Chuyện Đời Của Ba Tôi
(Phùng Annie Kim)
Bài viết tác giả dành
cho Father's Day năm nay là chuyện đời phiêu lưu của
một chàng trai làng quê miền Bắc vào Nam lập nghiệp
từ 1942, rồi trở thành chủ cơ xưởng sản xuất
và nhập cảng các loại đàn địch, nhạc cụ
tại Sàig̣n trước 1975. Tác giả là một nhà giáo,
định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991, hiện
là cư dân Westminster, California. Bài viết về nước
Mỹ đầu tiên của Bà là "Kock and Me / Vi trùng lao
và Tôi," từ tháng Tư 2013 tới nay đă có hơn
300,000 lượt người đọc. Viết Về
Nước Mỹ 2014, tác giả góp thêm 12 bài, cho thấy sức
viết mạnh mẽ. H́nh ảnh kèm theo là người cha
họ Phùng và công việc sản xuất các loại đàn
tại cơ xưởng của ông ở Sài G̣n trước
đây.
* * *
Trong nhà, anh chị
em chúng tôi có người gọi là "ba" theo tiếng gọi
miền Nam. Hai cô em học Trưng Vương ảnh
hưởng miền Bắc gọi "ba" là "bố".
Khi vắng Ba, nói về Ba rất gần gũi, thân
thương, chúng tôi gọi ông là "ông già", có khi là
"bố già". Có người gọi "ba" là
"cha", là "thầy", là "tía", là "cậu"
..
Ông nội tôi là một
nhà nho nghèo, đường thi cử gặp nhiều trắc
trở nên mộng quan trường đành phải gác lại.
Không làm quan th́ làm thầy đồ dạy học cho
dăm ba đứa trẻ trong làng. Ông có hai bà vợ, bà cả
sinh ra mỗi bác gái, bà sau sinh thêm hai người con gái và
năm ông con trai đặt tên theo vần "inh" nghe lạ
tai. Bác Cả Đính, ba tôi là ông Hai Đinh, chú Ba Thinh, chú
tư Nghinh, chú năm Hinh.
Hồi c̣n nhỏ,
tôi hay thắc mắc nhưng không dám hỏi người lớn.
Là nhà nho sao ông nội đặt tên năm ông con trai đều
xấu cả, chẳng hiểu ư nghĩa ǵ, nhất là tên
Ba tôi c̣n có nghĩa là cái đinh. Lớn thêm chút nữa, má
kiêng tên húy, dặn chúng tôi đọc trại ra tên ba là
"đanh". Gọi tên ba là "đanh" nghe càng thấy
kỳ. Sau này tôi hỏi Ba, Ba nói "Đinh" có nghĩa
là người chẳng hạn như "thành đinh"
có nghĩa là người đến tuổi trưởng
thành. Ba giải thích thêm sinh trước Ba có hai bác gái và bác
cả Đính, Ba là người thứ tư.
"Đinh" là can thứ tư trong mười hai
can."Đinh" ghép với tuổi Tỵ là con rắn
thành tuổi Đinh Tỵ là tuổi của Ba.
Nhà nghèo nên ngoài
dăm ba chữ Nho của ông nội truyền cho các con, ba
tôi phải đi chăn trâu, cắt cỏ, làm ruộng cho
ông anh rể giàu và có uy quyền nhất trong làng là bác chánh tổng
San. Ba tôi ham chơi để trâu đói, bị ông anh rể
nọc ra đánh đ̣n, phơi giữa sân nắng. Sau khi
ông nội mất, hận cái kiếp nghèo của thằng
chăn trâu chỉ biết cuộc đời quanh lũy
tre xanh của làng Đào Xá, giận roi đ̣n hành hạ và sự
khinh miệt của ông anh rể, ấm ức v́ bà chị
gái bị ông chồng giàu bạc đăi, lại thêm có máu
giang hồ thích phiêu lưu. ba tôi bỏ lên Hà Nội học
nghề đàn với các anh.
Thời đó, các
chú các bác trong làng Đào Xá lên Hà Nội, đa số theo học
nghề đàn nên nghề này trở thành nghề truyền
thống của họ Phùng và trai làng. Sau này có bác làm ăn
khá giả mở cửa hiệu đàn ở Hà nội. Ba
tôi không dừng tại đó. Ông khéo tay, thông minh, có nhiều
sáng kiến. Mộng làm giàu và máu phiêu lưu thúc giục ba
tôi đi t́m môt thị trường mới đầy hấp
dẫn và gian nan: Sài G̣n. Má tôi bế cậu con trai đầu
ḷng mới sinh được vài tháng theo ba trong chuyến
xe lửa Xuyên Việt vào Nam năm 1942, mở đầu
cho những chuyến di dân sớm của người miền
Bắc vào Nam sinh cơ lập nghiệp.
