TRÍ THỨC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA,
NỖI BẤT HẠNH CỦA DÂN TỘC
VIỆT NAM
(Trần Trung Đạo)
Tôi nhớ mãi nụ cười
của anh, người nông dân xứ Sierra Leone
mà tôi chỉ được nhìn trên trang
báo. Ngày
đọc xong bài báo tôi vội vã
vào Internet tìm tấm hình của anh, tải
xuống máy, cất giữ kỹ lưỡng và
thỉnh thoảng lại lấy ra xem. Tấm
hình anh dùng hai chân trái để kẹp
lá phiếu bỏ vào thùng trong buổi
sáng đẹp trời ngày 14 tháng 2 năm
2002 trên quê hương chưa phai mùi súng
đạn của anh sẽ không bao giờ quên
trong ý thức tôi. Tôi đã
viết một bài ngắn về anh và hôm nay
tôi lại muốn viết thêm. Tên
anh là Ismail Darramy. Trước
đây, có lẽ ngoài gia đình anh,
không ai biết đến anh, một nông dân
bình thường của một quốc gia châu Phi
xa cách. Nhưng nụ cười của anh, hai
cánh tay cụt của anh, bàn chân trái kẹp
lá phiếu của anh xuất hiện trên mặt
báo đã trở thành biểu tượng
cho khát vọng tự do dân chủ của những
ai đang tranh đấu cho những quyền căn bản
của con người.
Anh Ismail Darramy tươi cười
là phải. Hôm đó là ngày anh đi bỏ
phiếu để bầu nên một chính phủ
dân chủ đầu tiên cho quê hương anh
sau một cuộc nội chiến đẫm máu
kéo dài suốt 11 năm. Nụ
cười của anh đúng nghĩa là nụ
cười chiến thắng. Vâng,
anh Darramy cuối cùng đã chiến thắng
trước súng đạn của quân phản loạn
được mệnh danh là Mặt trận
Đoàn kết Cách mạng Sierra Leone (RUF). Không có chiến thắng nào mà
không phải hy sinh. Anh Ismail Darramy đã hy
sinh cả hai bàn tay, không phải
ngoài mặt trận mà trong phòng bỏ phiếu.
Trong cuộc bầu phiếu cưỡng
bách và gian lận lần trước, anh
đã nhất định không bỏ phiếu cho
quân phiến loạn RUF. Chúng đã trả
thù bằng cách chặt đứt cả hai
bàn tay bỏ phiếu của anh.
Vì không có hai tay, anh
đã phải dùng chân để bỏ phiếu.
Anh chịu đựng đớn đau, vợ con
anh đói khổ khi anh không còn tay
để canh tác cũng chỉ vì một lá
phiếu. Thế nhưng, nếu ai hỏi anh Ismail Darramy
dân chủ là gì, đa nguyên là
gì, thế nào là các nguyên tắc
phân quyền trong một xã hội pháp trị,
tôi nghĩ, anh Ismail chắc sẽ vô cùng
lúng túng. Dân chủ đối với anh
Ismail Darramy là quyền tự nhiên mà bất cứ
một con người cũng phải có, như con nai
được uống nước bên bờ suối,
con cá được lội tung tăng dưới
sông, con sâu đo mình trên cọng lá
xanh, con chim hót trên cành. Bình thường
và đơn giản như thế đó.
Thế kỷ hai mươi là thế kỷ của
nhiều thảm hoạ nhân loại nhưng đồng
thời cũng là thế kỷ đánh dấu khả
năng của con người có thể vượt
qua thảm hoạ bằng con đường dân chủ.
Năm 1974, chỉ có 41 nước trong số 150 quốc
gia trên thế giới theo chế
độ dân chủ, phần lớn là các quốc
gia kỹ nghệ tân tiến Châu Âu. Năm
1990, ba phần năm tổng số quốc gia trên thế
giới theo chế độ dân chủ.
