NHỮNG BÀI CA TỪ KHÁT VỌNG
CHƯA THÀNH
(Trần Trung Đạo)
Trong một xã hội thiếu vắng
những bản tình ca, một nhạc phẩm mang
tên "Tình ca" hẳn được nhiều
người đón nhận. Bài hát "Tình ca" của
Hoàng Việt được yêu chuộng
không phải chỉ do cái tựa mà còn
là một nhạc phẩm rất hay. Người nhạc
sĩ gốc miền Nam, cũng là tác giả của
"Tiếng còi trong sương đêm" quen
thuộc với giọng ca Thanh Thúy, đã viết
"Tình ca" để gởi gấm nỗi nhớ
thương về miền Nam thân yêu và
người vợ hiền đã chia tay ông
trên cửa biển Cà Mau trước ngày tập
kết. Qua núi biếc, qua bóng mây, qua những
đêm tối trời mù mịt, tình yêu
trong trái tim ông vẫn sáng
lên như những vì sao chung thủy đời
đời. Thế nhưng, nhạc phẩm "Tình
ca" ngày mới ra đời năm 1957 đã bị
Đảng phê bình là ủy mị ngay trong lần
trình diễn đầu tiên ở Hà Nội với
tiếng hát Quốc Hương. Những năm đầu
của cuộc chiến "Tình ca" gần như
không được hát.
Khi hát lên tiếng ca gởi về
người yêu quê ta
Ta át tiếng gió mưa
thét gào cuộn dâng phong ba
Em ơi ! Nghe chăng
lời trái tim vọng ra
Rung trong không gian mặt biển
sôi ầm vang
Qua núi biếc chập chùng xa
xa
Qua bóng mây che mờ quê ta
Tiếng ca đời đời chung thuỷ thiết tha.
Em có nghe tiếng ca chứa đựng
hận thù sâu xa
Đã biến tình đôi
ta thành những ánh sao toả sáng
Vượt băng băng qua đêm
tối tìm hương hoa
Bến nước Cửu Long còn
đó em ơi !
Bãi lúa nương dâu
còn mãi muôn đời
Là còn duyên tình ta thắm
trong tiếng ca không thể xóa nhòa
..
Nhạc sĩ Hoàng Việt đã chết
vì bom trong ngày cuối năm, 31 tháng 12
năm 1967 trên đường về lại miền
Nam để gặp người ông yêu quý.
Cũng trong khoảng thời gian đó ở miền
Nam,
có thể vào một buổi chiều trong một
quán café ở góc đường Lê Lợi
hay một buổi tối cuối tuần qua đài
phát thanh Sài Gòn, vọng lên tiếng
hát Thái Thanh. Hà Nội ơi !
Tiếng hát của người ca sĩ tài danh
như tiếng than dài tưởng chừng có thể
nghe được tận bên kia cầu
Hiền Lương đang đau nhức. Nhạc phẩm
"Giấc mơ hồi hương" của nhạc
sĩ Vũ Thành tưởng vọng về thành
đô yêu dấu với Hồ Tây, cầu
Thê Húc, đường Cổ Ngư và bao
nhiêu kỷ niệm vẫn chưa chịu ngủ
yên trong lòng người nhạc sĩ miền Bắc
vừa đặt chân lên mảnh đất miền
Nam.
.. Lìa xa thành đô yêu
dấu, một sớm khi heo may về
Lòng khách tha hương
vương sầu thương
Nhìn "em" mờ trong mây
khói, bước đi nhưng chưa nỡ rời
Lệ sầu tràn mi, đượm
men cay đắng biệt ly
Rồi đây dù lạc
ngàn nơi
Ta hướng về chốn xa vời
Tìm mộng xưa lãng quên
tháng ngày tàn phai
Nghẹn ngào thương nhớ
"em" .. Hà Nội ơi ..
Nhạc sĩ Vũ Thành đã
qua đời nhưng giấc mơ hồi hương, gởi
gắm trong nhạc phẩm của ông, vẫn chưa
thành sự thật.
