SU'U TÂ`M 2

Home | VA(N | VA(N (tt) | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N VUI | VA(N VUI (tt) | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | VA(N VUI 6 | VA(N VUI 7 | VA(N VUI 8 | VA(N VUI 9 | VA(N VUI 10 | VA(N VUI 11 | VA(N VUI 12 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI [1] | TA.P GHI [2] | TA.P GHI [3] | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T (tt) | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BÀI VIÊ'T 12 | BÀI VIÊ'T 13 | BÀI VIÊ'T 14 | BÀI VIÊ'T 15 | SU'U TÂ`M .. TÊ'U | SU'U TÂ`M .. TIN | SLIDESHOW

TA.P GHI [tt]

Duyên nợ và t́nh yêu

 

DUYÊN NỢ và T̀NH YÊU

của TRAI GÁI NÔNG THÔN qua CA DAO

(Vơ Thu Tịnh )

 

Phần nhiều những bài ca dao của ta đều là những bài thơ trữ t́nh, những bài "t́nh ca", mà tác giả hầu hết là trai, gái nông thôn Việt Nam thời xưa.

 

Thơ trữ t́nh là tiếng nói của ḷng người khi tâm t́nh bị xúc động, bất b́nh, đau khổ. Người đau khổ thường thấy cần phải bộc lộ nỗi ḷng u uất của ḿnh ra. Đó là một nhu cầu khẩn thiết như bất cứ mọi nhu cầu nào khác !

 

Kinh Thi xưa có câu: "Tâm chi ưu hĩ, ngă ca thả dao", nghĩa là "ḷng có sự buồn, ta vừa ca vừa hát". Hàn Dũ đời Đường cũng xác nhận: "Vật bất đắc kỳ b́nh tắc minh", nghĩa là "vật không được vừa ḷng th́ ắt phải kêu lên". Tiếng kêu lên đó là văn thơ.

 

Ngày nay, các nhà văn học Tây phương cho rằng:

"Con người đau khổ. Hát lên cái khổ đau của ḿnh, con người sẽ vượt qua cái đau khổ ấy". (1)

 

Rồi chính ca dao ta cũng nói rơ ràng:

Chim xanh ăn trái xoài xanh,

Ăn no tắm mát đậu cành cây đa.

Cực tấm ḷng em phải nói ra,

Chờ trăng trăng xế, chờ hoa hoa tàn.

 

Qua  các câu ca dao trữ t́nh ấy, dân gian đă đúc kết các thành tố chính yếu của những rung cảm, suy tư về "t́nh yêu" giữa trai gái nông thôn, vào mấy danh từ "Duyên, Nợ, T́nh". Trong ngôn ngữ hằng ngày, khi người ta bàn đến vấn đề Yêu Thương, mấy từ nầy đă được lặp đi lặp lại biết bao nhiêu lần.

 

Một duyên, hai nợ, ba t́nh,

Chiêm bao lẩn quất bên ḿnh năm canh.

.. Răng đen ai khéo nhuộm cho ḿnh,

Để duyên ḿnh đẹp, cho t́nh anh yêu.

Trăm con ống sợi chỉ điều,

Trăm con chỉ ấy buộc vào tay anh.

Một duyên, hai nợ, ba t́nh ..

 

Dân gian thời trước cho rằng yêu nhau, lấy nhau, được hay không là do "duyên số". Theo tích Vi-Cố xưa, một đêm trăng đi dạo, gặp một ông lăo ngồi xe các sợi tơ đỏ với nhau. Hỏi, th́ đáp là đang xe những cặp trai gái ở thế gian nầy lại cho thành vợ chồng. Vi Cố tỏ ư muốn biết vợ  của y sẽ là ai ? Ông lăo chỉ một đứa bé, con mụ ăn mày ở xó chợ gần đó. Vi Cố xấu hổ, tức giận, cho người giết đứa bé, rồi sợ tội, bỏ trốn. Măi về sau Vi Cố cưới được con gái nhà quan, không dè đó lại là con gái mụ ăn mày trước kia bị Vi Cố giết hụt, mẹ đem bỏ ngoài chợ, một ông quan đi ngang qua gặp được, thương hại đem về nuôi. Cho nên, gặp nhau, trai gái nông thôn thường tự hỏi:

 

Vừa đi là gặp em đây,

Một là duyên kỳ ngộ, hai là trời xoay đất vần.

.. Sông sâu nước hiểm làm vầy,

Ai xui em đến chốn nầy gặp anh ?