Từ anh chăn cừu trên thảo
nguyên Mông Cổ cho đến người thợ
mỏ da đen ở Nam Phi đều đã có
quyền chọn lựa người lãnh đạo của
mình. Và ngày nay, dân chủ
đã trở thành một hiện tượng
toàn cầu (a global phenomenon) như Giáo sư Larry
Diamond của viện Hoover
nhấn mạnh. Đọc bản liệt
kê thể chế chính trị của các quốc
gia trên thế giới tôi cảm thấy vui buồn
lẫn lộn. Thật vui mừng khi biết trong danh
sách các quốc gia theo thể chế dân chủ
phân quyền đã có những nước
cách đây không lâu còn rên siết
dưới gót độc tài như Congo, Botswana,
Nigeria, Zambia, Ethiopia, Nicaragua, Guinea và Serria Leone, quê
hương của anh Ismail Darramy, nhưng cũng buồn
thay, trong bản liệt kê, một góc nhỏ
như tách rời khỏi cộng đồng nhân
loại, ghi tên những quốc gia đang bị cai trị
bởi một đảng độc tài, trong
đó có Việt Nam.
Mỗi khi nhìn tấm hình anh
Ismail Darramy tôi lại nghĩ đến Việt Nam. Cực hình anh Ismail
gánh chịu quả thật là quá tàn khốc
nhưng so với dân Việt Nam thì sự đau
đớn mà anh đang chịu còn nhẹ hơn
nhiều. Hàng ngàn người Việt Nam
không phải chỉ bị mất hai tay
nhưng còn bị mất cả đầu chỉ
vì dám nói lên tiếng nói thật của
lương tâm họ. Nhưng cho đến
nay, sau nhiều thế kỷ đấu tranh bằng
xương máu, người dân Việt vẫn
chưa có cái quyền tối thiểu mà anh
Ismail Darramy và phần lớn nhân loại đang
có. Ước mơ độc lập tự do của
bao thế hệ Việt Nam vẫn còn là
mơ ước.
Cho đến đầu thế kỷ 17, Sierra Leone,
quốc gia Tây Phi, chỉ là trạm dừng
chân của những tay buôn nô lệ. Thủ
đô Freetown
là nơi những người nô lệ được
trả tự do từ châu Âu và châu Mỹ
chọn làm quê hương. Vừa bước qua
khỏi chế độ nô lệ, dân Sierra Leone lại
phải chịu đựng hơn 100 năm dưới
ách thực dân Anh cho đến khi được
trao trả độc lập vào năm 1961. Được độc lập không bao
lâu, quốc gia lạc hậu về mọi mặt
này lại lâm vào nội chiến dài 11
năm với hàng trăm ngàn người bị
chết. Năm 1999, lịch sử Sierra Leone
bước vào một bước ngoặt quan trọng.
Với sự can thiệp mạnh mẽ của Liên Hiệp
Quốc, nền hoà bình được tái lập
và một chính phủ dân sự được
bầu lên. Từ một nước bị xem như
chậm tiến nhất thế giới, từ năm 2002,
Sierra Leone đã chập chững bước đi
trên con đường dân chủ hoá và
đã đạt được những bước
đầy khích lệ không ngờ.
Theo báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ
năm 2005, ngoài một số các hiện tượng
tiêu cực còn tồn đọng, về nhân
quyền, chính phủ Sierra Leone không hề vi phạm
một hành động giết người, bắt
cóc hay mất tích vì các lý do
chính trị. Về tự do báo chí,
chính phủ tôn trọng quyền tự do ngôn
luận, không có nạn sửa đổi nội
dung tác phẩm, bỏ tù tác giả, kiểm
duyệt sách báo, ngoại trừ các báo
tự kiểm duyệt để phù hợp với luật
pháp hay quan điểm riêng của họ. Các
bài bình luận chính trị trên các
báo đều do chủ bút hay các cây
bút bình luận chủ lực đích
thân viết chứ không nhận bản sao từ
ban tư tưởng trung ương. Mặc dù kỹ
thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp và tinh thần
báo chí của các nhà báo còn thấp,
tại thủ đô Freetown cũng đã có
36 tờ báo, phần lớn là báo độc
lập, tư doanh hay cơ quan ngôn luận của
các đảng phái chính trị. Báo
chí có khuynh hướng phê bình các
chính sách của nhà nước nhưng
không có báo nào bị đóng cửa
vì lý do chống đối nhà nước.
Vì trình độ đọc chữ còn thấp
nên các đài phát thanh vẫn còn
đóng vai trò quan trọng trong truyền thông
đại chúng nhưng là những tiếng
nói tự do, độc lập chứ không phải
chỉ là cái loa của đảng cầm quyền.