Nửa thế kỷ sau, nhạc phẩm bất hủ
"Giấc mơ hồi hương" cũng chưa
được chính thức hát lên giữa
lòng Hà Nội dấu yêu mà ông
đã hằng nghìn đêm thương nhớ.
Mười sáu năm sau ngày đất
nước bị chia đôi, trong giảng đường
đại học, trên đường phố Sài
Gòn, trong sân trụ sở Tổng hội Sinh
viên ở số 4 Duy Tân Sài Gòn, dọc
hành lang cư xá sinh viên Minh Mạng, tiếng
hát của ước mơ hòa bình thống
nhất độc lập tự do lại vang lên,
khác chăng, lần này không phải từ
các giọng ca chuyên nghiệp như Quốc
Hương, Thái Thanh, từ các nhạc sĩ
thành danh như Hoàng Việt, Vũ Thành,
không phải từ những giàn đại
hòa tấu mà từ những nhạc sĩ
còn rất trẻ với những cây guitar
thùng cũ kỹ. Họ là Tôn Thất Lập,
Nguyễn Văn Sanh, La Hữu Vang, Miên Đức Thắng,
Trương Quốc Khánh và cả những nhạc
sĩ sinh viên đang kẻ những khung nhạc lần
đầu.
Nếu có cuộc bình bầu những
bài hát phổ biến, chuyên chở tình
đất nước và được sinh viên học
sinh trước 1975 ưa chuộng, tôi nghĩ một
trong những bài được chọn sẽ là
bài "Tự nguyện" của nhạc sĩ
Trương Quốc Khánh. Lý do vì bài
hát ngắn, dễ hát, dễ thuộc, nói
lên khát vọng chưa thành của tuổi trẻ
nói riêng và dân tộc nói chung.
Nếu là chim, tôi sẽ là
loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là
một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ
là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ
chết cho quê hương ..
Nhạc sĩ Trương Quốc Khánh
đã qua đời, trên đất nước
anh hoa hướng dương vẫn chưa nở và
con bồ câu bạn bè anh đặt trên quan
tài anh trong giờ tiễn biệt cũng đã
chết vài ngày sau đó.
Ba nhạc sĩ, người từ Nam ra Bắc, kẻ
từ Bắc vô Nam, kẻ từ núi rừng,
người từ thành phố, cho đến khi qua
đời họ có thể chưa một lần gặp
mặt nhau, nhưng cả ba đã cùng với nhiều
triệu người Việt Nam cưu mang một ước
mơ chung: hòa bình, thống nhất, độc lập,
tự do.
Nếu là người, tôi sẽ
chết cho quê hương, vâng, có người
Việt Nam
yêu thương đất nước nào mà
chẳng từng có những ước mơ như thế. Khát vọng hòa bình, thống
nhất, độc lập, tự do là khát vọng
có thật và sâu thẳm của một
dân tộc đã trải qua quá dài, chịu
đựng quá nhiều trong chiến tranh, hận
thù, phân chia Nam Bắc. Từ buổi sáng
ngày 6 tháng 6 năm 1884 khi hòa ước mất
nước Patenôtre được ký cho đến
ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một chặng
đường dài. Trong khoảng thời
gian đó bao nhiêu máu Việt Nam đã đổ, bao
nhiêu thịt Việt Nam
đã rơi trên núi rừng và đồng
ruộng Việt Nam.
