Cảnh
Chùa Quê Tôi - Chùa Xưa
và Nay
(Nguyễn Hữu Thời)
Tác giả là một huynh trưởng
viết về nước Mỹ, nhận giải danh dự
từ năm 2000, và liên tục góp nhiều bài viết giá trị,
để hỗ trợ và cổ võ việc Viết Về
Nước Mỹ. Trước năm 1975, ông là nhà giáo, quân
nhân QLVNCH, khóa 18 Thủ Đức. Định cư tại
Mỹ, sau nhiều năm làm việc cho Sypris Data System Los
Angeles, ông hưu trí cuối 2009. Đây là bài viết mới
của ông.
* * *
Từ ngày tỵ nạn
Cộng Sản ở hải ngoại, tôi đã có dịp
đi viếng nhiều cảnh chùa ở Mỹ, và các
nước trong thế giới tự do như Úc, Pháp,
Canada. Bây giờ chùa ở các nước tự do, dân Việt
tỵ nạn xây lên nhiều lắm. Mái chùa ngói đỏ
và các góc mái thì cong vút lên như cung điện vua chúa thời
phong kiến xa xưa ở bên Tàu, phía trước và phía sau
chùa là "parking lot" rộng thênh thang, dành cho xe hơi
khách thập phương, bổn đạo đậu, lại
có những chậu lớn sắp thẳng hàng, giá cả
ngàn đô-la, trong trồng những cây thông, cây hoa đắt
tiền mua tại Mỹ hay gởi từ Việt Nam sang.
Ngày rằm, ngày Tết,
ngày lễ Phật Đản thiện nam, tín nữ đủ
các lứa tuổi từ các nơi về rất đông. Áo
lam, áo nâu xen lẫn những tà áo dài kiểu cọ, hoa hoè
màu sắc rực rỡ, Tóc đen, tóc bạc hoà lẫn vào
những đầu tóc nhuộm màu vàng, bạch kim giống
như người da trắng Âu Mỹ; nhưng nét mặt
là người Á châu. Họ ăn mặc thật sang trọng,
tươm tất, kiểu cọ. Ngoài bãi đậu toàn là
những xe hơi đắt tiền còn mới. Những buổi
lễ lớn, các Hòa Thượng từ các nơi về dự
hơn cá trăm, ngồi thành nhiều hàng ghế phía
trước danh dự, nét mặt các vị đạo hạnh
nầy phương phi, nghiêm túc, đầy đặn, thỏai
mái, thân hình nặng nề, khác hẳn với thầy Giải
An năm xưa của tôi, khắc khổ, ốm o, gầy
gò; nhưng thầy Giải An rất cởi mở, vui vẻ,
nhanh nhẹn trong khi nói chuyện với bổn đạo,
và sẵn sàng hướng dẫn đạo pháp cho mọi
người đến chùa tìm hiểu.
Ở đây, những
ngày lễ lớn, tôi thấy có nhiều vị dân cử,
chức sắc được mời đến tham dự.
Trước khi hành lễ có chào cờ Việt Mỹ, mặc
niệm, và giới thiệu quan khách. Những ông quan khách nầy
tươi cười đứng lên giơ tay chào mọi
người. Có nhiều chùa còn tổ chức xổ số,
ca nhạc thật sôi nổi, mời nhiều ca sĩ thời
danh đến giúp vui, ca hát những bản tình ca ướt
át, uỷ mị. Tiếng nhạc, lời ca vang lên lấn
áp hẳn tiếng chuông chùa, tiếng mõ. Còn đâu những
thanh tịnh, êm ả, nghiêm trang giống như chùa Qui
Sơn quê tôi năm xưa.
Bên cạnh chùa có
gian hàng bán các thức ăn chay. Món ăn là chay, nhưng
người nấu họ chế ra bún riêu, bún bò giò heo, thịt
kho, cá chiên, cá kho, lẩu cá v.. v .. Họ chỉ giả dụ
như vậy để kích thích mắt người dùng
nhưng cốt lõi thực phẩm vẫn là đồ chay.