Cơ ngơi của
ba má tôi lúc bấy giờ là thuê một mặt tiền chu vi
khoảng ba mươi mét vuông, ban ngày vừa là cửa hàng
bán đàn, vừa là xưởng sản xuất đàn, nấu
nướng, ăn uống, sinh hoạt gia đ́nh ngủ,
nghỉ trên chiếc sập gỗ xoay quanh không gian nhỏ
bé này. Gọi là xưởng sản xuất thật ra chỉ
là một góc nhà, một chiếc ghế gỗ dài, thấp,
vài ba thùng đựng đồ nghề, ba tôi mua gỗ và vật
liệu về chế biến thành những cây đàn
mandolin, guitar. Hoàn thành xong cây nào, má tôi làm công việc đánh
vec-ni , gắn khóa đàn, mắc dây đàn. Má có cái tai thẩm
âm, lên dây đàn không cần "diabason". "Diabason"
là dụng cụ lên dây đàn giống như cái kèn. Đàn
nào làm xong, Má treo lên tường, bán lẻ.
Thành phố Sài G̣n
lúc bấy giờ c̣n mới mẻ, có mấy ai dám đi
tiên phong, xông xáo vào lănh vực sản xuất mặt hàng
đầy tính nghệ thuật này.Thời đó, phong trào
chơi đàn mandolin nở rộ. Ba kể má tôi làm công việc
"tiếp thị" rất thành công nghĩa là mỗi lần
khách ghé vào tiệm, má không quên chơi vài bản nhạc
để "câu" khách. Người khách nào vào tiệm
rồi, nghe má tôi chơi đàn mandoline th́ khó mà ra về
không mang theo một cây đàn trên tay.
Tôi c̣n nhớ khi
tôi học trường tiểu học Tôn Thọ Tường,
h́nh ảnh ấn tượng nhất của ba má tôi là tôi
say mê đứng nghe má tôi chơi đàn mandoline bài
"Sơn nữ ca", "Bến Xuân" hoặc
"Đường lên sơn cước" c̣n ba tôi
đầu tóc lúc nào cũng bụi và dăm bào. Suốt
ngày, Ba cong lưng trong chiếc áo thun ba lỗ và chiếc quần
đùi màu cháo ḷng, miệt mài bào, đục, cưa, cắt,
ngắm nghía, đo đạc .. Chung quanh Ba là mạt
cưa, dăm bào, đồ nghề và những bộ phận
của cây đàn chưa thành h́nh.
Hai h́nh ảnh cần
cù, chịu thương chịu khó ấy đă giúp cho việc
buôn bán càng ngày càng thành đạt và nuôi lớn chín anh chị
em chúng tôi. Từ một cơ ngơi thuê mướn, nhiều
năm sau, cửa hàng trở nên khang trang , có tủ kính bày
đàn, có quầy bán dây đàn và các mặt hàng linh tinh trong
nghề. Ba má tôi mua lại căn nhà trệt sâu gần bốn
mươi mét. Số thợ có hơn mười người.
Ba tôi trở thành ông chủ của một cơ xưởng
làm đàn nhỏ.
Thị trường
nghề đàn càng ngày càng phát triển. Có đầu óc kinh
doanh, có tinh thần khai phá, cầu tiến, không hài ḷng với
thị trường đàn nhỏ bé là Sài G̣n, ba và bạn
bè rủ nhau lặn lội qua Miên, Lào t́m hiểu thêm công việc
làm ăn buôn bán xứ người. Lúc ấy chúng tôi c̣n nhỏ,
không biết ǵ về việc làm ăn của Ba. Sau này, nghe
các bác, các chú, các anh kể lại, ba tôi làm giàu nhờ những
chuyến đi buôn vàng này. Ba về Hà Nội, mang những
xấp tiền Đông Dương mua cho chú Ba một cái nhà
ở phố Hàng Da, cho chú Tư một căn nhà ở phố
Huế, một căn nhà cho bác Cả Đính ở Hải
Pḥng nhất là giúp đỡ tiền để chuộc lại
cái nhà ở phố hàng Gà của bác chánh tổng San, sau này
nghèo túng, bác trai phải cầm cố.
Từ những câu
chuyện này, chúng tôi học được hai bài học lớn
của Ba tôi là tấm ḷng rộng
lượng, biết tha thứ kẻ đă từng đày
đọa ḿnh thời hàn vi và bài học về sự
thương yêu, bao bọc, chia sẻ tài sản cho anh em.
Ước mơ của Ba là làm giàu để có tiền mua
nhà, giúp cho các anh em trai thoát cảnh đói nghèo và chuộc lại
căn nhà của bà chị để bà thoát khỏi cảnh
bị áp bức bởi ông chồng gia trưởng, hách dịch,
keo kiệt.