Luật pháp Sierra
Leone tôn trọng quyền tự
do hội họp và trong tổng quát, nhà
nước tôn trọng quyền đó của
người dân. Các cuộc biểu tình do
các đảng phái đối lập tổ chức
để phản đối một số chính
sách của chính phủ thỉnh thoảng vẫn
xảy ra nhưng không phải vì thế mà
chính phủ lại mang đại pháo xe tăng ra ngăn chặn. Suốt
năm 2005 có 11 người biểu tình bị bắt
nhưng không phải vì chính kiến bất
đồng mà vì cản trở lưu thông
công cộng. Khoảng 60% dân Sierra Leone theo
đạo Hồi nhưng các tôn giáo
khác như Tin Lành, Anh Giáo v.v. có ảnh
hưởng qua trọng trong 40% còn lại. Cũng theo báo cáo của Bộ Ngoại
giao Mỹ, chính phủ Sierra Leone nói chung
tôn trọng quyền tự do tôn giáo và tự
do hành đạo. Các xung đột tôn
giáo trong một nước mà nhiều nơi
còn sinh hoạt theo tập quán riêng của từng
bộ lạc, hẳn nhiên khó mà tránh khỏi
nhưng phần lớn các xung đột tôn
giáo đều được giải quyết bởi
một hội đồng liên tôn gồm đại
diện các tôn giáo tại địa
phương chứ không có bàn tay nhà
nước dính vào. Người
dân Sierra Leone
đi lại trong nước không cần giấy
phép, trình báo hay kê khai hộ khẩu khi ở
lại đêm. Những người dân Sierra Leone
lưu lạc khắp năm châu trong thời chiến
được quyền tự do hồi hương
và chọn lựa nơi cư trú chứ
không bị chỉ định cư trú và
không phải đút lót cho các viên chức
nhà nước khi mua nhà cửa. Mặc dù
Đảng Dân tộc Sierra Leone của tổng
thống Ahmad Tejan Kabbah là đảng cầm quyền
nhưng có 11 chính đảng khác hoạt
động tích cực và đang hăm he
giành lấy quyền hành pháp trong cuộc bầu
cử tổng thống lần tới. Các
chức vụ trong chính phủ và quốc hội
đều trải qua những cuộc tranh cử gay go
nhưng không gây đổ máu. Cuộc bầu
cử tự do lần đầu tiên năm 2002 dưới
sự giám sát quốc tế được xem
như công bằng và trong sạch. Vào năm
2004, các chức vụ cấp địa phương
cũng đã được bầu bán một
cách tự do chứ không còn do nhà nước
trung ương chỉ định như trước nữa.
Sierra Leone còn rất lâu để trở
thành một nước cường thịnh hay
xây dựng cho họ một căn nhà dân chủ
ổn định nhưng ít nhất họ
đã đặt được những viên
đá cần thiết làm nền móng cho một
cơ chế chính trị nơi đó quyền của
con người được luật pháp bảo vệ,
một nền kinh tế có khả năng kích
thích sản xuất, nâng cao đời sống,
và một xã hội trong sạch nơi các thế
hệ măng mon của Sierra Leon sẽ trưởng
thành trong hy vọng. Họ có
được điều đó nhờ sự
giúp đỡ tận tình của các nước
dân chủ qua trung gian của Liên Hiệp Quốc về
kinh tế cũng như về quân sự nhưng chắn
chắn phần chính vẫn nhờ vào những
người như anh Ismail Darramy.
Khác với Việt Nam, đất nước Sierra Leone
không có bốn ngàn năm văn hiến,
không có những thời đại hiển
hách Lý Trần, phá Tống bình
Chiêm, Rạch Gầm Xoài Mút. Người dân xứ
Sierra Leone
không có nhiều quá khứ. Lịch sử của đất nước họ
là một chuỗi ngày buồn. Tổ
tiên họ là những nô lệ được
trả tự do nhưng không có một nơi
để trở về. Thậm chí, trong số 400
người đầu tiên đến Sierra Leone
vào năm 1787, có 70 người là gái
bán dâm lưu lạc. Theo tài liệu của
Ngân hàng Thế giới, trong số 6 triệu
người dân Sierra Leone chỉ có 29% dân số
trên 15 tuổi là biết đọc biết viết
và chỉ có 44% trẻ em trong tuổi đi học
đã có cơ hội đến trường.