Hình ảnh đập vào mắt thường biến thành
ý tưởng trong đầu óc người nhìn, có khi trở
thành hành động của con người. Đã là ăn
chay đâu cần phải chế giả ra con cá, khúc thịt.
Những món ăn đó bổn đạo phải bỏ tiền
ra mua. Bây giờ cụm từ "cơm Chùa, của
Chùa" không còn ý nghĩa nữa. Tôi cũng không tìm thấy
có cảnh chùa, và các thầy trụ trì giống như chùa
Qui sơn, và thầy Giải An xa xưa ở quê tôi.
*
Nhớ lại hồi
tôi mới lên mười tuổi, và đang học tiểu
học ở trường làng Chánh Lộ, vừa hết
niên học được nghỉ hè ba tháng, cha tôi liền
gởi tôi lên ở chùa Qui Sơn, cạnh núi Thiên bút làm chú
Điệu (chú Tiểu), để được học
chữ Nho, học Phật pháp với thầy trụ trì là
Hoà Thượng Giải An. Cứ mỗi năm như vậy,
hễ đến hè là tôi lên ở chùa tới năm mười
bốn tuổi, cha tôi mới bỏ hẳn thông lệ ấy.
Tôi nhớ rất
rõ thường những đêm tối, khoảng chín giờ,
trước khi thầy Giải An tụng kinh tịnh độ,
tôi có bổn phận trải chiếc chiếu trước
bàn thờ Phật, xong xuống bếp nấu ấm nước
sôi, chế bình trà rồi rót ra những cái tách nhỏ, xong
thận trọng, kính cẩn mang đặt lên trên bàn thờ
Phật. Sau đó, chờ Thầy mặc áo thụng màu vàng
xong, tay cầm tràng hạt, tôi vào trong phòng rước Thầy
ra tụng kinh tịnh độ. Những giờ Thầy tụng
kinh, tôi nghiêm chỉnh chắp tay ngồi bên trái Thầy,
nghe tụng. Đoạn kinh nào tôi thuộc thì ê-a tụng
theo, còn không thì ngồi im phăng phắc lắng nghe. Tiếng
gõ mõ và chuông chùa cùng giọng điệu trầm trầm, bổng
bổng của Thầy như dẫn tôi vào cõi hư vô, mông
lung, xa vời, nhiều khi tôi tưởng như tiếng
ru của mẹ đưa tôi vào giấc ngủ lúc nào không
biết khi còn thơ ấu. Khi mở mắt ra, Thầy vẫn
ngồi đó, và tiếng tụng kinh, gõ mõ vẫn đều
đều. Tôi quên hẳn mình là người thường tục,
và cảm thấy tâm trí như đang phiêu diêu vào cõi vô hình.
Những ngày rằm
và mồng một, Thầy tụng thêm một xuất vào
sáng sớm, và cả buổi trưa nữa. Những ngày
đó, tôi bận rộn nhiều hơn vì phải dậy sớm
hơn thường lệ, và chuẩn bị trà nước
cho khách đến viếng chùa. Khách đến không nhiều
chỉ năm bảy người thôi. Họ mang theo hoa quả
lên cúng chùa. Họ là những người dân quê quanh chùa hoặc
ở các làng lân cận hay từ ngoài phố thị đến.
Những giờ
còn lại trong ngày, thầy Giải An cởi áo cà-sa màu vàng
thay bộ đồ nâu rồi ra vườn sau cuốc
đất trồng khoai lang, khoai mì, rau cải, nhổ cỏ.
Có khi Thầy xuống ruộng làm cỏ lúa hay cùng với
nông dân tát nước vào ruộng. Có những buổi
trưa hè, gió mát hiu hiu thổi qua chùa, tôi ra vườn sau,
khi đi ngang qua hàng hiên, thỉnh thoảng tôi thấy Thầy
ngồi nơi cái ghế dựa xem quyển kinh Phật bằng
chữ Nho trông vẻ kính cẩn, nghiêm túc. Thầy ăn uống
rất đạm bạc, đơn sơ. Tới giờ
cơm trưa. Thầy xuống bếp tự nấu
cơm trong cái nồi bằng đất nung. Tôi phụ lặt
vặt cho Thầy như rửa rau, múc nước, vo gạo,
lấy củi. Món ăn thường là rau muống luộc,
bông bí, cải, xà lách v .. v .. trồng sau vườn chùa, chấm
với tương hoặc xì dầu. Thỉnh thoảng, Thầy
nhờ bổn đạo mua thêm chao và đậu phụ từ
ngoài chợ tỉnh.