Năm 1953, tiệm
đàn mang tên ba tôi: Phùng Đinh số 120 Hồ văn Ngà, từ
căn nhà trệt được cơi lên ba tầng. Ba má
mời ông ngoại và bà con ngoài Bắc vào Nam dự lễ
tân gia. Tuy c̣n nhỏ nhưng tôi vẫn nhớ h́nh ảnh tiếng
trống thùng th́nh, tiếng phách xập x́nh, tiếng ca hát í
a cả đêm, các buổi tiệc tùng ăn uống, khách
khứa ra vào suốt mấy ngày. Ông ngoại tôi
phương phi, vóc dáng dong dỏng cao, mặc chiếc áo
the đen mỏng, hay làm thơ, ngồi gơ phách trên chiếc
chiếu hoa. Bài thơ ông ngoại đề tặng trong
ngày tân gia, Ba má tôi c̣n giữ lại như một kỷ niệm,
được mấy cô hát ả đào lúc bấy giờ
ngâm nga:
Hồng vận năm nay đại phát tài
Làm nhà, con đỗ lại sinh trai
Sự nghiệp gầy vun giờ đă vững
Thương trường tranh đấu chẳng
thua ai
Bốn tiếng tàu bay đi chửa rộng
Ba tầng thang gác ở chưa to
Làng chơi ai thích mua đàn đẹp
Đến tiệm Phùng Đinh sẽ có ngay.
Sau chuyến đi
Nam năm 1953, ông ngoại, chú Ba, chú Tư quyết định
về Bắc chăm lo mồ mả các cụ. Chú Năm
đi kháng chiến hy sinh. Hiệp định Geneve
được kư kết năm 1954. Chỉ c̣n bác Cả ở
lại miền Nam. Ba mua cho bác Cả căn nhà mặt tiền
ở đường Hiền Vương, mở cửa hiệu
bán đàn làm phương tiện sinh sống cho gia đ́nh
Bác.
Tiệm đàn
Phùng Đinh bấy giờ không những là cửa hàng bán lẻ
c̣n là một xưởng sản xuất đàn quy mô, bán sỉ
cho các đại lư ở hai miền Trung và miền Tây. Hàng
tháng ba đi một ṿng các tỉnh miền Tây vừa tiếp
cận thị trường vừa thu tiền từ các
đại lư bán sỉ. Nhờ kỹ thuật giỏi, chữ
"tín", sự ḥa nhă và sự thành thật trên
thương trường, ba có nhiều mối hàng lớn.
Đối thủ của Ba lúc bấy giờ là ông hàng xóm
Quang Thành t́m đủ mọi thủ đoạn cạnh
tranh như xuống giá đàn, dụ dỗ thợ, khách
hàng .. tiệm đàn của ba vẫn càng ngày càng khuếch
trương lớn..
Từ khi số thợ
đông lên tới vài ba chục người, mối manh nhiều,
đàn sản xuất không kịp cung cấp cho thị
trường, mặt bằng lại chật hẹp, con cái
càng ngày càng đông và khôn lớn, ba má mua thêm căn nhà 118 bên
cạnh. Hai căn thông với nhau, một bên là nhà ở, một
bên là xưởng. Ba chạy lo vật liệu, trông coi kỹ
thuật, lương tháng , thợ thuyền, thị trường
bán sỉ. Má lo cửa hàng bán lẻ, tiền bạc, chợ
búa, cơm nước cho thợ, chăm sóc con cái học
hành ..
Chúng tôi lớn lên
trong tiếng máy cưa xoèn xoẹt, tiếng bào lào xào, tiếng
búa đập th́nh thịch, tiếng đục gỗ ầm
ầm, tiếng cười đùa và chuyện tṛ râm ran của
thợ nhất là tiếng lên giây đàn mandolin, những nốt
nhạc đồ- rê -mi réo rắt vang lên theo những bước
chân chạy nhảy lên cầu thang sau những buổi tan
trường.
Nhắc đến
sự thành công của Ba, ngoài yếu tố thiên thời là
thời vận làm ăn phất lên, địa lợi là
cơ sở vật chất rộng lớn thuận tiện
c̣n là yếu tố nhân ḥa. Bài học tôi tâm đắc nhất
về ba tôi đó là tinh thần b́nh đẳng, chan ḥa,
không phân biệt giai cấp trong việc cư xử với
thợ. Tất cả các thợ đều là các bác, chú, các
cậu của tôi. Xưởng đàn của ba tôi như một
gia đ́nh nhỏ. Họ gọi Ba tôi bằng anh Hai có khi
bác Hai. Nếu khách hàng vào đây sẽ không phân biệt ai là
chủ, ai là thợ.
Xuất thân là
người thợ làm đàn, văn chương hoa mỹ
gọi đó là những "nghệ nhân", Ba tôi vào Nam,
tha phương cầu thực với hai bàn tay trắng,
H́nh ảnh Ba tôi cũng như các chú Tuế, cậu Lă và những
người thợ khác .. lúc nào cũng là chiếc quần
đùi và cái áo may-ô lấm láp mạt cưa và bụi bặm.
Ba ngồi thành hàng dài với thợ trên chiếc ghế gỗ,
thấp của Ba. Ba cũng cưa, bào, đục, đẽo,
mài, dũa, khi th́ Ba góp ư thợ này, khi th́ nhắc nhở thợ
kia, khi th́ trầm tư nghiên cứu, khi th́ lăng xăng
chỉ dẫn tay nghề cho các chú thợ trẻ. Ba làm công
việc của người thợ cả ôn tồn, gần
gũi, ḥa ḿnh với họ. Tuổi thơ nghèo khổ
đă khơi dậy trong tâm hồn ông tấm ḷng
thương người, thông cảm với tầng lớp
công nhân, chia sẻ công việc và nỗi nhọc nhằn với
thợ.
