KỶ NIỆM TAO ĐÀN ..
(Phan Lạc Phúc)
LTS: Ngày thứ Bảy 29.7.06 vừa qua, đồng
nghiệp nhật báo Người Việt và nguyệt
san Khởi Hành vừa cộng tác tổ chức
một ngày vinh danh cho ban Thi văn Tao Đàn của
Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. Người
đại diện còn lại của ban Tao
Đàn là nhà thơ Thái Thủy
đã có mặt trong buổi lễ vinh danh
này. Nhiều văn nghệ sĩ
đã được mời tham dự và
đóng góp ý kiến. Người phụ
trách Sổ Tay, nhà văn Phan Lạc Phúc,
được mời đóng góp một vài
kỷ niệm. Sau đây là vài
ý kiến đóng góp của người giữ
mục này. Trân trọng.
* * *
Đầu năm 1956 tôi từ biệt nghề
"chiến binh lội ruộng"về Phòng 5 bộ
Tổng tham mưu làm sĩ quan thông tin báo
chí. Lúc bấy giờ tôi chưa có vợ
con gì, khoác cái ba lô lên lưng
là có thể đi cùng trời cuối đất.
Về Sài Gòn chưa biết ở
đâu tôi xáp vô ở với bạn cũ
Thanh Nam ở ngõ
Nancy
(đường Phan Văn Trị). Tôi và
Thanh Nam
chơi với nhau từ khi tôi từ ngoài khu về
Hà Nội ăn dầm nằm dề trên căn
gác phố hàng Bông nhà Nguyễn thiệu
Giang, tập tọng làm văn nghệ văn gừng
dưới sự hướng dẫn của đàn
anh Đinh Hùng. Trong nhóm chúng tôi ngày
ấy ngoài Thanh Nam, Nguyễn Thiệu Giang còn
có Nguyễn Minh Lang, Phan Nghị, Huy Quang Vũ Đức
Vinh, những người Thanh Nam nhắc đến trong
bài hành tuổi 40 vài chục năm sau:
.. Bạn cũ hãy nương theo rét lạnh
Về đây cùng nhập một
cơn say
Chí lớn chia nhau đầy
gác nhỏ
Bụi hồng chưa khiến tóc
xanh phai
Dăm bảy lòng sông ôm biển
cả
Coi đời dưới mắt nhẹ
không ai
Cơn mê nhập cuộc sầu
chưa bén
Thân thế chưa đau cát bụi
này ..
Sau hiệp định Genève 1954 nhóm
chúng tôi tan tác kẻ đi người ở.
Theo anh Đinh Hùng vào Nam có Vũ Đức
Vinh, Phan Nghị và tôi. Thanh Nam
đã vào Sài Gòn trước (1953).
Ở lại có Nguyễn Minh Lang, Nguyễn
Thiệu Giang. Bây giờ (1956)
tôi ở với Thanh Nam, gặp lại anh
Đinh Hùng và có thêm những người
bạn mới. Ở cùng nhà ngõ Nancy lúc bấy
giờ có nhà thơ Thái Thủy (tác giả
Lá thư Gửi mẹ), kịch sĩ
kiêm "ngâm" sĩ và vũ sư (múa
Trấn thủ Lưu đồn) Hoàng Thư, nhà
báo Vũ Quang Ninh, quản đốc đài
phát thanh Quân đội. Một lũ "xê
li bạt" ở với nhau, không có
đàn bà, không có trẻ con, ăn uống
tùy tiện, tối đến sải chiếu ra,
chăng màn ngủ, mỗi anh một góc,
không phiền ai. Nhà này trước
đây còn có văn sĩ Tạ Quang Khôi
(xước danh Tạ ống khói) nhưng ít
lâu nay ông "Ống khói" tạm biệt
nơi này vô Đại học Sư phạm rồi.
