụi em,
bị chảy máu mũi, mắt sưng vù, mà anh vẫn cắn
răng chịu đau, không khóc, lại c̣n bị ba mắng
cho nữa ..
Tôi lắc đầu, cười
buồn. Ôi, xa rồi kỷ niệm, nhắc làm chi hỡi
em ? Và đổi đề
tài:
- Kha bây giờ ra sao ? Biết chịu đựng nổi
không em ?
Kha là hôn phu của Bội Trân, phi
công A37, dưới tôi hai lớp tại Jean-Jacques Rousseau. Sắp
cưới th́ mất nước. V́ Bội Trân ở lại,
Kha cũng không đi.
Nghe tôi hỏi, Bội Trân chớp
mắt, buồn rầu nh́n ra sân. Bầu trời thấp,
đục, giăng mây xám, như sắp đổ mưa.
Gió rừng tuôn qua vách nứa ngập gian nhà trống trải,
không cửa, lạnh từng cơn. Em th́ thầm:
- Mẹ và em
đă ghé thăm Kha ở Hà Nam Ninh trên đường lên
anh đây. Cũng tàn úa, như anh, như mọi người,
sức khỏe giảm sút nhiều .. Em sẽ chờ anh ấy,
bao lâu cũng được.
Tôi quay sang mẹ, bùi ngùi nói:
- Tất cả đều do lỗi
của con. Phải chi ngày đó con biết nghe lời em
đưa gia đ́nh ..
Mẹ ngắt lời:
- Cả nước đều lầm,
đâu phải riêng con. Chuyện cũ, thôi đừng nghĩ
đến nữa.
Bội Trân tiếp:
- Nhưng có thế này em mới
được về "về vườn" ở hẳn
với ba mẹ chứ ! Em vẫn
thương anh và hănh diện v́ anh.
Mẹ và em
nói đủ thứ chuyện, nhưng không đề cập
đến một tin tôi chờ mà ngại không dám hỏi.
Dường như hiểu ư, lúc mẹ quay qua tiếp một
bà đồng hành ngồi cùng bàn, Bội Trân nắm bàn tay
tôi, siết chặt, và khẽ nói:
- Lệ Ngà đă lấy chồng.
Hai năm sau khi anh ra đi. Em đâu ngờ !
Tự dưng tôi buột miệng,
không chút mỉa mai:
- Hai năm là c̣n khá thủy chung
đấy chứ em !
Tôi tưởng sẽ phải
đứng tim, ngất xỉu. Nhưng lạ quá, chỉ
thấy buốt nhói một chút như kim châm. Có lẽ v́
đă chuẩn bị đón nhận sự thật quá lâu, từ
năm năm rồi. Một thiên thu. Chợt nhớ một
anh bạn Thiết giáp vừa vào Long Giao mấy tháng đă
nhận được thư vợ xin anh cho phép
"bước thêm một bước nữa" và kư vào
tờ đơn ly dị và giấy nhường tài sản
kèm theo, và cả đời tôi không quên được giọng
cười khinh bạc của anh sau khi viết trả lời:
"Nhất trí. Cho cô hết. Nhưng khuyên cô không nên bước,
mà nên chạy cho nó kịp !". Tôi không được
như anh ta. Bởi vô vàn kỷ niệm ngát hương ngày
mới yêu ùa về, thay nhau vỡ như bong bóng. Lệ Ngà.