Đối với
tôi, điều khó làm nhất của con người là biết
kềm chế ḷng tham vô đáy luôn luôn thúc dục ta t́m cách
vơ vét những cái lợi về tiền bạc, vật
chất cho ḿnh. Cái tính vị kỷ ấy làm cho con người
sống bo bo chỉ biết có ḿnh, không có t́nh người
.. Ba tôi là một người chủ tử tế, rộng
lượng và hào hiệp. Ông biết chia sẻ một cách
hợp lư, hợp t́nh của cải ḿnh kiếm được
cho những người cộng sự. Ông biết trân quư
công lao đóng góp của họ làm nên tài sản cho ḿnh. Ba má
thường dạy dỗ các con " Người ăn
th́ c̣n, con ăn th́ hết ". V́ thế, Ba có những
người thợ tuyệt đối trung thành, xem xưởng
đàn như ngôi nhà thứ hai của ḿnh. Họ gắn bó
nghề đàn với Ba suốt mấy chục năm. Họ
thay Ba Má đặt cho chúng tôi những cái tên từ khi chúng
tôi ra đời cho đến khi mất nước.
Má nói tử vi Ba có
cung Nô bộc. Tôi nghĩ khác. Ba tôi không coi thợ thuyền
là "nô bộc". Nếu thương trường là
chiến trường, họ là những chiến hữu của
Ba.
Sau 1975, xưởng
làm đàn của Ba bị nhà nước Cộng sản tiếp
thu căn 118 gọi là xưởng nhạc cụ thành phố
do các cán bộ miền Bắc vào quản lư. Họ phát
động phong trào đấu tranh giai cấp, dụ dỗ
công nhân "đấu tố" chủ nhân. Ba kể lại
trong các buổi họp có cán bộ cộng sản, công nhân
và chủ nhân, các chú, các bác trong xưởng nhạc cụ
đều được mời lên phát biểu. Họ đều
nói tốt về người chủ cũ. Có những bác
và những chú rất tự nhiên và thành thật kể lại
các việc làm của Ba trước đây như giúp họ
sửa nhà, mua nhà, cung cấp vật liệu cho họ về
nhà làm đàn để họ trở thành những ông chủ
nhỏ tương lai. Khi đau yếu, bệnh hoạn,
Ba lo bệnh viện, thuốc men. Trong gia đ́nh có đại
sự như quan, hôn, tang, tế đều được
Ba quan tâm giúp đỡ. Họ có công ăn việc làm tốt,
con cái được học hành, một năm hưởng
13 tháng lương, đời sống ổn định,
thoải mái, không thấy có chi gọi là " bóc lột sức
lao động" của công nhân và ông chủ cũ của
họ không có vẻ ǵ là .. ông chủ cả.
Buổi họp
phát động đấu tranh giai cấp tại xưởng
nhạc cụ xem như thất bại. Yếu tố
"nhân ḥa" trong cách cư xử giữa con người
với nhau đă giúp Ba tránh được những màn
"đấu tố" sắt máu được dàn dựng
sẵn bởi cán bộ cộng sản.
Năm 1958, vào một
buổi trưa hè nắng gắt, chị em chúng tôi đang
sửa soạn đi học bỗng nhiên có những tiếng
kêu la thất thanh " Cháy nhà!", "Cháy nhà!". Hệ
thống điện chạm, bắt vào các đống gỗ
thông làm ngọn lửa bốc cao từ tầng trệt của
xưởng đàn căn 118. Má tôi và các chị giúp việc
chạy lên lầu lùa chúng tôi ra ngoài. Ba chạy thông qua
căn 118, đưa các thợ chạy qua căn 120 là lối
thoát duy nhất để xuống đường. Kiểm
điểm lại số thợ c̣n thiếu chú Bảy
Thường. Ngọn lửa bốc càng ngày càng cao. Xe cứu
hỏa đến quá chậm. Căn nhà 118 ch́m trong biển
lửa. Tài sản tiêu tan. Một mạng người mất
đi một cách oan ức. Chúng tôi nghỉ học ngày hôm
đó. Măi đến chiều lính cứu hỏa mới
đem được xác của chú Bảy Thường nám
đen, co quắp trên chiếc băng ca.
Trước đống
gạch vụn đổ nát, hoang tàn c̣n bốc khói , Má tôi mắt
đỏ hoe. Ba tỉnh táo sắp xếp mọi công việc
nào là đối phó với chính quyền, lo chôn cất và
đền bù cho gia đ́nh người quá cố, tính toán
tương lai cho vài chục gia đ́nh thợ thuyền c̣n
sống sót, việc buôn bán với các đại lư, sửa
chữa căn nhà, xưởng làm việc, tiền bạc
.. Những việc đại sự như thế, bọn
trẻ con chúng tôi chỉ biết đứng mếu máo, buồn
cho một cái ǵ thân thiết vừa mất đi và
thương cha mẹ đang đương đầu với
những khó khăn trong những ngày sắp tới.
