KHÁM NGHIỆM MỘT "HỒN
MA"
[Trần Trung Đạo, Sep 10, 2006]
- Giới lãnh đạo đảng cộng sản
có thể không tin có ma nhưng có biệt
tài tạo ra ma, ma thật, ma giấy, ma anh hùng,
ma phản động, ma Trường Sơn, ma Côn
Đảo, ma theo nghĩa đen và ma theo nghĩa
bóng, ma trong chiến tranh và ma của thời
bình. Cửa hàng tổng hợp của đảng
trưng bày đủ loại ma, đủ kiểu ma.
Lịch sử loài người cho đến nay,
chưa có một đảng chính trị nào
tạo ra được nhiều ma hơn đảng cộng
sản. Đừng nói chi xa xôi, chỉ riêng
lãnh tụ cộng sản Pol Pot, một thời
là đàn em thân thiết của Hà Nội,
sau khi nắm quyền đã biến gần một nửa
nước ra ma. Riêng tại Việt Nam, tài
năng của giới lãnh đạo Đảng
không chỉ dừng lại ở chỗ tạo ra ma
mà còn làm cho cả nước, từ một
em học sinh trung học (ngoại trừ em Nguyễn Phi
Thanh) cho đến nhà trí thức học nhiều
hiểu rộng, từ các cô gái ở Trại
Phục hồi Nhân phẩm Thủ Đức cho đến
các ông bà đại biểu Quốc hội,
đều sợ ma.
Trong tất cả con ma mà Đảng vẽ ra,
hung dữ nhất, tội lỗi nhất, đáng
ghê tởm nhất và đe doạ đến
"độc lập, tự do, hạnh phúc" của
dân tộc Việt Nam nhất là "ma Việt
Nam Cộng hoà". Trong suốt 31 năm qua, "ma
Việt Nam Cộng hoà" là hiện thân của
mọi thứ tội ác trên đời.
Qua nét vẽ của Đảng, "hồn ma
Việt Nam Cộng hoà" có ba đặc điểm
lớn nhất là "tham nhũng", "trấn
áp" và "ôm chân đế quốc Mỹ".
Trước hết bàn qua về tham nhũng.
Tham nhũng là sâu mọt của xã hội,
dù là xã hội chìm đắm trong chiến
tranh trước 1975 hay chịu đựng trong "độc
lập, tự do, hạnh phúc" sau 1975, dù
là quan chức thuộc chính quyền miền Nam sống
nhờ bằng viện trợ Mỹ ngày xưa hay
cán bộ đảng viên trong thời kỳ độc
tài cộng sản như hiện nay.
Miền Nam
trước 1975 có tham nhũng không ? Chẳng những
có mà còn vô cùng trầm trọng.
Mười lăm năm trước, những
ngày máu trong người tôi còn rất
nóng, giống như một ông đồ trẻ,
mỗi năm đến dịp 30 tháng 4, tôi
thường viết một bài thơ. Bài thơ
năm 1992 là một bài thơ dài, ngôn ngữ
chất đầy những căm giận, hằn học
dành cho những thành phần tham nhũng thối
nát đã từng lãnh đạo miền Nam,
và dĩ nhiên cũng không quên hàng ngũ
lãnh đạo cộng sản độc tài
đang thống trị cả nước sau 1975. Tôi gọi
chung cả hai là những tập đoàn bán
nước.
Đoạn đầu của bài thơ
dành cho giới lãnh đạo tham nhũng miền
Nam,
tôi ghi lại cảnh chen lấn trước cổng
toà đại sứ Mỹ:
.. Khi những chiếc trực thăng
Sắp sửa rời thành phố
Trong đám người bon chen lố nhố
Tôi thấy dường như nhiều con chuột
cống Sài Gòn
Cũng cố kiếm đường đi
Chúng cõng trên mình những chiếc
va-li
Chứa đầy đô-la vàng bạc
Dành dụm từ thời đi buôn gạo
lậu
Giấu diếm từ thời lo bão lụt miền
Trung
Tôi thấy chúng nghiêng mình
Hai gối run run
Trước những anh cảnh binh người Mỹ
Chúng nói gì tôi nghe không kỹ
Chỉ thấy họ lắc đầu
Rồi bước vô trong
Có lẽ lại là chuyện hối lộ
để được đi đông
Ngoài chuyện ấy chúng còn biết
gì hơn nữa
Tôi đứng nhìn qua đôi cánh cửa
Cầu mong cho chúng được đi mau
Những con chuột cống nầy
Gặm nhấm đã lâu
Và bán nước từ khi còn rất
trẻ
Thuở Tây qua chúng đầu quân rất
lẹ
Tây bỏ đi chúng theo Mỹ vì tiền
Những chuyện về chủ nghĩa quốc gia hay
dân tộc thiêng liêng
Chúng đọc biết bao lần nhưng
chưa hề hiểu nghĩa
Tôi đứng nhìn qua đôi cánh cửa
Thầm cầu mong cho chúng được đi
nhanh ..
Ngoài tôi ra, hình như chưa có ai
đọc toàn bài thơ này trước
công chúng. Một phần vì khá dài,
phần khác vì không muốn đụng chạm,
nhưng quan trọng hơn ít người muốn
khơi lại những điều mà họ cho
là tiêu cực đã qua. Bạn bè
có người còn nhắc tôi nên chuẩn
bị vài cái kho để chứa mũ vì
theo họ tôi chỉ trích giới lãnh đạo
tham nhũng miền Nam
còn nặng hơn các nhà thơ cộng sản.