Tôi theo cách ăn uống
của Thầy nên sút cân thấy rõ. Vì vậy, tôi thường
xuống xóm mua bánh bèo chịu của ông Mẹo. Tôi ở
chùa đến năm thứ hai, thấy Thầy Giải An
nhận thêm anh Điệu Thư, người ở xã Nghĩa
trang xin lên chùa học đạo và chữ Nho. Anh ấy lớn
hơn tôi chừng bốn tuổi, nhưng người thấp,
nhỏ con, khi chạy chiếc xe đạp, anh thường
ngồi thụp xuống, nhiều khi nhìn xa không thấy
anh, chỉ thấy chiếc xe đạp như không người
lái chạy đến, khi đến gần, anh ngẩng
đầu lên, tôi mới nhận ra. Mỗi lần anh cỡi
xe, anh nhảy thót lên như người ta nhảy lên yên ngựa.
Anh thường chia bớt công việc lặt vặt với
tôi, nên tôi có chút thời giờ rảnh xuống đồi,
băng qua ruộng lúa, đến bên triền núi Bút chơi
đánh trổng với đám chăn bò trong xóm hoặc trèo
lên những cây trâm hái trái trâm hay đi dần lên tới gần
đỉnh núi hái trái gắm hoặc thơ thẩn đứng
nhìn xuống làng, xuống biển.
Biển xa chỉ
thấy lờ mờ. Từ núi Thiên Bút tới biển,
đường dài cỡ mười ba, mười bốn
cây số chim bay. Có khi tôi ra vườn tưới nước
mấy luống xà-lách, cải, cà chua hoặc quyét dọn,
lau bàn ghế trong chùa v .. v .. hay ôn bài học chữ Nho. Tôi
không thấy thầy Giải An đi đâu xa, những khi
rảnh rỗi, thầy ngồi xem kinh hay ra sau vườn
làm những công việc lặt vặt hoặc đi dạo
xuống ruộng lúa.
Chùa Qui Sơn cách tỉnh
lỵ Quảng Ngãi chừng hai cây số. Chùa nằm trên một
cái đồi nhỏ, phía nam núi Thiên Bút, cách núi năm ba
đám ruộng lúa. Bên phải chùa có cái miếu thờ thần,
tôi nghe các người lớn nói, miếu nầy linh thiêng lắm.
Thường nhừng đêm tối trời có ánh lửa
trên trời xẹt vào trong miếu. Những bô lão thường
bảo đó là thần giáng hạ vào miếu. Tôi có để
ý theo dõi thì thấy có sao xẹt qua lại trên nền trời
cao vời vợi, người ta gọi là sao băng chứ
không thấy sao xẹt vào miếu. Mặt trước chùa
xây hướng Tây nhìn ra quốc lộ 1.
Nghe cha tôi kể lại,
chùa nầy là của ông cố nội tôi dựng lên khi ông về
trí sĩ, sau những năm dài làm Thượng Thư Bộ
Hình ở triều đình Huế. Khi hưu trí, ông lên ở
chùa một thời gian rồi mất. Trừ ra những ruộng
công điền quanh đó, những thửa ruộng còn lại
là của ông cúng cho chùa để làm kế sinh nhai cho các thầy
trụ trì. Chùa có giếng nước dưới chân đồi,
tôi và điệu Thư thường xuống dưới
đồi khiêng nước lên đổ đầy vào ảng.
Khi chưa có điệu Thư thì một mình tôi gánh nước
lên nhưng dùng thùng nhỏ hơn, và thời gian đổ
đầy ảng lâu hơn.