Tôi nhớ tuần
lễ sau đó, xưởng làm đàn dời qua căn 120
và hoạt động trở lại. Các đại lư mua sỉ
từ các tỉnh, nghe tin Ba gặp đại nạn, họ
đến trả nợ và cho Ba mượn vốn làm
ăn, xây lại căn nhà, gây dựng lại cơ nghiệp
đă mất. Ba bắt tay làm lại từ đầu. Chỉ
vài năm sau, Ba xây hai căn thông nhau thành cửa hàng lớn,
cơi lên ba tầng.Căn nhà vừa hoàn tất cũng là
lúc biến cố Mậu Thân xảy ra, căn nhà mới có
cơ hội đón mấy gia đ́nh thợ của Ba ở
chung cư Nguyễn Thiện Thuật bị pháo kích chạy
về xin tá túc.
Từ năm 1963
trở đi, chiến tranh leo thang, quân đội Mỹ ồ
ạt vào miền Nam, nhu cầu về âm nhạc phát triển
càng ngày càng mạnh, đàn guitar thùng sản xuất bao nhiêu
cũng không đủ cung cấp cho các căn cứ Mỹ
nhất là các loại trống, đàn điện phục vụ
cho các phong trào nhạc trẻ và các "club" Mỹ. Ba rất
thức thời và nhạy bén với thị trường
âm nhạc, chuyển hướng nhập cảng trống,
piano, đàn điện, đàn thùng hiệu Yamaha .. hướng
về bán lẻ các loại nhạc cụ hiện đại.
Để hàng nội
địa có cơ hội phát triển trên thị trường,
Ba nghiên cứu và sản xuất đàn điện, trống,
amplifier .. bằng nguyên vật liệu trong nước rẻ,
đẹp và tốt không thua ǵ hàng Nhật.
"Nhất nghệ
tinh, nhất thân vinh". Cả một đời Ba
được vinh hoa phú quư nhờ vào tài nghề về kỹ
thuật này.
Năm 1969, trong khi
tôi đang ngồi trong giảng đường trường
Văn Khoa, cô Xuân hàng xóm gần nhà dáo dác đi t́m ai trên hành
lang. Linh tính cho tôi biết ở nhà có chuyện ǵ. Cô Xuân báo
tin v́ người giúp việc quên không khóa b́nh ga, hơi ga bốc
ra. Ai đó t́nh cờ bật quẹt nấu bếp, lửa
bắt hơi ga bốc cháy. Má tôi bị phỏng nhẹ nám
một bên mặt. Ba tôi lăn vào dập tắt ngọn lửa
nên bị phỏng nặng, hiện đang nằm trong nhà
thương Đồn Đất.
Tôi vào pḥng cấp
cứu, thấy một thân h́nh nhỏ thó nằm co quắp,
từ mặt đến hai cánh tay và hai chân từ đầu
gối trở xuống nám đen như da cá lóc nướng
trui.Tóc Ba bị cháy xém trụi lủi. Ba bị phỏng
năm mươi phần trăm. Bác sĩ nói cũng may, nhờ
chiếc áo may-ô ba lỗ và chiếc quần đùi nên ngọn
lửa chưa táp vào lục phủ ngũ tạng. Nếu
phỏng cả toàn thân, không cách ǵ cứu sống được.
Ba nằm thiêm thiếp, mê man trong sự đau đớn.
Cả trăm chai nước biển và thuốc liên tục
tiếp vào cơ thể nuôi sống Ba hai tháng trời. Có những
đêm trong bệnh viện, Ba tỉnh dần. Tôi nghiêng
đầu hỏi han, chờ nghe Ba lên tiếng để
biết Ba c̣n sống và đang phục hồi.
Thấy
thương .. "ông già"! Suốt thời gian chữa
trị, bị đau đớn như vậy mà không ai nghe
một tiếng kêu la, than thở hay rên rỉ nào. Ba xưa
nay là người quen chịu đựng. Ông không muốn
phiền con cái lo lắng về sự đau đớn của
ḿnh.
T́nh yêu quê
hương là t́nh tự dân tộc thiêng liêng. Xa quê
hương, ai cũng có ḷng nhớ về quê cha đất
tổ, mồ mả ông bà, mong ngày trở về. Nhớ về
quê Đào Xá chắc không ai nhớ quê và thương quê
như Ba tôi. Đếm trên đầu ngón tay từ năm
1975 cho đến khi ông mất tính ra ông về quê cũng
hơn chục lần. Lần đầu tiên "Trở về
mái nhà xưa", sau hơn ba mươi năm xa cách, Ba gặp
lại hai bà chị gái, bác Khoái và bác Nam. Chú Ba Thinh mất chỉ
c̣n chú Tư Nghinh. Ba nh́n lại căn nhà cụ Tổ họ
Phùng ở quê Đào xá tiêu điều xơ xác v́ bom đạn
thời chiến tranh. Mái đ́nh làng tróc ngói và đổ
nát. Con đường làng lầy lội vào mùa mưa, gập
ghềnh sỏi đá và bụi đỏ mịt mù vào mùa
hè. Ba nh́n thấy trời lạnh, các cháu bé ḅ lê la trên chiếu,
chung quanh là những thanh gỗ chèn với nhau để các
cháu không ḅ ra ngoài trong khi bố mẹ bận đi làm. Nghĩa
trang họ Phùng tiêu điều, bị ngập nước,
cỏ mọc lên đến gối, trâu ḅ lang thang ăn cỏ,
phóng uế bừa băi. Làng Đào Xá nghèo đến nỗi
phải đi mượn chiếc xe tang của làng bên cạnh
để chở quan tài ra nghĩa trang. Vào ban đêm, chỉ
có vài nhà khá giả c̣n câu được điện, hầu
hết dân làng c̣n sống trong cảnh tối tăm với
những chiếc đèn dầu lập ḷe khi tỏ khi mờ.