 

Nhưng dân gian ta lại thêm từ "nợ" vào, cho rằng v́ kiếp trước có nợ nần nhau, nên kiếp nầy phải gặp lại thành vợ chồng, để đền trả cho xong.

 

Đôi ta là nợ hay t́nh,

Là duyên là kiếp, đôi ḿnh kết giao

Em như hoa mận hoa đào

Cái ǵ là nghĩa tương giao hỡi chàng ?

 

Hoặc  ..

Chồng ǵ anh, vợ ǵ tôi,

Chẳng qua là cái nợ đời chi đây !

Mỗi người một nợ cầm tay,

Ngày xưa nợ vợ, ngày nay nợ chồng.

 

Vậy "duyên nợ" là một từ kép bao gồm hai mặt tích cực và tiêu cực của thuyết "nhân quả" áp dụng vào phạm vi hôn nhân và t́nh yêu đôi lứa. Nói một cách khác, dân gian ngày xưa cho rằng hôn nhân thành hay không, là tùy theo trai gái có "phải duyên" hay "trái duyên" với nhau không ?

 

Phải duyên, áo rách cũng màng,

Không phải duyên, áo nhiễu, nút vàng chẳng ham

Chẳng tham nhà ngói bức bàn (gỗ),

Trái duyên, coi cũng bằng gian chuồng gà

Ba gian nhà lá ḷa x̣a,

Phải duyên, coi tựa chín ṭa nhà lim.

 

..  Đẹp như tiên, không phải duyên không tiếc,

Xấu như ma ṃ, duyên hiệp anh thương.

 

Như vậy, dân gian đă công nhận rằng hễ "phải duyên" hay có "duyên nợ" với nhau th́ xấu đẹp ǵ trai gái cũng đi đến chỗ thương yêu nhau.

Và dân gian cũng khẳng định "đảo lại" rằng: Hễ xấu đẹp ǵ mà cũng thương nhau, tức là đă "phải duyên", trai, gái quả đă có "duyên nợ" với nhau rồi.

Khẳng định đảo lại nầy đă dẫn trai gái nông thôn đến một quyết định táo bạo hơn:

 

Số em giàu, lấy khó cũng giàu,

Số em nghèo, chín đụn mười trâu cũng nghèo.

Phải duyên, phải kiếp th́ theo,

Thân em có quản khó nghèo làm chi.

Chữ nhân duyên thiên tải nhất th́

Giàu ăn, khó chịu, lo ǵ mà lo.

 

"Phải duyên, phải kiếp th́ theo" cụ thể có nghĩa là: nếu trai gái quả đă cảm thấy "thương yêu nhau", tức là "phải duyên", nghĩa là đă có " duyên nợ" với nhau, th́ cứ theo nhau, lấy nhau, thành vợ thành chồng, bất chấp sang hèn, giàu khó, hay bất chấp cả sự cản trở của cha mẹ, họ hàng. Phải chăng đó là một quyết định táo bạo đối với xă hội ta ngày xưa ! Mà ngày nay, trái lại có thể coi như là một quan niệm về t́nh yêu và hôn nhân có tính cách tự do và hiện đại !

 

Ở thời phong kiến, những tục "cha mẹ đặt đâu ngồi đó" và "nam nữ thụ thụ bất thân" vốn là của Nho giáo phụ quyền, từ Trung quốc du nhập vào nước ta, và thịnh hành trong các từng lớp quan lại, phú thương, trưởng giả. Nhưng ở nông thôn, Nho giáo chỉ được phổ biến một cách hời hợt thông qua các hàn Nho sống rải rác trong xóm làng, và một khi lắng sâu vào quần chúng, th́ cũng đă dần dần bị Việt hoá đi.

 

Riêng đối với thanh niên nông thôn, t́nh yêu lại c̣n là lẽ sống của một cuộc đời cần lao lam lũ.  Ngoài t́nh yêu ra, c̣n có ǵ để có thể an ủi họ được nữa đâu. Cho nên, bao nhiêu Lễ giáo của đạo Nho khi xuống đến nông thôn, cũng phải nhân nhượng trước t́nh yêu đôi lứa của họ:

 

Ḿnh về, ta chẳng cho về,

Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

Câu thơ ba chữ rành rành:

Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ T́nh là ba.

Chữ Trung th́ để phần cha,

Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta chữ T́nh.