Thế nhưng tại sao Sierra
Leone có dân chủ mà Việt Nam
thì chưa ?
Nhiều lý do để giải thích
nhưng tôi nghĩ một trong những lý do Việt
Nam chưa có dân chủ, không phải vì tỉ
lệ người dân biết đọc và viết
tại Việt Nam thấp hơn con số 29% hay số học
sinh ghi danh đi học ít hơn con số 44% của
Sierra Leone, mà trái lại, vì thành phần
có học, có hiểu biết, khoa bảng, lao
động trí óc, hoạt động tri thức,
được gọi chung là thành phần
là trí thức trong xã hội Việt Nam
quá cao. Việt Nam ngày nay không
còn là đất nước ra ngõ gặp anh
hùng mà bước ra ngõ nếu không chạm
mặt tiến sĩ thì cũng đụng đầu
thạc sĩ.
Trước khi viết về thành phần
trí thức này tôi xin dừng lại một
phút để cám ơn những trí thức,
những văn nghệ sĩ Việt Nam chân chính
đang công khai hay âm thầm tranh đấu cho một
nước Việt Nam mới, tốt đẹp, tự do
và dân chủ trong điều kiện và
hoàn cảnh riêng của họ. Trong giờ
phút này, tôi thật sự tin, ở nhiều
nơi trên đất nước Việt Nam, trái
tim của những trí thức, những nhà
văn, nhà thơ, nhà báo chân chính
đó vẫn nhịp chung nhau một nhịp, vẫn
nghĩ đến nhau dù đang đi trên nhiều
ngả đường tranh đấu khác nhau và
tuy không nói ra, trong tâm thức, họ vẫn hẹn
nhau chung một nẻo về cũng như cùng hướng
đến một bình minh dân tộc.
Thế nhưng, thành thật
mà nói lực lượng trí thức và
văn nghệ sĩ Việt Nam chân chính
còn quá ít để kéo nổi con tàu
cách mạng với những toa sét rỉ và
chất đầy quá khứ. Trong khi đó, đại
đa số trí thức Việt Nam chịu cong lưng
làm nô lệ tri thức cho giới lãnh Đảng
Cộng sản mà thờ ơ trước những vấn
nạn của đất nước mình.
Thành phần trí thức đảng nô
này, chẳng những không đóng góp
được gì vào việc làm thăng tiến
xã hội, thúc đẩy nhanh hơn cuộc
cách mạng tự do và nhân bản đất
nước, giúp đưa dân tộc chúng ta
vượt qua những bế tắc tư tưởng
và chính trị để hội nhập vào
dòng thác tiến bộ của nhân loại,
mà với khả năng bồi bút họ
đã trở thành bức tường chắn
ngang tiến hình đó.
Đọc bài báo tố tham nhũng
nhưng chính là để nịnh Đảng một
cách vụng về của bà Tôn Nữ Thị
Ninh, người được báo chí trong nước
ca ngợi như "trí thức hàng đầu"
trên tạp chí Cộng Sản cuối tháng 6
vừa qua để thấy đặc tính đảng
nô trong giới khoa bảng tại Việt Nam trầm
trọng đến mức nào.
Bà Ninh viết: "Cần có một cơ
chế "đối trọng" (phương Tây gọi
cơ chế này là checks and balances). Đối trọng
của ta là trong phạm vi chế
độ, là sự kiểm tra giám sát của
các đoàn thể quần chúng, chứ
không phải là đối trọng về
chính trị. Quốc hội có vai
trò, tư pháp cũng phải độc lập,
đoàn thể phải vào cuộc, nếu
không hệ thống chính trị của ta sẽ
không có cơ chế tự điều tiết."