Ngày tôi vào đại học các nhạc
sĩ sinh viên nói trên một số đã
vào tù, một số vào bưng, một số
được trao trả tù binh ở bìa rừng
Lộc Ninh, một số trốn tránh ở Sài
Gòn, tôi không quen biết hay gặp gỡ họ
nhưng những bài ca khao khát hòa bình thống
nhất của họ vẫn còn vang đâu
đó như trong bài "Không ai ngăn nổi
lời ca" của La Hữu Vang dưới
đây:
Không ai ngăn nổi lời ca, lời
ca mãi muôn đời, lời ca yêu mến
người
Lời tôi ca trên đồng
lúa, lời tôi ca nắng mai hồng, lời
tôi ca cơn sóng nhỏ dòng sông
Không ai ngăn nổi lời ca, lời
ca những anh hùng trọn đời yêu núi
sông
Lời tôi ca xanh đại
dương, lời tôi ca những con đường
Lời tôi ca bao dòng máu
trên luống cầy đọng giọt mồ hôi
Và ngàn lời ca quyết giữ
nước ngăn quân giặc thù
Và ngàn lời ca quyết
phá tan ngục tù
Người người tìm nhau
trong bác ái tin yêu đời
Chung xây nước Việt đẹp
tươi !
"Chung xây nước Việt đẹp
tươi", tôi nghĩ các anh chị nhạc sĩ
sinh viên thật quá ngây thơ, nhưng đồng
thời tôi lại rất kính trọng tấm
lòng yêu quê hương trong sáng của họ.
Hàng trăm trí thức miền Nam, những
giáo sư, luật sư, bác sĩ, kỹ sư từ
các trường Tây trường Mỹ về, những
bậc thầy, bậc cha chú họ mà còn bị
cộng sản xỏ mũi dễ dàng nói chi
là những cô cậu sinh viên trẻ tuổi vừa
mới nện gót giày lên hành lang đại
học. Những con nai tơ còn quá trẻ để
thấy phía bên kia bụi rậm
bầy cọp đói đang chờ đợi họ.
Dù sao, trong đêm dài mùa đông của
vận nước, họ là những thanh niên Việt
Nam
có trái tim nồng ấm
tình người và biết đau nỗi đau
mà đồng bào đang chịu đựng. Lớn lên trong một xã hội chiến
tranh đầy dẫy những bất công tiêu cực
họ không có một nơi nào để
trút những phẫn uất khác hơn là giới
cầm quyền. Tuổi trẻ quốc gia nào cũng
thế, nhiệt tình, phản kháng, cương trực,
vô tư, nhưng khác ở chỗ tại Việt
Nam những đặc tính đó của tuổi
trẻ bị Đảng Cộng sản lợi dụng tận
tình, không phải chỉ tiếng hát lời
ca, mà còn từ thịt xương đến giọt
máu cuối cùng.
"Không ai ngăn nổi lời ca" là một
thách thức của tuổi trẻ nhưng hình
như khi viết bài ca đó nhạc sĩ trẻ
của quê hương anh hùng Nguyễn Huệ chỉ
nghĩ đến chính quyền miền Nam mà
chưa biết rằng trên đời này còn
có Đảng Cộng sản Việt Nam. Lịch sử bốn ngàn năm cuồn cuộn
của dân tộc Việt mà Đảng còn
ngăn được nói chi làm dăm ba bài
hát. Chỉ vài hôm sau ngày cưỡng
chiếm Sài Gòn, các nhạc phẩm của
thời kỳ sinh viên sôi nổi, dù không
công khai thông báo ra ngoài nhưng bên
trong nội bộ ban văn hóa tư tưởng của
Đảng, chúng đã bị xếp chung với
loại nhạc "vàng", "ủy mị",
"ru ngủ" và thậm chí "phản
động". Những người lưu tâm đến
sinh hoạt văn nghệ đều biết sau 30
tháng 4 năm 1975 những nhạc phẩm như
"Không ai ngăn nổi lời ca" hay "Tổ
quốc ơi ta đã nghe" chỉ còn là
những tiếng thì thầm trong góc tối. Ngay
cả tại số 4 Duy Tân, trụ sở của Tổng
hội Sinh viên Sài Gòn, những nhạc phẩm
của La Hữu Vang đã không còn được
hát.