Bạn học thân thiết của Bội Trân. Tà áo thiên
thanh và ḍng tóc buông lơi trong nắng sớm phi trường
Liên Khương, những lần em bay lên gặp anh. Lệ
Ngà. Những ly rượu Bordeaux sóng sánh ngọt lịm môi
em trong quán L'Eau Vive và bản sonate 23 của Beethoven, Appassionata,
trên phím dương cầm, thánh thót như từng giọt
lệ rơi, thiết tha như lời tuyệt vọng gọi
người t́nh về. Những ṿng tay cuống quưt t́m nhau
trong hoàng hôn tím trên đồi Cù. Những chân bước
tung tăng qua những đồi thông dưới mưa, từng
hạt long lanh như kim cương. Những lời thề
nguyền yêu đương cho đến lúc đầu bạc
răng long. Lệ Ngà. Hạnh phúc dối gian và ảo vọng
phù du. Tôi nhắm mắt giây lâu, nghe vị đắng và
cơn giận thấm dần xương tủy. Và thở
dài nhè nhẹ, nh́n Bội Trân không nói. Đâu phải t́nh cờ
em nhắc đến con chó sói bị thương, cùng
đường, của Vigny.
Em tiếp, giọng
buồn rưng rưng:
- Không hiểu sao Ngà biết em sắp
đi thăm anh. Đến gặp em, lần đầu tiên
sau mấy năm biệt tích. Em không nỡ đuổi. Khóc
suốt buổi, nhưng không nói một lời ǵ về
anh. Khi chia tay, chị ta nhờ em trao anh những phong
chocolat Meunier mà chị ta nói ngày xưa anh rất thích, và cho
em một số tiền làm lộ phí, nhưng dĩ nhiên em
không nhận ǵ hết .. Em biết tính anh quá mà !
Tôi nói cám ơn em. Rồi cả hai
im lặng, đuổi theo ư nghĩ riêng ..
Hai giờ trôi qua mau. Tên cán bộ
vén tay áo xem đồng hồ, bảo tất cả chuẩn
bị ra về, vác quà vào trại. Khi ôm hôn tôi từ biệt,
lợi dụng tiếng ồn ào, Bội Trân nói một
hơi, thật nhanh, qua màn lệ, bằng tiếng Pháp:
- Ba dặn anh đừng bao giờ
tin bọn Cộng sản, đừng khai thật, khai sao lặp
lại y như vậy, đừng tin các phong trào phục
quốc, tất cả đều là cạm bẫy của
Việt Cộng. Em nghe đài VOA và BBC nói các nghị sĩ,
dân biểu Mỹ, và cả thế giới đang quan tâm
đến số phận của các anh. Đừng tuyệt vọng
nghe anh. Nhớ đọc kinh, cầu nguyện nhiều xin
Chúa và Đức Mẹ che chở. Cả nhà chờ anh đó.
Em thương anh. Em thương anh.
Mẹ và em về hơn hai
tháng, tôi được chỉ định vào đội
Xây Dựng, có nhiệm vụ cất nhà ở cho tù, heo, và
cán bộ, và bắc cầu qua suối cho dân. Lúc đầu
tôi phụ tá cho Lưu Ninh, Thiếu tá Bộ Binh, trong tổ
vữa (trộn hồ), và sau khi Ninh qua "khâu" lợp,
tôi được thăng chức tổ trưởng, và tổ
phó là Đào Văn Bảnh, Trung tá Bộ Tổng Tham Mưu. Bảnh
tính t́nh điềm đạm, cởi mở, sau trở
thành một trong những bạn tù thân thiết nhất.
Không có tổ viên. Suốt ngày hai tên h́ hục trộn hàng
đống vữa lớn, nhỏ, để sẵn, chờ
một toán đem xe cải tiến, do ông cựu nhà báo Việt
Tấn Xă Đinh Phụng Tiến chỉ huy, đến xúc
giao cho các thợ xây. Trong đội, nằm cạnh tôi, có
Đại đức Nguyễn Long, quê Quảng Ngăi, lo nấu
nước, làm tạp dịch. Ông hiền lành, thật thà,
đạo đức, ưa giúp đỡ mọi người.
Nhiều đêm, vài anh nổi cơn, oang oang kể chuyện
đàn bà con gái, chơi bời trước kia. Ông cũng bị
nghe, và lần nào cũng lầm rầm bên tai tôi:
- Mô Phật ! Chơi chi mà chơi dữ rứa
hè !