Hẳn nhiên, với trình độ giáo
dục cấp thạc sĩ, tiếp cận nhiều với
sinh hoạt chính trị dân chủ Âu Châu
trước đây, bà Ninh biết rõ
khái niệm kiểm soát và cân bằng
(checks and balances) để chỉ sự kiểm soát lẫn
nhau và giữ sự cân bằng giữa các
ngành trong các chế độ dân chủ
pháp trị. Nguyên tắc này ra
đời nhằm giới hạn quyền hành của
chính phủ thường rất dễ bị lạm
dụng. Sự đối trọng giữa
các ngành trong cơ chế chính trị chỉ
hữu hiệu khi các ngành đó có
được sự độc lập về quyền hạn
và trách nhiệm. Tại Việt Nam ai
đối trọng với ai, ai kiểm soát ai và
ai cho phép tạo nên sự cân bằng quyền
lực trong hệ thống chính trị bị chỉ
đạo bởi một đảng duy nhất là
Đảng Cộng sản ?
Là một đảng viên cộng sản từ
ngày 10 tháng 12 năm 1988 theo hồ sơ Quốc hội
Việt Nam, hơn ai hết bà Tôn Nữ Thị
Ninh biết cái chức gọi là "đại
biểu Quốc hội" của bà chẳng phải
do người dân Vũng Tàu nào tự nguyện
bầu bà lên mà chỉ là trách nhiệm
Đảng giao phó cho bà. Như một
người dân Việt Nam,
hơn ai hết bà biết quần chúng tại Việt
Nam
chẳng có một chút quyền hành
chính trị nào ngoài cái quyền than
thân trách phận. Biết
mình đang nói sai, biết mình đang
nói dối mà vẫn nói ngon, nói ngọt
cũng là một đặc tính đáng ghi
nhận khác của giới trí thức đảng
nô tại Việt Nam.
Một đoạn văn trong bài viết của
Tiến sĩ Cao Đức Thái trên báo
Nhân Dân ngày 10 tháng 9 năm 2004 bàn về
nhân quyền:"Gần hai mươi năm qua,
công cuộc đổi mới đã đem lại
những thành tựu về quyền con người cực
kỳ to lớn cho nhân dân Việt Nam. Quyền con
người đã được khẳng định
trong Cương lĩnh, đường lối của
Ðảng, trong Hiến pháp và pháp luật của
Nhà nước Việt Nam. Nhà nước ta
đã gia nhập ký kết và phê chuẩn
hầu hết các Công ước quốc tế
cơ bản về quyền con người. Từ năm
1986 đến năm 2003, Nhà nước ta đã
ban hành (Luật mới và sửa đổi)
hơn 40 bộ luật, 120 pháp lệnh, trong
đó đã nội luật hoá tất cả
các Công ước và Nghị định
thư quốc tế về quyền con người
mà Việt Nam đã tham gia."
Các quyền cơ bản mà ông muốn
nói phải chăng là quyền bầu cử, ứng
cử, phát biểu, hội họp, đi lại,
tín ngưỡng, bình đẳng trước
pháp luật, thành lập công đoàn
?
Là một quốc gia hội viên Liên Hiệp
Quốc, nhà nước Việt Nam hẳn không thể
không công nhận công ước quốc tế
quan trọng hàng đầu và có tính
cách chủ đạo về quyền cơ bản của
con người là Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền (Universal Declaration Of Human Rights) được
công bố vào năm 1948 cùng với hai
công ước liên hệ là Công ước
Quốc tế về Những quyền Dân sự
và Chính trị (International Covenant On Civil And Political
Rights, International Covenant On Economic, Social And Cultural Rights)
được công bố năm 1966 và Công
ước Quốc tế về Những quyền Kinh tế,
Xã hội và Văn hoá (International Covenant On
Economic, Social And Cultural Rights). Tôi không biết Tiến
sĩ Cao Đức Thái đã đọc các
công ước trên chưa, nếu chưa xin
tìm đọc để biết nhà nước
Việt Nam từ khi gia nhập Liên Hiệp Quốc
vào năm 1977 đến nay, "đã ký kết
và phê chuẩn hầu hết các công
ước quốc tế" nhưng chưa thực hiện
được một điều nào trong các
công ước quốc tế nhân quyền
đó.
Giới trí thức Việt Nam
thích nói những về những điều lẽ
ra họ không nên nói nhưng lại im lặng
trước những sự kiện đáng nói.
Trong số vài chục bài viết góp
ý với Dự thảo Báo cáo Chính trị
Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngoài loạt bài của nhà văn Trần
Mạnh Hảo, có bao nhiêu bài phát xuất
từ mấy chục ngàn tiến sĩ, thạc sĩ,
nhà văn, nhà thơ Việt Nam trong nước
viết ra ?