Ba kể gặp lại
các chú, các bác, Ba không cầm được nước mắt.
Họ là những bà con trong làng, thuở xưa là bạn cũ
cùng đi chăn trâu với Ba. Họ nghèo quá, nhà tranh vách
đất, ăn uống đạm bạc, quần áo cũ
kỹ. Có bác đă già mà vẫn c̣n đi chăn trâu, cắt
cỏ hoặc làm việc ngoài đồng để có công
điểm, đổi lấy thóc gạo ăn.
Nh́n lại quê nhà
tan tác sau bốn mươi năm xa cách, Ba nghẹn ngào nói
ngày đó, nếu Ba không dứt khoát ra đi t́m con
đường sống th́ giờ này Ba cũng lây lất
trong những túp nhà tranh xiêu vẹo kia, bên cạnh con trâu,
cái cày, mảnh ruộng, thửa vườn, quanh quẩn
trong lũy tre làng nghèo khó, tối tăm, bế tắc này.
Từng bước,
Ba làm việc với các bác trong làng, đề ra kế hoạch
xây nhà thờ Tổ họ Phùng, sửa lại ngôi đ́nh
làng, xây nhà trẻ, mua xe tang cho làng, xây nghĩa trang họ
Phùng, xây mạng lưới điện cho làng, xây con
đường làng .. Các công tŕnh ấy, Ba vừa bỏ tiền
của vừa bỏ công sức. Có khi ông về quê trực
tiếp điều khiển và cùng làm việc với dân
làng. Có khi ông giao tiền cho các chú, các bác ở quê hoặc
các cháu ở Hà Nội thay ông tiến hành. Khi nào hoàn tất,
ông về dự lễ khánh thành. Những lần về quê
là những lần anh chị em chúng tôi được nghe
dân làng Đào Xá nói về những công đức Ba làm cụ
thể cho làng. Có khi các chú, các bác thật thà tâm sự về
những khoản tiền riêng Ba âm thầm giúp đỡ
cho họ. Nhờ vậy, chúng tôi hiểu thêm về Ba. Ba
tôi sống như thế đó, chân t́nh mà tế nhị, hào
sảng mà kín đáo, có thủy có chung, trân quư t́nh người.
Một lần nữa
tai nạn lại đến. Trong một chuyến về
quê xây nghĩa trang họ Phùng, ông bị bệnh nặng phải
chở vào bệnh viện Việt Đức mổ mật.
Nếu không có bà con nhất là các em con chú Ba và chú Tư ở
Hà nội hết ḷng săn sóc không biết anh chị em
chúng tôi ở trong Nam xoay sở thế nào.
Được tin
ba phải mổ, anh, chị tôi ra Bắc chăm lo sức
khỏe cho Ba và đón Ba vào Sài g̣n sau hai tháng điều trị
và tĩnh dưỡng ở nhà thím Ba.
Cuộc đời
Ba là một chuỗi những hoạn nạn, những
thăng trầm, những biến cố đau
thương , những được rồi mất, có rồi
không nhưng mạng Ba lớn, phước lộc c̣n nhiều,
số được hưởng thọ, tai nạn rồi
cũng hết. Là người giàu ư chí, nghị lực nên
Ba đă vượt qua tất cả để cuối
đời, Ba an hưởng tuổi già.
Sau cơn bạo bệnh
này, ông yếu nhiều và không bao giờ về quê nữa.
Năm 1981, cậu
Ninh, em của Má là cán bộ vào Nam công tác, can thiệp với
nhà nước trả lại căn nhà 118 cho Ba. Từ
năm 1975 cho đến sau này khi Ba mất năm 2003, nhà của
"Bác Hai Đinh" vẫn là trạm dừng chân đón
tiếp khách Hà Nội và Đào Xá. Bài học về ḷng hiếu
khách của Ba vẫn là những dư âm tốt đẹp
trong những câu chuyện kể về Ba. Ai vào Nam mà không
ghé nhà bác Hai. Ai cũng được Ba tiếp đón hậu
hỉ, chân t́nh và chu đáo nào là cho tiền tàu xe, tặng
quà cáp, tiền dằn túi để tiêu vặt .. Tùy theo hoàn
cảnh, có cháu nghèo quá lại đông con, Ba lại dấm
dúi cho vài chỉ vàng. Có cháu vào Nam sớm, xin cái xe đạp,
xe Honda, cái đài, cái đổng .. ông dắt đi mua cho về
làm quà.. Bác Khoái, bác Nam và chú Tư là những người
thân ruột thịt nhất, Ba tặng cho các bác, các chú quà
ǵ chỉ có Ba biết. Các con ṭ ṃ hỏi, Má nhẹ nhàng nói:
- Thôi kệ Ba. Ba
kiếm tiền được, Ba muốn cho ai bao nhiêu th́
cho, các con đừng thắc mắc chuyện của Ba.