Bữa nọ, một bà già khu gia
binh cho đội một con chó con vừa chết. Một
anh gốc Hố Nai xung phong trổ tài nấu rựa mận
với muối, rau muống, và củ riềng - mọc
đầy bên vệ đường. Mỗi người
được chia hai miếng bằng ngón chân cái. Ai cũng
"hồ hởi" ăn, trừ Đại đức
Long. Ông đi t́m tôi, cho phần của ông, mặc dù quanh
năm ai cũng thiếu chất thịt và ông chưa
được thăm nuôi. Ông nói:
- Tôi c̣n tu. Anh ăn giùm cho !
Đổi lại, tôi tặng ông
phần sắn, nhưng ông nhất quyết không nhận.
Một hôm, đội được
điều động làm công tác "đột xuất"
(bất ngờ) là ra "nghĩa địa", tức một
băi đất trống sát chân núi, làm cỏ và cắm mộ
bia cho các tù binh đă nằm xuống. Tôi đếm gần
hai trăm mộ - kỳ thực chỉ là những nấm
đất vùi sơ với mảnh gỗ nhỏ ghi vội
tên người chết. Trong số có vài ông tỉnh trưởng,
trung đoàn trưởng. Có Trung tá Nguyễn Văn Năm,
thuộc trường Đại học CTCT, người hiền
như Bụt, nổi tiếng về khoa bói toán, bấm
độn, và một người quen biết từ trại
Sơn La, Trung tá Đặng B́nh Minh - cả hai trúng nắng cùng
một lúc ngoài hiện trường lao động,
được chở về trại cùng trong một chiếc
xe trâu, hôn mê và qua đời cùng một giờ. Anh em kể,
vợ phi công Minh, một dược sĩ trẻ đẹp,
mới thăm anh vài ngày trước, từ Hà Nội trở
lại thăm tiếp đúng lúc anh vừa mất,
được dẫn ra nghĩa địa, khóc như
mưa, rồi cắt tóc để lại trên mộ cùng với
một bài thơ. Tôi vừa giẫy cỏ vừa thầm
khấn các anh phù hộ cho tất cả đồng đội
c̣n sống được tai qua nạn khỏi và mau về
sum họp với gia đ́nh. Và thắc mắc không hiểu
sao bữa nay bọn cai tù lại tử tế như vậy.
Th́ ra, về sau mới biết, có một phái đoàn cao cấp
đến thăm trại.
Cuối năm 1980, cả đội
của tôi được điều động đến
K5 xây hội trường và khu gia binh cho công an. Tại
đây, tôi rất mừng được thấy lại Đại
tá Nguyễn Quốc Quỳnh, mỗi buổi sáng tập họp.
Kỳ này, trông ông đỡ tiều tụy. Tết 1981, mẹ
tôi và Bội Trân ra Vĩnh Phú lần thứ hai, với Huyền
Trân, cô em út xinh đẹp vừa tṛn mười tám. Tôi soạn
một ít bánh ḿ khô, đường và ḿ gói, mấy viên thuốc
cảm, bỏ vào một bọc ni-lông, chờ buổi chiều
các đội đi tắm suối chung lẻn đến
phía các "ḅ lục", gặp Đại tá Quỳnh trao cho
ông, nói:
- Tôi mới được
thăm, xin biếu Đại tá.
Hai tháng sau, đến lượt
ông được thăm, và một buổi sáng tôi đang
đánh vữa th́ đội của ông đi ngang. Ông gật
đầu ra dấu cho tôi đến sát hàng rào kẽm gai
và dúi vào tay một gói lương khô đủ loại. Thằng
vệ binh thấy được, chạy tới khám. Không
có thư từ, mật hiệu, nó trả lại, mồm
càu nhàu:
- Quà với cáp linh tinh !
Lúc này, tổ vữa làm việc gần
bếp và giếng nước cơ quan. Một hôm, một
trung sĩ công an c̣n trẻ, lạ hoắc, lén vệ binh,
đến gần, run run hỏi nhỏ:
- Các anh có B6, cho tôi xin một ít. Nhà
tôi mới sinh bị phù (thủng) nặng.