Theo nhà văn Trần Mạnh Hảo, trong buổi
trả lời phỏng vấn dành cho đài BBC tối
29 tháng 3 năm 2006, một trong những lý do của
sự im lặng đó là ươn hèn.
Nhà văn nói: "Dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản thì dũng
khí của người Việt Nam bị tước sạch,
không còn dũng khí nữa. 1000
năm Tàu nó đô hộ, đàn áp
cũng khiếp. 100 năm Tây
nó đô hộ, đàn áp cũng khiếp
lắm. Thế mà người dân Việt Nam càng
dũng khí càng anh hùng. Nhưng có năm
mươi mấy năm mà Đảng Cộng sản
nó tước hết ý chí anh hùng của
người dân Việt Nam
và giới trí thức văn nghệ sĩ Việt
Nam,
gần như trong bụng toàn thỏ đế, toàn cáy. Đấy
là một bi kịch vĩ đại của dân tộc,
đấy là nỗi thống khổ lớn nhất của
dân tộc hiện nay."
Cách đây vài hôm, em Lương Duy
Phương, 26 tuổi, trong buổi phỏng vấn của
đài VOA, đã đưa ra câu hỏi rất
đơn giản, đại ý rằng tại sao 80
triệu dân Việt Nam lại phải cong lưng
đóng thuế để trả lương bổng,
mua xe cộ mới, xây nhà cửa nguy nga, trang bị
văn phòng và hàng trăm thứ các chi
phí cho Đảng Cộng sản, một đảng
mà họ không phải là đảng viên.
Vấn đề em Lương Duy Phương nêu ra rất
hay tuy không phải là hoàn toàn mới lạ
nhưng trong ba vạn trí thức khoa bảng, gần
một ngàn hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam có ai đã từng hỏi một câu
tương tự như em chưa ?
Nếu cho rằng các tiến sĩ, thạc sĩ,
nhà văn nhà thơ Việt Nam tránh né
các vấn đề chính trị vì họ
không thích thì các vấn đề
xã hội, đạo đức, sĩ diện
dân tộc như chuyện các phụ nữ Việt
Nam bị bạc đãi, hạ nhục tại
Đài Loan, Nam Hàn, chuyện hàng trăm em
bé Việt Nam tuổi vị thành niên đang
làm điếm ở Miên tại sao cũng
không được ai nhắc đến
?
Trong 30 năm qua, hàng trăm ngàn người
con gái Việt Nam vì chén cơm manh áo,
vì phải kiếm tiền phụng dưỡng cha mẹ
già, đã phải bỏ xứ ra đi làm vợ,
đúng ra là nô lệ tình dục cho
các ông già Đài Loan bằng tuổi cha
chú họ, nhiều cô gái Việt bị
đem rao bán giữa chợ như những nô lệ
Phi Châu thế kỷ 16, bị đánh đập
ném trần truồng trên đường phố
Đài Loan nhưng có nhà văn nhà
thơ nào nhỏ xuống một dòng mực tiếc
thương thông cảm cho họ chưa ?
Ngày 1 tháng 5 năm ngoái, tàu hải
quân Trung Quốc ngang nhiên tiến vào lãnh
hải Việt Nam, chẳng những bắn chết
hàng chục ngư dân Thanh Hoá đang
đánh cá dọc bờ biển mà còn bắt
sống gần hết những người còn lại.
Nhà nước Việt Nam vì cái mũ kim cô đang hành đau nhức nhối
trên đầu đành phải nhỏ nhẹ với
đàn anh Trung Quốc, nhưng ít ra những
trí thức, nhà văn, nhà thơ phải
lên tiếng. Tiếng nói của lẽ phải
và lương tâm dân tộc dù không
trả thù được cho đồng bào
đã chết, dù không giải quyết
được cuộc xung đột lãnh hải thì
ít ra họ cũng nên dùng cơ hội
đau thương đó để nhắc nhở
đồng bào cái hoạ phương Bắc từ
thời Phong Châu lập quốc vẫn còn
đó và cũng để nhắn với
các thế hệ trẻ Việt Nam trong cũng như
ngoài nước, các em hãy ráng học,
ráng đoàn kết nhau, ráng vượt qua những
ao tù nước đọng ươn hèn của
thế hệ cha anh, và ráng tìm ra một con
đường thoát chung cho dân tộc. Nhưng
không, ngoại trừ vài bản tin ngắn
trên các tờ Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Lao
Động không một tiếng nói, bài viết
nào từ phía thành phần trí thức,
từ ông chủ tịch đến hơn 800 hội
viên hội viên Hội Nhà văn khắp
nước đều im như hến, dường như
họ xem đó không phải là việc của
họ.