 

Hơn nữa, xă hội nông thôn trước đây vẫn c̣n chịu ít nhiều ảnh hưởng di sản của mẫu hệ, nên trong việc cưới hỏi, cha mẹ không mấy khi ép buộc con cái:

 

Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên

 

.. Xưa kia ai cấm duyên bà,

Bây giờ bà già, bà cấm duyên tôi !

 

Rồi thỉnh thoảng nếu có trường hợp bị cha mẹ ép duyên, th́ trai gái nông thôn sinh ra liều lĩnh:

 

Tiếc răng, tiếc rứa, tiếc ri,

Liều ḿnh bỏ xứ mà đi cho rồi

Liều ḿnh, giả như đứa đứt tao nôi, (a)

Giả như cha với mẹ không sinh ra đôi đứa ḿnh.

 

Chú giải - (a) Đứt tao nôi (tao: sợi giây, nôi: đồ đan bằng tre để trẻ nhỏ nằm) Câu nầy ư nói: Coi như chúng ḿnh khi c̣n bé đă bị đứt tao nôi, mà chết non đi.

 

Nhưng tục "không được cưỡng duyên" vốn đă phổ biến từ xưa trong dân gian. Trong bộ Luật Hồng Đức, đời Lê Thánh Tông, cũng có trường hợp cấm ép duyên như thế: "Con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn, nếu người con trai bị ác tật, phạm h́nh án, hoặc phá tán gia sản, th́ cho phép con gái được kêu quan mà trả đồ lễ .. Trái luật (nghĩa là con trai ấy cứ ép con gái phải lấy ḿnh) th́ bị xử phạt 80 trượng (b)." (2)

 

Chú giải: (b) Trượng: ngày xưa cây gậy bằng gỗ được gọi là trượng.

 

Về sau, nếu t́nh yêu bị gián đoạn, đổ vỡ, hôn nhân không thành, người xưa cho là tại "duyên số" dở dang, và tự an ủi rằng:

 

Khi nào gánh nặng anh chờ,

Qua cầu anh đợi, bây giờ em quên.

Kiếp nầy đă lỡ làng duyên,

Kiếp sau xin hẹn cửu tuyền gặp nhau.

 

Như đă nói trên, ở các tầng lớp quan lại, phú thương chịu ảnh hưởng Nho giáo, phong kiến, th́ nhất luật "nam nữ thụ thụ bất thân". Trái lại ở nông thôn, trai gái, v́ nhu cầu sinh hoạt nông tác nên thường có nhiều dịp gặp nhau: trong một vụ cấy mạ, một tối giă gạo, một chuyến đ̣ ngang, một buổi hát giao duyên, hát trống quân, hát phường vải, một ngày chợ phiên, một lễ hội trong làng .. và được tự do chuyện tṛ, ḥ hát trêu ghẹo, đưa t́nh với nhau

 

Ăn chơi cho hết tháng hai

Để làng gióng đám cho trai dọn đ́nh.

Trong thời đánh trống rập ŕnh,

Ngoài thời trai gái tự t́nh với nhau.

 

Ngày xưa, các buổi gặp gỡ ḥ hát nầy thường đưa trai gái nông thôn đến việc "nên vợ nên chồng" một cách nghiêm túc:    

 

Con c̣ lấp ló bụi tre,

Sao c̣ lại muốn lăm le vợ người  ?

Vào đây ta hát đôi lời

Để cho c̣ hiểu sự đời ở ăn.

..  Một đàn c̣ trắng kia ơi !

Có nghe ta hát những lời nầy không?

Hát câu đẹp cốm tươi hồng,

Hát câu nên vợ nên chồng, c̣ ơi !

 

Chính các thân hào đă đứng ra tổ chức những đám "hát phường vải", "hát trống quân", "hát quan họ", "hát giă gạo", hát giao duyên" .. để trai gái hát ḥ, gặp gỡ, kết "bạn văn nghệ" với nhau, dưới sự kiểm soát kín đáo của các bậc đàn anh:

 

Ai có chồng, nói chồng đừng sợ,

Ai có vợ, nói vợ đừng ghen.

Tới đây ḥ hát cho quen,

Rạng ngày, ai về nhà nấy, há dễ ngọn đèn hai tim. (c)

 

Chú giải - (c) Đèn hai tim = Đèn nhà quê ngày xưa đổ dầu phụng vào dĩa, dùng một sợi vải làm tim đốt. "Đèn hai tim" chỉ trai có 2 vợ.