Việc xảy ra đột ngột,
tôi và Bảnh đưa mắt nh́n nhau, không đáp, sợ bị
gài bẫy. Anh ta vội tiếp:
- Nói thật đấy mà ! Không
tin, các anh cứ vào đây xem.
Suy nghĩ một hồi,
tôi đánh liều đi theo anh ta, c̣n Bảnh ở lại
canh chừng đống vữa và tên vệ binh. Vào nhà, thấy
chị vợ da mét xanh, mặt mày, tay chân sưng húp, nằm
bên đứa con đỏ hỏn, bé như con chuột. Chị
ta nói thuốc bệnh xá cấp thiếu, và không có thức
ăn bổ dưỡng.
Hai anh chàng phân vân măi. Đối tượng
giúp đỡ phải là bạn tù chứ, của đâu mà
lo cho Công an ! Nhưng hầu hết anh em đều đă
được thăm nuôi, hoặc nếu chưa, đă
được Bảnh, tôi và bạn bè chia sẻ phần
nào rồi. Cuối cùng, động ḷng trắc ẩn, cả
hai góp lại được chừng bốn mươi
viên B6 để dành từ các lần tiếp tế, đă
quá hạn, nhưng không c̣n ǵ hơn, và một hộp sữa
đặc cho đứa bé, đem giấu dưới một
gốc cây, làm hiệu cho anh ta đến lấy. Hai tuần
sau, một buổi trưa, chị vợ đang nấu bếp
cơ quan thấy hai chàng thợ vữa đến, vội
tiến ra, nh́n trước nh́n sau, bảo:
- Cảm ơn hai anh, hôm nay em
đă đỡ nhiều. Có xuất cơm trắng và miếng
thịt trâu bồi dưỡng em mang cho hai anh ở gốc
cây kia. Nhớ xem chừng cán bộ bảo vệ, kẻo
em bị kiểm điểm ..
Rồi từ đội Xây Dựng,
tôi được Linh mục Trần Thanh Cao, giỏi nhạc,
đẹp trai, vui tính, có quen biết ngoài đời, bốc
về đội văn nghệ mới thành lập do ông
làm đội trưởng, để tỵ nạn lao
động vài tháng, mặc dù tôi dốt đặc về
ca nhạc kịch. Nhân tài, cũng cỡ tôi, biệt phái từ
các đội. Có ba anh giả ba sơn nữ Phà Ca mang gùi,
đeo ṿng, lắc lư múa theo bài Tiếng chày trên sóc Bom Bo,
trông xa, và v́ thiếu đàn bà lâu ngày, thấy cũng hấp
dẫn không thua Thanh Nga. Có tổ cải lương với
đầy đủ vai hề, đào thương, kép
độc. Đội được lệnh tŕnh diễn giúp
vui một phái đoàn thanh tra trung ương. Cha Cao cho tôi
vào ban hợp xướng, bè alto ngang phè phè. Ông khuyến
khích các ca viên:
- Ăn sắn và hút thuốc lào mà
hát như vậy là được rồi !
Một hôm, có tên trại phó đến
thăm. Ban hát đang tập một bài có nhắc tên Hồ
Chí Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá ǵ đó, do cha Cao đặt
ḥa âm thành bốn bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm
chú nghe, vui vẻ, rồi bỗng nhăn mặt, gọi cha
Cao lại, giận dữ quát:
- Anh bôi bác Cách mạng đấy
phỏng ? Tên Bác kính yêu như
thế mà .. mà anh dám đổi nà Hô, Hố, Hộ, Hổ
như thế th́ .. th́ nà anh nếu náo thật !
Cha toan phân trần, nhưng
hắn gạt đi:
- Bỏ, bỏ tất ! Bè với không bè !