Lời của bài "Tổ quốc ơi ta
đã nghe" của La Hữu Vang:
Ôi Tổ quốc ta đã nghe lời
réo gọi
Trong tiếng hờn trong máu lửa
ngập trời
Từng giây nghe quê hương
Xót xa thầm trong cơn thê
lương
Thù quân gieo tang thương
Bao suối lệ tràn dâng
muôn phương
Tổ quốc ơi !
Ta đã nghe lời sông núi
Hận thù này tràn đầy
sục sôi trong tim gan nồng
Ta đi chiến đấu quyết
đánh tan quân bạo tàn
Bảo vệ Việt Nam quê
hương ta.
Ôi Tổ quốc bao tiếng ca giờ
lên đường
Ðem máu hồng tô thắm
đẹp cuộc đời
Lời xưa vang đâu đây
Chí kiêu hùng muôn
phương tung bay
Ðường ta đi hôm nay bao
xác thù gục ngã tan thây
Tổ quốc ơi bao thiết tha lời
sông núi
Thề nguyện cả cuộc đời
trọn dâng cho quê hương này
Muôn hoa tươi thắm ngát
hương trên bao nụ cười
Gian khổ nề chi ta ra
đi.
Sau 1975, nhạc sĩ La Hữu Vang,
tên thật là Trần Đình Giác,
không giống như nhiều người khác ở
lại Sài Gòn để tìm một chỗ
đứng, một con đường tiến thân trong
xã hội mới, đã lặng lẽ trở về
quê hương Bình Định để sống
với gia đình. Suốt
31 năm, tác giả những bản nhạc hay nhất
của phong trào sinh viên Sài Gòn
đã sống một cuộc sống đạm bạc
với chức vụ coi sóc nhà văn hóa của
huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định. Trong
buổi phỏng vấn dành cho báo Bình Định
cuối tháng 4 năm 2003, anh xác nhận, trước
1975: "Phần lớn những ca khúc mà
chúng tôi viết chỉ nhằm vào việc
kêu gọi lòng yêu nước ..". Lòng
yêu nước như ngọn đèn thần để
ở đâu cũng sáng rực. Nhạc phẩm
"Tổ quốc ơi ta đã nghe" đã
được tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại
tiếp tục hát, tương tự, nhạc phẩm
"Không ai ngăn nổi lời ca" của anh
đã được nhiều ca sĩ như Lệ
Thu, Julie Quang thu vào băng đĩa.
Những bài hát của La Hữu Vang viết
cho hoàn cảnh đất nước trước 1975
nhưng lại thích hợp hơn cho những năm
sau 1975 với những cảnh "xót xa thầm trong
cơn thê lương" hay "Bao suối lệ
tràn dâng muôn phương". Như ông
bà ta thường nói "có tật giật
mình", Đảng rất ngại những bản
nhạc của La Hữu Vang với nội dung yêu
nước chân thành như thế, nếu cho
phép tiếp tục hát trong những năm sau 1975
đói khổ, có thể giúp cho tuổi trẻ
Việt Nam sực tỉnh và hiểu ra kẻ thù
của dân tộc chẳng phải "Mỹ Ngụy"
nào mà chính là những kẻ đang
nhân danh Tổ quốc.
Theo đúng sách lược của Đảng
từ những ngày mới thành lập năm 1930
được cụ thể hóa qua nhiều đại
hội và nghị quyết, ngày 30 tháng 4
năm 75 cũng xác định nhu cầu "khai
thác lòng yêu nước" không còn
cần thiết nữa, cuộc cách mạng
"dân tộc dân chủ nhân dân"
đã hoàn tất và "thời kỳ
chuyên chính vô sản, bước quá độ
tiến lên chủ nghĩa xã hội" đang bắt
đầu thành hiện thực. Và trong tiến
trình cách mạng mới đó, những
khái niệm độc lập, tự do, hạnh
phúc do những thành phần ngoài Đảng
kêu gọi phải được cảnh giác
và ngăn cấm.