Nhà này phải để sàn rộng rãi
là có lý do của nó. Ông
Hoàng Thư thỉnh thoảng tập múa Trấn
thủ Lưu đồn nên phải có chỗ cho
"vũ sư" tập dượt. Vũ sư mặc
quần đùi, thân thể hom hem nhưng múa
rất hăng, vừa múa vừa hát "Trấn
thủ ấy mấy lưu đồn. Ngày thì
canh điếm ấy tối dồn là việc quan, chém
tre mà đẵn gỗ trên ngàn
..".
Nhà một lũ độc
thân nên anh em dễ dàng hội họp, gặp
nhau "phùng trường tác hí". Sải
chiếu ra, ăn nhậu dài
dài. Hay đến đây là
đàn anh Đinh Hùng, có khả năng đặc
biệt vừa nằm vừa viết văn chương
Tao Đàn mà chữ nghĩa vẫn rồng bay
phượng múa. Có ông Vũ
Khắc Khoan gõ muỗng vào ly mà "Hồ
trường, hồ trường ta biết rót về
đâu". Có ông Mai Thảo
với ông Phạm Đình Chương rượu
uống tì tì, càng uống mặt càng
tái đi. Có ông Anh Ngọc say ngất ngư mà vẫn hát "Anh đến
thăm em một chiều mưa'". Có ông Tạ
Tỵ ngày Tết chạy sang, sải chiếu ra,
rút bất.
Văn nghệ sĩ đến đây nhiều
như thế nên người ta bảo ngõ
này là ngõ "văn nghệ". Khu này cũng có khá đông anh
em ta cư ngụ. Từ chợ Nancy quẹo vô
ngõ Phan Văn Trị là nhà của nhà
văn, nhà thơ kiêm "sáo sĩ"
Tô Kiều Ngân. Đi thêm dăm chục
bước chân là nhà Thanh Nam. Trước cửa nhà Thanh Nam là
nhà Tạ Tỵ họa sĩ, văn, thi sĩ.
Ngay cạnh nhà Thanh Nam là nhà ban Hợp
ca Hạc Thành của anh em nhạc sĩ Nhật Bằng,
Nhật Phượng, Thể Tần, Hồng
Hảo. Xế bên kia một chút là nhà của
ký giả lão thành Thượng Sĩ,
nhà phê bình, điểm sách trên tờ
Tin Mới của Hà Nội năm xưa (nhà
văn nữ Sài Gòn Cô Nương xuất hiện
trên làng báo hải ngoại mấy năm gần
đây là con gái anh Thượng Sĩ).
Năm ấy (1956) là thời kỳ cực thịnh
của ban Tao Đàn, phù hợp với giai đoạn
khởi đầu của nền Đệ Nhất Cộng
Hòa khi miền Nam VN vừa có một thể chế
mới, một tương lai mới. Pháp đã rút hết về nước.
Trên phương diện truyền thanh, các
đài của Pháp như Pháp Á, Con nhạn
(Hirondelle) nhất loạt đóng cửa; đài
quốc gia (lúc bấy giờ chưa có TV) cũng
như các chương trình phát thanh có bổn
phận phải "lớn lên" cho kịp với
tình hình. Ban Tao Đàn ngoài trách nhiệm
đã được minh thị "tiếng nói
của thơ văn miền Tự Do" còn tiềm ẩn
một nghĩa vụ "đem theo văn hóa của
1 triệu người miền Bắc vừa định
cư ở miền Nam". Thơ, văn Tao Đàn phần
đông là văn hóa Bắc Hà, là những
làn điệu của văn minh sông Hồng,
sông Mã giao duyên cùng văn minh Hương
Giang và Cửu Long Giang.
Bao nhiêu năm đã trôi qua, bây giờ
từ vĩ tuyến 17 trở vào
trong, chúng ta có một lối ngâm thơ
đã trở thành phổ biến: ngâm thơ
Tao Đàn. Nó xuất hiện thường
xuyên trong cải lương miền Nam hay
bài chòi miền Trung. Nó là
cái còn lại, là dấu ấn của
văn nghệ sĩ đã đưa Tao Đàn
vào đời sống văn hóa.