Lần khác, hắn đến xem tập
kịch. Hắn lại nhăn mặt, lại gọi cha
Cao, chỉ tay về phía ông trung tá nhà văn trọng tuổi,
bút danh Kư giả Lô Răng, đóng vai một cán bộ huyện.
Tôi đứng gần cha Cao, nghe hắn bảo:
-Thay anh kia cho tôi ! Cán bộ cách mạng chúng tôi không
bao giờ đi chân thọt !
Anh có ư đồ phải không ?
Cha Cao ngẩn người ra, cứng
họng. Bấy giờ, tôi mới nh́n kỹ ông kịch sĩ
xui xẻo. Quả thật, chân bước của ông
hơi khập khiễng.
Văn nghệ xong, đội giải
tán trong sự tiếc nuối của các nghệ sĩ bất
đắc dĩ. Cha Cao đi trồng mía, tôi bị hoàn trả
về đội xây, đánh vữa trở lại với
Đào Văn Bảnh.
Bất ngờ, lại bị
"biên chế" nữa. Các sĩ quan cấp tá và tuyên úy
một sáng sớm phải lên đường di chuyển về
một nơi nào không rơ. Tôi ngồi trong hàng nh́n theo bóng Đại
tá Quỳnh và bạn bè, có cả Đại đức Long và
cha Cao, lầm lũi bước lên xe, mang theo những túi
tư trang gọn nhẹ, như chính cuộc đời trống
vắng, buồn tênh của đám tù nhân. Lần đó, tôi
nghĩ khó c̣n gặp lại nhau, và tự dưng ḷng nao nao
như mất người thân thuộc.
Năm sau, đội Xây Dựng
được trở về K1. Mỗi tối, khi cửa
buồng giam đóng lại, từng nhóm tụm năm tụm
ba nhỏ to nói chuyện, đánh cờ, uống nước
trà, hoặc bàn luận thời cuộc từ những tin tức
hiếm hoi, thường phóng đại, do các bà thăm
nuôi cung cấp. Thời gian này, tôi được nhóm thân hữu
đặt biệt danh "b́nh luận gia tin tức quốc
tế". Một cách thành thật, tự tin, tôi phân tích
theo chiều hướng có lợi, hợp với ước
vọng của mọi người, trong khi thực tế
có lẽ khác xa. Bọn cán bộ h́nh như về sau cũng
muốn thả lỏng, miễn đừng ai phá phách, trốn
trại, trốn lao động, hoặc công khai "phản
động". Những giàn ăng-ten bị bứng hết,
và anh em có thể phát biểu vung vít, thoải mái, trong nội
bộ từng nhóm. Bảy năm rồi c̣n ǵ ! Đau khổ đă thành thói quen. Nhớ
vợ thương con cũng đă ch́m sâu vào tận cuối
hồn. Không c̣n những anh đêm khuya khóc rưng rức trong
chăn của thời gian đầu xa gia đ́nh êm ấm.
Trái tim hóa thành đá hết rồi. Giờ đây, phản
kháng, dưới h́nh thức nào đó, bùng lên từ sự
chịu đựng câm nín dồn ép qua nhiều năm. Có
người khai bệnh nghỉ lao động dài dài. Hoặc
"giả khùng" chửi xéo chế độ. Hoặc
c̣n đập cả vệ binh hỗn láo để rồi,
dĩ nhiên, bị biệt giam và hành hạ dă man. Tôi bắt
đầu để râu, làm tên quản giáo Vinh - nói ngọng,
chữ tr thành t, chữ l thành
n - rất ngứa mắt, bắt kiểm điểm, nên
thấy hắn từ xa tôi lánh mặt.