Trong quan điểm của Đảng, giữa
lúc cuộc đấu tranh một mất một
còn để tận diệt mọi "tàn
dư" của "kẻ thù nhân dân"
và "bẻ gãy mọi âm mưu xâm
lược của các thế lực quốc tế
thù địch", việc kêu gọi "người
người tìm nhau trong bác ái tin yêu
đời" để "chung xây nước Việt
đẹp tươi" như La Hữu Vang viết,
là biểu hiện cho "thái độ hữu
khuynh","không phân biệt bạn
thù". Nhạc như thế phản
động quá đi chứ. Cũng theo Đảng,
những khái niệm như tình yêu nước
thuần khiết của mấy cô cậu sinh viên
đại học đúng là sản phẩm của
giai cấp tiểu tư sản, yêu nước
ngày nay phải gắn liền với yêu chủ
nghĩa xã hội, và tương tự, nhân dân không phải là
mấy chục triệu người Việt Nam máu
đỏ da vàng chịu đựng chiến tranh
mà là những ai biết đặt mình
dưới sự lãnh đạo tuyệt đối
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cũng là
ngày đánh dấu sự chia tay giữa Đảng
Cộng sản và các thành phần dân tộc
mà Đảng đã một thời liên minh,
thỏa hiệp và ưu ái. Mối
quan hệ giữa hai bên nếu còn được
duy trì cũng chỉ là quan hệ lãnh đạo
và phục tùng, chủ và tớ chứ
không còn tương kính dù chỉ
là đóng kịch như thời còn ở
trong rừng hay trên núi. Một số
trí thức trẻ "thức thời" thấy
được hướng bay của ngọn cờ quyền
lực, đã tự chôn sống đi con bướm
vàng mơ ước tuổi hai mươi để
hóa thân làm sâu bọ đo mình
trên chiếc lá mục công danh. Một số
khác nghĩ rằng mình "có công với
cách mạng" trong thời chống Mỹ nên cũng
có quyền, có tiếng nói dưới chế
độ mới, và kết quả nếu không chạy
kịp ra nước ngoài thì cũng bị bỏ
rơi, bạc đãi, tù đày trong nước.
Dĩ nhiên cũng có nhiều người, tuy trễ
tràng, nhưng đã thấy ra những chọn lựa
đầy lầm lỡ thời trai trẻ và
đã dùng những lầm lỡ như bài học,
như chiếc gương cho các thế hệ mai sau
soi vào để qua đó mà nhận diện
ra sự thật và chọn hướng đi
đúng cho mình.
Giới lãnh đạo Đảng Cộng sản
lợi dụng và vận dụng một cách tinh vi, nhuần nhuyễn lòng yêu nước,
niềm khao khát hòa bình thống nhất
chân thành nhưng quá đơn sơ của
người dân Việt, nhất là trong tuổi trẻ.
Họ có đủ sách vở
áp dụng cho mọi thành phần xã hội,
từ anh thợ điện Nguyễn Văn Trỗi
ít học ở quê tôi cho đến bà luật
sư Ngô Bá Thành học nhiều mà hiểu
chẳng bao nhiêu ở Sài Gòn. Tất cả
đều hùa theo Đảng đổ tội
lý do cuộc chiến lên đầu các
nhà lãnh đạo miền Nam, nào là
không tôn trọng Hiệp định Geneva thống
nhất đất nước qua một cuộc tổng
tuyển cử, nào là rước voi Mỹ
vào giày xéo lên mảnh đất miền
Nam thân yêu. Thế nhưng, không
có một nhà trí thức nào thử
đặt ngược giùm câu hỏi. Giả
thiết không có một người lính Mỹ
nào đặt chân lên miền Nam liệu Đảng Cộng Sản
có để yên cho nhân dân miền Nam
xây dựng một xã hội mà họ
đã chọn lựa hay rồi sẽ tìm một
lý do khác để phát động chiến tranh ? Giả thiết Đảng Cộng Sản
thua trong cuộc tổng tuyển cử, liệu họ
có chịu giải tán bộ máy công an, hủy