Người khai sinh và điều
khiển chương trình Tao Đàn, như cả
nước đều biết, là thi sĩ Đinh
Hùng. Năm 1956
tôi ở nhà Thanh Nam, nơi anh Đinh Hùng
thường tới viết bài, các cộng sự
thân thiết nhất của anh đều ở quanh
đây nên có thể nói nơi đây
là "đại bản doanh" của chương
trình Tao Đàn. Chương
trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ
phận. Bộ phận quan trọng nhất là
ban biên tập và diễn đọc gồm
Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm
sau có Huy Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang
vào cộng tác. Bộ phận thứ 2 là ban
ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ
trình diễn thường xuyên hay tùy hứng.
Người "đa năng' nhất trong
ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm,
vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng
sáo Tô Kiều Ngân réo rắt thường
được coi là "indicatif" của Tao
Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục
trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano trầm
ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm
Đình Chương. Về giọng ngâm nam
ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư; một
thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có
góp tiếng trên đài. Tô Kiều
Ngân tuy giọng không khỏe nhưng anh là
người ngâm "khéo" nhất, ngâm giọng
Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư
có chất giọng say sưa, mạnh mẽ được
đời nhớ mãi trong Bài ca Ngư phủ của
Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng
thổ pha kim, xuất sắc trong những
tác phẩm bi hùng. Có những giọng
ngâm không có mặt lâu năm trên
đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ
như Quách Đàm trong những bài lục
bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn
bá Trác.
Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu
phải nhắc tới cái ngọt ngào của
Giáng Hương nhưng các tay sành điệu
đều không thể nào quên giọng
ngâm đổ hột đặc sắc của bà
Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng
tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ
bà Hành. Giọng ngâm nữ nhiều năm
làm thổn thức trái tim
thính giả là Hồ Điệp trong những
bài thơ nức nở TTKH. Về sau
có một giọng nữ như sương như
khói làm khởi sắc những vần ca dao
dân tộc và những bài ca huyền sử.
Đó là giọng ngâm Hoàng
Oanh.
Sang đến thập niên 1960 sức truyền lan của Tao Đàn có sút giảm
đi. Thi ca miền Nam Tự Do với một
thẩm mỹ mới, một thẩm mỹ chênh
vênh (esthétique de choc) đã ngự trị thi
đàn. Thơ có vần đang chuyển
sang không vần của thơ tự do. Người
ta ưa đọc thơ hơn là ngâm thơ.
Nhưng đó lại là một vấn
đề khác. Mỗi thời
điểm có vấn đề riêng của
nó.
Ngày xưa đàn anh Đinh Hùng
có nói: "Mỗi một người bạn
là một phần đời sống của
mình". Thoạt đầu, tôi nghĩ
là đàn anh "bốc" đàn anh
phán vậy thôi. Nhưng
càng già càng thấy đàn anh nói
đúng. Bây giờ nói về thời
gian sống ở ngõ Nancy
còn lại những ai ? Đinh
Hùng, Thanh Nam,
Thượng Sĩ, Hoàng Thư, Phạm Đình
Chương, Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Nhật Bằng,
Tạ Tỵ, Phan Nghị .. đều bỏ chúng ta mà đi rồi.
Người gần nhất "lên
đường" là Huy Quang Vũ Đức Vinh.
Khi nghe tin Vũ Đức Vinh ngắc ngoải, hai ông
còn lại ngày xưa ở nhà Thanh Nam là Vũ Quang Ninh và
Thái Thủy vội bay sang Seattle
thăm bạn. Tới nơi thấy bạn
mình đã hôn mê nhưng khi nghe "Vũ
Quang Ninh, Thái Thủy sang thăm ông
đây" thì người hấp hối bỗng
chảy hai hàng nước mắt. Vũ
Đức Vinh, người bạn thường gọi
tôi "bạn cũ trên 50 năm" đã từ
biệt chúng ta như thế.
Bây giờ còn có người mà kể
lại; mai đây không biết còn kể lại
với ai ?
PHAN LẠC PHÚC
(Bai Chuyen)