Trong buồng giam có một anh chuyên
"chiếu phim", tức kể chuyện, thật hay
và duyên dáng. Tối đến, tù nhân bu quanh, thay nhau rót trà, mời
kẹo, đấm lưng cho anh ta, để được
nghe kể đủ thứ chuyện, từ Cô gái Đồ
Long đến La valse dans l'ombre qua Thần điêu đại
hiệp. Một anh nữa, Trung úy Phạm Hữu Lư, xuất
thân khóa 2 trường Đại học CTCT, bạn đồng
tù rất tư cách và tự trọng của tôi, hát nhạc
vàng rất mùi. Suốt một đêm giao thừa, Lư ca một
hơi hơn một chục bản t́nh lâm ly, như Chiều
mưa biên giới anh đi về đâu hoặc Xuân này nếu
con không về, chắc mẹ buồn lắm, làm ai nấy
mắt cay sè, muốn khóc. Bọn vệ binh gác cửa,
đa số là thanh niên nhà quê mới lớn, nghệt cổ
ra nghe, thậm chí c̣n bảo "anh lào đó hát nại"
vài câu ..
Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh
và hầu hết các nhân vật trong "truyện" này kẻ
trước người sau đă đến bến bờ
tự do. Từ Rose City, thỉnh thoảng tôi gọi ông hay
viết thư thăm hỏi.
Đại úy Hoàng Bá Linh, Thiếu tá Lê Ân, Trung tá Đào
Văn Bảnh đă tạ thế sau khi ra khỏi tù, trong
những hoàn cảnh khác nhau. Phi công Nguyễn Hữu Trí
không rơ trôi dạt phương nào, cũng như cha Trần
Thanh Cao và thầy Nguyễn Long.
Mẹ tôi qua đời năm 2006,
thọ 86, tại quê nhà. Huyền Trân và chồng con vẫn
sống tại Nha Trang. Ba tôi mất, không được gặp
mặt. Những người em "cải tạo" lần
lượt trở về, lần lượt định
cư tại các nước, trừ Kha chết trong tù. Bội
Trân ở vậy, không yêu ai nữa, đúng theo lời thề
hứa, trước khi trở thành một nữ tu ḍng kín
Carmélite, giữa tuổi thanh xuân, làm nhiều con tim tan nát. Lệ
Ngà yên ngủ giấc ngàn thu, sau một cơn bạo bệnh,
trả hết cho dương gian những si mê và t́nh yêu mật
đắng. C̣n tôi, sau bao năm vật vă để vá lại
mảnh đời rách nát đă bắt tay được với
hạnh phúc, một thứ hạnh phúc - nhỏ nhoi so với
nỗi đau ngút ngàn từng trải qua. Nhưng hồn vẫn
bồng bềnh theo kỷ niệm chỉ chực ̣a vỡ
mỗi năm vào cuối tháng 4, hay mỗi lần nhớ
đến mẹ và em từ bên trời cũ, hoặc tiếng
Đại tá Quỳnh khi ông c̣n khỏe hơn, từ Florida,
vang lên trong điện thoại.
Nữ tu Marie-Amélie Bội
Trân luôn nhắc tôi hăy quên, hăy tha thứ, tha thứ, tha thứ,
và nói tất cả chỉ là thử thách Chúa đă gửi
đến. Nhưng đối với bạo quyền Việt
Cộng, tôi nói, làm sao tha thứ cho được? Đó là một
bọn người gian manh, độc tài, chuyên chế,
đă d́m cả đất nước vào cảnh lầm
than, đói khổ, qua 39 năm, và bây giờ lại c̣n
đốn mạt bán nước cho quan thầy Trung Cộng
- mối họa muôn đời của dân tộc. Hận
thù, tôi sẽ không bao giờ quên, mặc ai phỉnh gạt,
kêu gào ḥa giải ḥa hợp. V́ tôi vẫn tin, theo như lời
viên đại tướng tổng tài La Mă nói với Juda
Ben-Hur lúc chàng c̣n là một tù nhân chèo thuyền (galérien) trong
phim cùng tên, Ben-Hur, rằng hận
thù cho sức mạnh, làm ta sống c̣n.
Portland, 20/4/2014, Chúa Nhật Phục Sinh.
KIM THANH
(Trịnh Cuối Huôn sưu tầm và chuyển)