bỏ tổng cục chính trị, hệ thống
quân ủy, ủy ban nhân dân, viện kiểm
sát nhân dân, tòa án nhân dân,
xáp nhập quân đội nhân dân vào
quân đội cộng hòa và sinh hoạt
bình đẳng dưới pháp luật như
các đảng phái khác hay sẽ dùng mọi
thủ đoạn để giành cho được
chính quyền ? Một người
có kiến thức chính trị tối thiểu cũng
biết Đảng chỉ có một con đường,
đó là cộng sản hóa toàn cõi
Việt Nam, và tất cả khẩu hiệu hòa
bình, thống nhất, độc lập, tự do nếu
có chăng cũng chỉ là những điều
kiện tiền đề chứ không bao giờ
là mục đích của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Chính vì lẽ đó, ngay sau 30
tháng 4 năm 75, để xác định vai
trò lãnh đạo của Đảng, những
bài hát mới với những câu đầy
đe dọa như "Tiến về Sài Gòn ta
quét sạch giặc thù ..", "Đập tan
mọi xích xiềng .." hay những bài
hát như "Bác đang cùng chúng
cháu hành quân ..", "Như có
Bác trong ngày vui đại thắng",
"Trường Sơn đông-Trường Sơn
tây", "Hồ Chí Minh đẹp nhất
tên Người" v.v… được phát
không chỉ trên đài phát thanh mà
còn đến tận các hang cùng ngõ hẻm,
trong lúc những nhạc phẩm nói lên khao
khát hòa bình thật sự nhưng không nằm
trong chủ trương của Đảng đều
đã bị loại bỏ ra khỏi các sinh hoạt
văn nghệ.
Mà cho dù không bị ngăn cấm hay loại
bỏ đi nữa, những câu hát sinh viên
"Rồi hòa bình sẽ đến, đến
cho dân tộc Việt, đôi bồ câu trắng
rủ nhau về làng xưa .." của Nguyễn Tuấn
Kiệt có cất lên cũng tức khắc trở
thành lạc lõng nếu không muốn nói
đó là những lời mỉa mai cay đắng
trước thực tế đất nước đang
chìm đắm trong hận thù tang tóc.
Hòa bình đã đến nhưng con bồ
câu trắng không về làng xưa mà chết
đói trên vùng kinh tế mới, giữa biển
cả mênh mông, trong rừng sâu nước
độc, trên hàng rào kẽm gai chung quanh
các trại tù Suối Máu, Hàm Tân,
Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Thanh Hóa.
Với người dân Sài Gòn, nỗi
lo khi nghe tiếng đại pháo 130 ly của Liên
Xô bắn vào thành phố và nỗi sợ
khi nghe tiếng xích xe tăng T54 lăn bánh qua cầu
Tân Thuận có thể không khác gì nỗi
lo, nỗi sợ của ông bà họ trong ngày
thực dân Pháp đánh vào thành Kỳ
Hòa 115 năm về trước.
Một số người cho rằng việc gọi
ngày 30 tháng 4 là ngày quốc hận,
ngày mất nước, mất quê hương hay so
sánh ngày mất Sài Gòn năm 1975 với
ngày Sài Gòn thất thủ năm 1861 là
biểu hiện của thái độ cực đoan.
Thật ra, nếu nhìn lịch sử theo điều
kiện và hoàn cảnh chính trị xã hội
của từng giai đoạn, việc gọi ngày 30
tháng 4 năm 1975 là ngày mất nước
không hẳn là không có cơ sở. Thế
nào là một đất nước
? Đất nước phải chăng là tổng
hợp, từ lãnh thổ đến tài
nguyên, từ văn hóa đến lịch sử,
từ chủ quyền quốc gia đến hạnh
phúc của mỗi người dân, nói
tóm lại, nếu đất nước bao gồm mọi
giá trị vật chất và tinh thần của một
dân tộc, rồi ngày 30 tháng 4 năm 1975
đúng là ngày mất nước, không
chỉ mất miền Nam thôi mà mất cả Việt
Nam.