Dưới đồi,
sát quốc lộ 1 có quán bánh bèo của ông Mẹo. ông dáng
người cục mịch, thô lỗ, cỡ năm
mươi tuổi, đầu tóc bạc trắng, ông
ăn nói chát chúa, rổn rảng nhưng tâm địa thật
tốt. Tôi thường xuống mua chịu bánh bèo, ông vui vẻ
bán, và thường có lời hỏi thăm sức khỏe
cha mẹ tôi. Ông có cô con gái tên Tép; cỡ mười sáu tuổi,
đầu tóc kẹp lại dài gần tới mông, thỉnh
thoảng đến phụ việc cho cha, "chảnh"
không chịu được. Những hôm nào cô ấy có mặt
ở quán thì tôi như khỏi ăn bánh bèo chịu của
ông Mẹo. Tôi phải về nhà xin tiền chị tôi để
mua bánh bèo. Khi nhận mấy tờ bạc lẻ, cô Tép
săm soi, xét nét, chê bai, bĩu môi, nói là tiền quá cũ, sờn
góc, nhàu nát, rồi mới đưa bánh bèo cho tôi. Hôm nào tôi
mua bánh bèo tiền mới thì cô phán một câu xanh dờn làm
tôi giận tím người; nhưng ngậm tăm để
lấy bánh bèo:
- Mầy lấy cắp
tiền nầy ở đâu vậy?
Trong vườn
chùa có trồng những cây ăn quả như cây vả,
cây xoài, cây mít; đến mùa cành trái sum sê. Những trưa
hè, tôi thường ra vườn chùa, ngồi trên tảng
đá dưới bóng cây nghe chim cu đất gáy rù rù hay tiếng
ve kêu rộn rã. Có nhiều lúc gió mát hiu hiu thổi, tôi dựa
vào gốc cây ngủ quên lúc nào không biết. Bên cạnh cổng
chùa có cây bông ngọc lan, chừng vài chục năm tuổi,
cành lá sum sê, hoa nở bốn mùa thơm ngát. Cảnh chùa thật
rất tĩnh mịch, vắng lặng làm tâm trí con người
như đi vào một cảnh huyền ảo, xa vời,
mông lung, mênh mang, như dẫn ta vào một thế giới
khác, không xô bồ, hỗn độn đời thường.
Ở đây, tôi không bao giờ nghe một tiếng động
mạnh. Tất cà đều im lìm, lặng lẽ, tĩnh
mịch. Thời gian như ngừng lại. Theo ý nghĩ
thô thiển, đơn sơ của tôi, nếu những ai
dưới xóm có điều gì phải tranh đấu, lo
âu, khó khăn, khúc mắc thì nên lên chùa đứng tịnh lặng
nhìn cảnh trí của chùa hay vào chánh điện thắp cây
nhang cầu nguyện. Những điều ấy sẽ
giúp mình giải tỏa đi phần nào phiền muộn,
lo âu, không khác chi ngồi thiền.
***
Ở Việt Nam
bây giờ, Cộng Sản có tổ chức các sư gọi
là "Sư Quốc Doanh" để lòe bịp thế
giới và dân chúng cả tin là có tự do tôn giáo. Chúng gài
độ cho những ông sư nầy xuất ngoại qua
các nước Âu Mỹ, chỗ nhiều dân Việt tỵ
nạn cộng sản định cư, quyên góp tiền bạc
về xây chùa to hơn, và đầy đủ tiện nghi
hơn.
Cộng sản cũng
tổ chức những lớp học giáo lý nhà Phật, tuyển
những ông sư trẻ tuổi, tròn trĩnh, và "good
looking". Những sư trẻ loại nầy phần lớn
là những đoàn viên hay đảng viên cộng sản. Tốt
nghiệp, cộng sản tìm mọi cách đưa sang Mỹ
và các nước tự do Tây phương, nơi có nhiều
người Việt định cư. Các ông sư nầy
nằm trầm trong các chùa. Ban đầu, họ cũng hô
hào chống cộng, hoan hô cờ vàng nhưng thời gian họ
rỉ rả tuyên truyền có lợi cho cộng sản.