Thật vậy, tôi có cảm
tưởng rằng xã hội Việt Nam ngày
nay là một xã hội được khoanh
vùng có biên giới rõ rệt giữa
các thành phần xã hội và các
thành phần này cùng tồn tại bằng
thoả hiệp.
Các thành phần xã hội
đó, kể cả Đảng Cộng sản, cần
một vùng đất sống riêng cho họ
và thoả hiệp không xâm phạm quyền lợi
của các thành phần khác. Đảng Cộng sản
thoả hiệp với các thành phần trí
thức vì mục đích duy trì độc
quyền lãnh đạo đất nước.
Giới trí thức thoả hiệp với Đảng
để được ban phát danh lợi. Giới
văn nghệ sĩ thoả hiệp với Đảng
để các điều kiện sáng tác, in ấn,
phát hành được nới rộng hơn,
được đi Tây, đi Mỹ dễ dàng.
Các bè phái tham ô thoả hiệp với
lãnh đạo Đảng và nhà nước
để được tiếp tục tham nhũng cho
đến khi bị lộ. Chỉ có những người
cùng khổ, thấp cổ bé miệng nhưng chiếm
đa số trong xã hội, là không ai cần
thoả hiệp mà họ cũng chẳng biết thoả
hiệp với ai ngoài số phận hẩm hiu đầy
bất hạnh của mình.
Quan hệ giữa giới trí thức và giới
lãnh đạo Đảng Cộng sản chẳng
khác gì quan hệ giữa trai tứ chiếng
và gái giang hồ, họ khinh rẻ nhau, coi thường
nhau nhưng vẫn sống với nhau và nếu cần
sẽ bao che, binh vực và bảo vệ cho nhau.
Điều đó giải thích việc
Đảng Cộng sản vẫn còn tăng trưởng
về số lượng hàng năm. Mỗi ngày
vẫn có người, trong đó có những
cô cậu đoàn viên, đối tượng
Đảng vừa tốt nghiệp đại học, vừa
bảo vệ xong luận án thạc sĩ, tiến sĩ,
đã cố phấn đấu vào Đảng
cho được. Giấc mơ giám
đốc, tổng giám đốc, thứ trưởng,
bộ trưởng, nhà cao cửa rộng khó
có thể trở thành hiện thực nếu
không phải là đảng viên cộng sản.
Khác với thời chiến tranh việc
gia nhập Đảng Cộng sản ít ra cũng
còn có chút gì gọi là lý
tưởng, ngày nay việc tham gia Đảng Cộng
sản nếu không phải vì quyền lực
thì cũng chỉ vì quyền lợi.
Trừ trường hợp một anh bộ đội
nào đó chẳng may đi lạc giữa
dãy Trường Sơn trùng điệp từ
trước 30 tháng 4 năm 1975 đến nay mới
tìm được lối ra, tương tự chuyện
những anh lính Nhật trong các hoang đảo
Philippine sau thế chiến thứ hai, thật khó
có một người bình thường nào
còn tin tưởng vào chủ nghĩa
Mác-Lênin, vào bình minh của cách mạng
vô sản toàn thế giới. Tôi nghĩ
điều khó chịu nhất của một tân
đảng viên cộng sản khi đưa tay
tuyên thệ vào Đảng sáng hôm nay
là làm thế nào giấu được sự
ngượng ngùng khi lặp lại một trong những
nhiệm vụ của người đảng viên cộng
sản: "Không ngừng học tập, rèn luyện,
nâng cao trình độ kiến thức, năng lực
công tác, phẩm chất chính trị, đạo
đức cách mạng, có lối sống
lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu,
tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện
tiêu cực khác."
Anh ta ngượng ngùng là phải
bởi vì anh phấn đấu vào Đảng chẳng
qua là để có cơ hội sống ngược
với những lời anh vừa tuyên thệ.