Một ví dụ. Những năm sau 1975,
ngày sinh nhật Karl Marx 5 tháng 5 là ngày lễ
lớn. Từ sáng đến tối không biết
bao nhiêu chương trình, bao nhiêu buổi
mít-tinh để tưởng nhớ đến
người được Đảng ca ngợi như một
vĩ nhân đã chỉ
đường cho nhân loại bước ra khỏi
những nhọc nhằn tăm tối của cảnh
người bóc lột người để hướng
đến xã hội cộng sản khoa học. Tiểu
sử của Marx được đọc trên
đài phát thanh, đài truyền hình, học
tập tại mỗi tổ dân phố, hàng triệu
học sinh Việt Nam từ cấp một đến
đại học phải học thuộc lòng tiểu
sử Marx, thế nhưng, bao nhiêu học sinh Việt
Nam nói riêng và người dân Việt Nam
nói chung biết rằng trước đó
vài tuần lễ thôi, một ngày vô
cùng trọng đại đối với dân tộc
Việt Nam đã lặng lẽ trôi qua gần
như trong quên lãng: ngày mùng 10 tháng
3 Âm lịch Giỗ Tổ Hùng Vương. Câu
tục ngữ Việt Nam mà ai cũng biết, cây
có cội nước có nguồn, nhưng nguồn
Việt Nam ở đâu và cội Việt Nam sẽ
mục nát ra sao trong một nền giáo dục
nô lệ và vong bản như thế. Một
dân tộc đi xa dần với nguồn cội, nếu
không đáng gọi là mất nước
thì còn gì quan trọng hơn để mất
chứ nhỉ ?
Sự sụp đổ của hệ thống cộng
sản trên phạm vi thế giới đã
ít nhiều đã ảnh hưởng đến
Việt Nam, các nhạc phẩm sinh viên một thời
xếp xó được đem ra hát lại, bản
nhạc "Tình ca" của Hoàng Việt
được nhiều ca sĩ đua nhau hát, đời
sống của người dân ít nhiều thay
đổi, nhưng về căn bản, hơn ba
mươi năm qua khát vọng hòa bình, thống
nhất, độc lập, tự do của dân tộc
vẫn còn là khát vọng. Tiếng súng
đã vắng đi trên đất nước,
non sông liền một dải nhưng người
dân vẫn sống trong nỗi bất an lo sợ,
lòng người hai miền Nam Bắc còn ngăn
cách xa hơn cả trong thời chiến, hàng
trăm ngàn người con gái Việt phải rời
bỏ quê hương đi ăn mày, làm
điếm, ở đợ khắp thế giới,
Hoàng Sa và phần lớn Trường Sa còn
trong tay giặc, phần lớn trong số hơn hai triệu
người Việt hải ngoại vẫn còn bị
xem là thành phần phản động bám
theo chân đế quốc, và trong nước, những
quyền tối thiểu như ngôn luận, đi lại,
thờ phụng của người dân vẫn chưa
có được.
Việt Nam thiếu quá nhiều thứ, cần
quá nhiều thứ, nhưng một thứ mà tuổi
trẻ đang thiếu, đang cần không phải
là lãnh tụ, không phải là súng
đạn, không phải là kiến thức,
mà là những bài ca của khát vọng
hòa bình, thống nhất, độc lập, tự
do vẫn chưa thành sự thật.
Không ai ngăn nổi lời ca, lời
ca lúc ban đầu, người tình thương
mến nhau
Lời tôi ca bên lửa ấm của
con tim biết yêu nồng
Sưởi cho nhau cơn giá lạnh
ngày Đông.
Không ai ngăn nổi lời ca, vâng, hãy
hát lên hỡi tuổi trẻ Việt Nam như một
lần La Hữu Vang và bạn bè anh đã
hát trong sân trường đại học.
TRẦN TRUNG ĐẠO
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)