Má lại nhắc
câu đạo lư xưa:
- "Người
ăn th́ c̣n, con ăn th́ hết" các con ạ!.
Cả Ba và Má đều
hợp nhau trong quan điểm sống này.
Nói về học
hành, chữ nghĩa, Ba tôi là người ít học nhưng
rất ham học và thích t́m ṭi hiểu biết. Tiếng Anh
, tiếng Pháp ông không biết chữ nào. Ông chỉ
được học một ít chữ Nho từ ông nội
và chữ Quốc ngữ khi lên Hà nội.V́ thế ông luôn
luôn nhắc nhở chúng tôi, " Các con phải học dùm
cho Ba" hoặc " Các con phải làm thầy, cô giáo dùm
cho Ba". Không trực tiếp dạy con, làm bạn với
con, ông kiếm tiền, mời Thầy kèm con cái học
hành. Ông anh cả tôi được trui rèn bởi các
"gia sư" ông nuôi trong nhà. Truyền thống "tôn
sư trọng đạo" và "Muốn con hay chữ
phải yêu lấy thầy" thể hiện rất rơ
trong tính cách quư trọng các Thầy, từ Thầy giáo dạy
chữ đến Thầy giáo dạy đàn.
Ba có một thói
quen rất dễ thương đă thành nếp và gây một
ấn tượng sâu đậm không bao giờ quên trong cuộc
đời thi cử của anh chị em chúng tôi là những
kỳ thi trung học đệ nhất cấp, tú tài 1, tú
tài 2 của các con, trong khi Má lo bồi dưỡng đồ
ăn thức uống th́ Ba luôn luôn là tài xế đích thân
đưa đón chúng tôi đến trường thi. Ba t́m
đúng pḥng thi, đúng số báo danh. Ba nấn ná măi đến
khi nào loa phóng thanh yêu cầu thân nhân rời khỏi pḥng, Ba
mới yên tâm ra về.Tính Ba cẩn trọng, chu đáo, lo
xa như vậy đó.
Đến giờ
đón về , ông hỏi han bài vở, t́m mua các tờ báo có
các bài giải toán xem bài làm tới đâu, có đúng đáp số
không. Ba làm giám khảo ngồi tính điểm, cộng trừ,
thêm bớt một hồi rồi đưa ra số điểm
của các môn để đoán biết con ḿnh đậu
hay rớt.
Cái hay và không ngờ
ở chỗ ông đoán rất sít sao có khi chính xác. Chúng tôi
đậu hay rớt, ông giám khảo "cây nhà lá vườn"
này biết trước rồi.
Một kỷ niệm
trong đời về Ba làm tôi nhớ măi là năm tôi thi Tú
tài 2 tại trường Gia Long, các bạn tôi đều tự
túc đến trường thi cũng là ngôi trường
ḿnh đang học. Ba chở tôi đến nơi, t́m chỗ
đậu xe , ông nắm tay tôi, dắt tôi qua đường
như một đứa trẻ, mắt nh́n hai bên để
tránh xe. Nh́n sang bên kia đường, tôi thấy các bạn
tôi đang đứng lố nhố, chúng cười
đùa với cặp mắt vừa chọc ghẹo, vừa
chế nhạo làm tôi mắc cỡ:
- Ê, "Tôi đi học"
hả mậy?
Tôi thật thà trả
lời:
- Không.Tao đi thi.
Môt lát sau tôi mới
nhớ ra đó là bài "Tôi đi học" của nhà
văn Thanh Tịnh trong đó có câu " Hằng năm cứ
vào cuối thu .. mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi
đi trên con đường làng .."
Trong số các bạn
có Hoàng Yến đến gần nói nhỏ:
- Mày sướng
quá. Đi thi có ba chở. Qua đường có Ba dắt. Tụi
tao đi thi đứa nào cũng đi một ḿnh. Ba mày
cưng mày quá há?
Ba mươi năm
gặp lại Hoàng Yến tại tiệm cơm chay Vạn
Hạnh ở xứ Mỹ, tôi nhắc lại kỷ niệm
này và lời cám ơn xa xưa, bạn đă nhắc nhở
tôi, cho tôi một bài học về sự hy sinh và ḷng
thương yêu của Ba dành cho tôi mà lúc ấy tôi vô t́nh
không nhận ra hay ngại ngần v́ mắc cỡ với bạn.