Trong suốt dòng lịch sử,
trí thức luôn đóng một vai trò quan
trọng đối với sự thịnh suy của
dân tộc. Câu "sĩ, nông, công,
thương" trong đó sĩ đứng hàng
đầu không phải tự nhiên mà có.
Sự kính trọng đó bắt nguồn
từ những gắn bó của giới trí thức
với đại đa số quần chúng và những
giá trị mà họ đã dùng để
dẫn dắt quần chúng. Tiếc thay, giới
trí thức ngày nay bị cuốn hút quá
sâu vào bộ máy công danh và quyền
lực, để làm mất đi tác phong tư
cách của một người trí thức, lẽ
ra phải có tinh thần phê phán, khao khát
mở mang trí tuệ, biết vui niềm vui của
dân tộc và cũng biết đau cái đau
của đất nước mình.
Tại ai ?
Rất dễ dàng đổ thừa cho các
chính sách ngu dân của
Đảng Cộng sản. Điều
đó đương nhiên. Mục
đích hàng đầu của Đảng,
không khác gì thời thực dân, là duy
trì quyền lãnh đạo đất nước
và tất cả chính sách từ kinh tế
chính trị đến văn hoá giáo dục
đều phục vụ, hay ít nhất không
có quyền đi ngược lại mục
đích đó. Nền giáo dục
xã hội chủ nghĩa ba chục năm qua
đã làm đảo lộn mọi giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc
và ngăn chặn mọi tư duy độc lập.
Những khái niệm "tình
dân tộc, nghĩa đồng bào" nghe xa vời
như chuyện cổ tích. Tâm hồn tuổi
trẻ còn tương đối trong sáng vừa
bước ra khỏi trường đại học
đã bị miếng mồi danh lợị, ích
kỷ, tham lam làm thui chột. Tuy nhiên,
đáng trách nhất vẫn chính từ bản
thân giới trí thức. Thời
đại của Đặng Thuỳ Trâm, Nguyễn
Văn Thạc và các phó sản độc hại
khác của Thép đã tôi thế đấy
đã qua rồi. Ngày nay, cánh cửa
tư duy khoa học chưa mở hết, bức tường
lửa vẫn còn nóng bỏng, sự thật lịch
sử vẫn còn bị bưng bít nhưng
ánh sáng đã lọt vào căn nhà
Việt Nam qua nhiều kẽ hở, đặc biệt
là Internet và các phương tiện thông
tin khác. Tiếc thay, giới trí thức trẻ tại
Việt Nam vẫn còn quá thụ động, thờ
ơ trước những vấn nạn của đất
nước như hoạ sĩ Nguyễn Minh Thành
nêu ra trong buổi phỏng vấn với đài
BBC hôm 29 tháng 3 năm 2006: "Như tôi biết
các bạn bè đồng nghiệp của tôi
đa phần thì nghiêng về xu hướng
hãy tập trung vào làm nghệ thuật, đừng
có vướng vào những chuyện chính trị,
chính trường này kia. Nhất
là các thế hệ gần đây, thế hệ
trẻ càng về sau thì họ chia ra làm hai
quan tâm chính. Một là
đời sống tự nhiên bình thường,
giải trí vui chơi. Hoặc một
quan tâm khác nữa là quan tâm về mặt
vật chất và giàu về kinh tế. Kể cả các văn nghệ sĩ và
các hoạ sĩ thì phần lớn cũng
có các suy nghĩ giống như vậy."
Không ít trí thức trẻ có cơ hội
học tập ở nước ngoài, được
làm quen với môi trường dân chủ,
được sinh hoạt trong không khí tự trị
đại học, nhưng khi về nước họ lại
giống như những con ngựa chở rau ra tỉnh, chấp
nhận để bị bịt tai, che mắt làm
tôi mọi cho tầng lớp lãnh đạo độc
tài học lực trung bình không quá cấp
ba.
Với một đội ngũ trí thức 3 vạn
người, đông gấp 5 lần Thái Lan, 6 lần
Mã Lai, mà đất nước vẫn chìm
đắm trong độc tài đảng trị
thì đội ngũ đó không phải
là niềm hãnh diện mà là một nỗi
bất hạnh cho dân tộc Việt Nam.
TRẦN TRUNG ĐẠO
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)