Đó là "Khổ Nhục Kế" của cộng sản
thường dùng, người dân quê chúng tôi thường gọi
đó là "bọn Nằm Vùng".
Tôi cũng có xem những
đoạn phim ngắn (youtube) từ Việt Nam gởi
sang thấy thật lạ lùng! Các thầy chùa "Quốc
Doanh" mặc áo cà sa đi chân đất, hai tay bưng
bình bát khất thực; phật tử cung kính bỏ thức
ăn hay tiền bạc vào bình bát; nhưng tối về họ
cởi áo cà sa treo lên vách tường, mình trần trùng trục
ngồi với nhau nhậu rượu thịt, trao đổi
với nhau những ngôn từ như dân giang hồ thứ
thiệt, không giống như người tu hành chân chính.
Một đoạn
phim khác cho thấy có ông sư thật trẻ, mặc áo cà
sa màu vàng đứng hát nhạc chế khôi hài, nghe thật
lố bịch, bổn đạo ngồi sắp hàng ở
dưới đất vỗ tay hoan hô.
Năm vừa qua,
tại một tiểu bang kia ở Hoa Kỳ có một ông
thầy tu từ Việt nam mới sang, ông mua một
căn nhà, có sân trước vườn sau, lập ra cảnh
chùa, và hằng ngày có bổn đạo từ mọi
nơi đến lễ Phật. Thấy công việc thuận
lợi, ông liền kêu gọi phật tử đóng góp tiền
bạc để khuếch trương chùa lớn hơn,
và đẹp hơn. Công việc đang tiến hành thì trong
số Phật tử có cô ký giả tỏ ý nghi ngờ sự
hoạt động có vẻ ám muội của vị sư
nầy. Cô để ý theo dõi và được biết rằng
Hòa Thượng nầy có vợ con hiện ở một
nơi gần chùa. Cô quay phim được cảnh ông thầy
về nhà dùng cơm tối với vợ con, trên bàn có chai
rượu Martel, và thầy đang nhậu, tay phải cầm
ly rượu, tay trái cầm đùi gà ăn uống ngon
lành. Đoạn phim được đưa lên youtube, và
đài truyề hình địa phương, bổn đạo
biểu tình phản đối, thầy trốn trở về
lại VN, không rõ vợ con thầy bây giờ ra sao.
Mới hôm qua
đây, tôi cũng vừa đọc một thư phổ
biến trên mạng của một nhóm Phật tử thuộc
vùng Cali tố cáo lối sống khác thường của vị
viện chủ một ngôi chùa. Trong thư có đoạn viết:
"Ông chủ chùa nầy đã thông dâm với nhiều nữ
giới .. ông vừa chứa gái H. trong chùa để quan hệ
tình dục. Vậy mà còn lén lút ăn nằm với Phật
tử tên N.". Thấy chuyện lạ, tôi liền
"search" trên Google mới biết là ông sư này qua Mỹ
theo diện du lịch năm 2003, sau đó ở lại lập
chùa từ năm 2007. Sự thật không rõ như thế
nào, có oan ức gì không.
Hồi thân phụ
tôi còn sanh tiền, ông thường nói thế kỷ 21 sẽ
là thời kỳ mạt pháp, và ông khuyên tôi, con cố gắng
tu hành, ăn chay niệm Phật thường xuyên để
tránh tai họa, làm điều thiện, tránh điều ác,
tu nhân, tích đức, đừng đua đòi tranh dành danh
lợi, mới mong tránh được tội lỗi, và
tâm trí mới được thảnh thơi, thỉnh thoảng
tôi nghe ông ngâm hai câu thơ:
"Cái vòng danh lợi cong cong
Kẻ hòng ra khỏi, người mong
chen vào"
Ngồi viết lại
những dòng nầy một mình trong căn nhà vắng lặng,
đêm xuống đã lâu, yên tĩnh lạ thường, tôi
đang nghĩ đến Thầy Giải An năm xưa,
và nghe văng vẳng đâu đây tiếng tụng kinh, gõ
mõ của Thầy, nay Thầy đã ra người thiên cổ.
NGUYỄN HỮU THỜI
(T.T.K.D sưu tầm và chuyển)