 

Cũng ở thôn quê ta ngày xưa, thường con gái lại đứng lên tỏ t́nh và t́m đến gặp con trai trước. Một tâm t́nh say đắm, "lăng mạn" phi Nho giáo ! Không cần biết sẽ có nên vợ, nên chồng hay không, nhưng gặp nhau, thương nhau th́ cứ "xơi năm ba miếng trầu" với nhau đă .. "kẻo ḷng nhớ thương".

 

Sớm mai gánh nước mờ mờ,

Đi qua ngơ giữa t́nh cờ gặp anh.

Vào vườn hái quả cau xanh,

Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu.

Trầu nầy ăn thật là say,

Dù mặn dù lạt, dù cay dù nồng.

Dù chẳng nên vợ nên chồng,

Xơi năm ba miếng kẻo ḷng nhớ thương.

Cầm lược th́ nhớ tới gương,

Cầm trầu nhớ túi, nằm giường nhớ nhau.

 

Ở đây, trai gái nông thôn chỉ cần hưởng thụ trong hiện tại, không cần biết đến "duyên nợ" sẽ đưa đến đâu ? Một hành động, mà ngày nay có thể coi như là "lăng mạn" hay "hiện sinh"!

Và tính cách "lăng mạn" ấy c̣n gặp lại trong cái nh́n đắm đuối, rụt rè của những mối t́nh vô vọng:

 

Ngó em chẳng dám ngó lâu

Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi!

 

"Lăng mạn" c̣n ở trong cử chỉ nâng niu, săn sóc đứa con nhỏ của cô gái vừa mới lừa dối ḿnh, mà oái ăm thay, đó lại là cô gái mà ta đă lỡ yêu:

 

Ḿnh nói dối ta ḿnh chửa có con,

Ta đi qua ngơ thấy con ḿnh ḅ.

Con ḿnh những trấu cùng tro,

Ta đi xách nước rửa cho con ḿnh.

 

Về sau, khi chế độ xă hội đă chuyển sang phụ hệ, với ảnh hưởng của Nho giáo, th́ các cuộc hẹn ḥ riêng tư "thân mật, mùi mẫn" giữa trai và gái như thế tất nhiên phải kín đáo, lén lút hơn xưa: 

 

"Đêm nằm thao thức vào ra,

Chờ cha mẹ ngủ, lén qua thăm ḿnh.

Tôi than hết sức, tôi dứt hết t́nh,

Thiếu điều cắn ruột trao ḿnh, ḿnh ơi !"

 

.. Gió đưa cành mận, gió lận cành đào,

V́ em anh phải ra vào tối tăm.

Tối tăm th́ mặc tối tăm,

Chờ cho cha mẹ đi nằm sẽ hay.

Cầm tay, anh nắm cổ tay,

Em đừng hô hoán sự nầy mà to.

 

Đă yêu nhau rồi, tức là đă "phải duyên", đă có "duyên nợ" với nhau rồi, th́ "phải theo" .. lén lút theo !

 

Qua các câu ca dao trữ t́nh, chúng ta nhận thấy có một sự tranh đấu dằng dai qua bao nhiêu thế kỷ giữa hai nền văn hóa địa phương và ngoại lai:

Giữa chế độ mẫu hệ Lạc Việt và chế độ phụ hệ Nho giáo Trung quốc, giữa ḷng tin vào số mệnh trong tín ngưỡng nguyên thủy Việt-Nam với thuyết nhân duyên trong Phật giáo, giữa bản tính đa t́nh, lăng mạn của dân quê ta với các lễ tục khắc nghiệt của chế độ phong kiến .. 

 

Công cuộc tranh đấu gay go, đầy đau thương, nước mắt, nhằm giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức, để đem lại tự do yêu thương, tự do kết hôn .. Có thể có những khuynh hướng lăng mạn, hưởng thụ, hiện sinh, nhưng vẫn không "lăm le vợ người" và không nhận "ngọn đèn hai tim", không hề xa rời "đạo đức tự nhiên" của ông cha !

 

Một cuộc tranh đấu không bài ngoại tuyệt đối, mà có tính cách ḥa nhập trong thế quân b́nh. Đó chính là sức mạnh sinh tồn ngàn năm của dân ta !

 

CHÚ THÍCH

 

(1) - D. Huisman et L.R. Plazolles, L'Art de la dissertation littéraire, Sedes, Paris,1960, p. 228 (L'homme souffre, mais en chantant sa souffrance, il la dépasse).

(2)- Luật Hồng Đức, chương Hộ Hôn, điều 39

 

 

 

VƠ THU TỊNH

(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)


website counter