Trong sinh hoạt
gia đ́nh, nói đến tiền bạc, Má tôi là thủ quỹ,
là tay ḥm ch́a khóa, là người chi thu, tiền đong gạo
phát. thế nhưng cho các con những khoản tiền túi
nhỏ hàng tháng lại là Ba tôi. Sự thỏa thuận hay sắp
xếp này không biết do ai nhưng làm cho chúng tôi hài ḷng v́
xin tiền Ba lúc nào cũng dễ hơn Má. Ba cho tiền rộng
răi hơn Má. Ba chẳng bao giờ thắc mắc, hỏi
han ǵ khi cho tiền. Ba cho tiền với nét mặt nhẹ
nhàng, thư thái chứ không băn khoăn, nghiêm nghị
như Má. Có khi Ba tự động cho tiền dưới
h́nh thức khen thưởng một việc làm tốt nào
đó như thi đậu, điểm cao hay được
lănh thưởng. Có khi Ba cho là cho, chẳng v́ lư do ǵ làm cho
chúng tôi có những niềm vui bất ngờ. "Ông già
tui" tâm lư quá chừng! Các khoản tiền túi nho nhỏ
đó đó đều đến đúng lúc và vượt
ra ngoài sự mong ước. Chắc v́ vậy nên Ba làm công
việc cho tiền các con rất thích hợp v́ người
cho và người nhận đều vui.
Sau này, khi có công
ăn việc làm ổn định, kiếm được
đồng tiền bằng mồ hôi và công sức lao động
của ḿnh và khi lập gia đ́nh, có con rồi, tôi hay suy gẫm
hoài những bài học về cách sử dụng đồng
tiền của Ba tôi trong việc đối nhân xử thế.
Những ngày lễ
Mẹ lúc nào cũng tưng bừng, rầm rộ với
hoa, thiệp, quà, lời chúc .. Những ngày lễ Cha trầm
lắng, lặng lẽ hơn. Đi mua sắm quà cho Mẹ
có nhiều chọn lựa. Quà cho Cha cân nhắc măi chẳng
biết mua ǵ.Viết về Mẹ có nhiều ư tưởng,
đề tài. Viết về Cha ngồi cắn bút suy nghĩ
măi. Có nhiều bài hát, bài thơ ca ngợi Mẹ. Nhiều
người thuộc ḷng các bài hát về Mẹ như bài
"Ḷng Mẹ" của nhạc sĩ Y Vân. Bài hát, bài
thơ ca ngợi Cha không nhiều. Bài hát về Cha ít người
thuộc, không được phổ biến. Bài "T́nh
Cha" là bài hát hay và cảm động thế mà tôi chỉ
thuộc câu đầu "T́nh cha ấm áp như vầng
thái dương" và câu cuối "Cha hỡi, cha già dấu
yêu".
Tôi tự hỏi
sao ḿnh lại bất công với Cha thế nhỉ ? Hay tại
ḿnh thương Mẹ nhiều hơn thương Cha trong
khi công Cha nghĩa Mẹ đều ngang nhau:
Công Cha như núi Thái
Sơn
Nghĩa Mẹ như
nước trong nguồn chảy ra ..
Cha được
ví như ngọn núi Thái Sơn cao lớn, kiên định, vững
chăi. H́nh ảnh Cha v́ thế trở nên mạnh mẽ, cứng
rắn, uy nghiêm.Từ đó Cha ít gần chúng ta. Mẹ
được ví như nước trong nguồn
tươi mát, trong vắt có thể uống được.
H́nh ảnh Mẹ v́ thế trở nên dịu dàng, ngọt
ngào. Mẹ trở nên gần gũi, thân thương. Cha có
"nghiêm" th́ Mẹ có "từ". Tâm lư con cái sợ
cái "nghiêm" và gần với cái " từ".
Trong tính cách của
Ba tôi, có khi cái "từ" lấn át cái "nghiêm". Ba
tôi là con người lư trí trên thương trường
nhưng bản chất ông vẫn là con người nhiều
t́nh cảm.
Ngày lễ Cha sắp
đến. Viết về Ba tôi để nhớ đến
ông, một nhà doanh nghiệp thành đạt, một người
công nhân kỹ thuật giỏi, một người chồng
chung thủy, một người Cha có những phẩm cách
cao quư. Ông để lại cho chúng tôi nhiều bài học về
t́nh thương, sự b́nh đẳng, sự bao dung, sự
chia sẻ và trên hết là t́nh người.
Ngày lễ Cha, tôi
xem lại cuộn băng video ngày lễ thượng thọ
của Ba Má năm 1991, lúc ấy Ba 75 tuổi, Má 70 tuổi.
Đọc lại bài thơ của đứa em gái út gửi
về chúc thọ mối t́nh già của Bố Mẹ mà em gọi
là Cậu, Mợ. Bài thơ kết bằng hai câu:
Mợ là số một trên đời
Cậu là tất cả đất trời mùa Xuân.
Ngày lễ Father Day
xin gửi đến những ông Bố câu cuối cùng của
bài thơ như một lời chúc. Các ông măi măi là những
mùa Xuân trong ḷng những bà Mẹ chúng tôi.
Phùng Annie Kim
(Kiều Diễm sưu tầm và chuyển)