Tôi không quan tâm điều đó. Tôi
đọc bài thơ bất cứ khi nào tôi
có dịp, lần đầu tại Đại học
North Carolina State và sau đó tại những
thành phố, cộng đồng, tổng hội sinh
viên mà tôi đã đến thăm.
Tôi cũng không quên in bài thơ trong tập
thơ đầu tay của tôi, Đổi cả
thiên thu tiếng mẹ cười, xuất bản cuối
năm 1992 ở San Jose,
California. Vẫn biết
quá khứ là một câu chuyện buồn
đáng quên đi nhưng tôi không chủ
trương xấu che tốt khoe. Không thể chỉ
đổ thừa những điêu tàn đổ
nát trong chiến tranh hay sự thất bại của
chính quyền miền Nam cho Mỹ. Từ một
người dân thường đến ông tổng
thống, từ mỗi người lính đến mỗi
ông tướng, nếu biết thành thật với
lương tâm, biết sửa đổi nếu sai lầm,
đất nước sẽ còn có cơ hội
tốt đẹp hơn. Ngạn ngữ Tây
phương có một câu rất hay: "Sự thật là chính
sách tốt nhất".
Tôi đã ngồi ở đó, trong
nhà thờ ở khu Tân Sa Châu trong những
ngày sôi sục của Phong trào Nhân
dân chống Tham nhũng năm 1974 và lắng nghe
các lãnh đạo của phong trào đọc
bản tuyên cáo số 1 mở đầu bằng
câu nói của Mạnh Tử: "Vua coi dân
như chó ngựa thì dân coi vua như thù
nghịch". Sau khi tuyên cáo được đọc
xong, tôi và bạn bè đứng dậy vỗ
tay lớn đến nỗi một vị linh mục
đã phải bước xuống chỗ chúng
tôi nhắc nhở không nên vỗ tay trong
nhà thờ. Ngoài ra, bao nhiêu tội tham nhũng
của những cấp lãnh đạo miền Nam từ
trung ương đến địa phương
được tiết lộ qua các phóng sự
điều tra của báo chí Sài Gòn về
các tệ nạn buôn gạo, bán tôn,
lính ma, lính kiểng, con ông cháu cha,
đã làm tôi ghê tởm.
Tôi đã sống ở đó, trong giờ
phút hấp hối của Sài Gòn, đứng
nhìn cảnh các ông quan lớn của chế
độ chen lấn nhau vào cửa toà đại
sứ Mỹ, cảnh những chiếc trực thăng lần
lượt rời thành phố bỏ lại sau
lưng bao nhiêu đồng đội, anh em, những
người mà 24 giờ trước đó họ
đã thề nguyền sống chết. Tôi
đã chứng kiến buổi sáng ngày 29
tháng 4, bên này cầu Tân Thuận,
góc Ngã Tư Bảy Hiền, những người
lính dù, biệt động quân với
viên đạn cuối cùng trong nòng súng
vẫn cố gắng giữ những gì còn giữ
được mà không biết rằng trong giờ
phút đó cựu Phó Tổng thống của
họ đang nhâm nhi lon bia lạnh trên chiến hạm
Hoa Kỳ. Tôi đã đứng ở lan can
nhà nhìn đêm tự do cuối cùng của
thành phố thân yêu, xa xa vẫn còn
vài chiếc trực thăng nã những tràng
đại liên vào các đơn vị cộng
quân đang thắt chặt vòng vây dọc ven
đô trong lúc các tư lịnh của họ
đang lần lượt an toàn đáp xuống
các phi trường trên đất Thái.
Đó là những thể hiện của
"hồn ma Việt Nam Cộng Hoà" mà bộ
máy tuyên truyền của Đảng Cộng sản
dùng để chỉ chế độ chính trị
tại miền Nam
trước 1975. Từ một học sinh mới bắt
đầu tập đọc cho đến một ông
tiến sĩ, từ các chú "tân cán
binh" đang ngồi trong trường đại học
cho đến các bác "cựu cán binh"
tóc đã bạc màu đều hiểu giống
nhau như thế. Tôi chẳng những không tranh
cãi mà còn góp phần tố cáo tội
trạng của "hồn ma" đó và
làm những gì có thể làm được
để ngăn không cho "hồn ma" đó
sống lại. Nhiều người cho rằng vì thiếu
300 triệu viện trợ đặc biệt nên
chính quyền miền Nam sụp đổ, nhưng với
tôi, cho dù Mỹ có viện trợ thêm 3 tỉ
đô la đi nữa, rồi miền Nam cũng mất
thôi. Miền Nam, với
nhiều nhà lãnh đạo tham nhũng, thiếu
tầm nhìn xa, chỉ biết sống trong xa hoa
trên mồ hôi nước mắt của đồng
bào, trên máu xương của đồng
đội, rơi vào tay cộng sản là một
điều không thể nào tránh khỏi.
Nhưng "hồn ma" đó có phải
là Việt Nam Cộng hoà (VNCH) không ? Cho đến
nay, một số người hoặc vì không
có cơ hội nghiên cứu sinh hoạt chính
trị tại miền Nam, không
phân biệt được sự khác nhau giữa
chính quyền và chế độ
chính trị hoặc
vì nghe riết những lời tuyên truyền của
Đảng đến độ nhập tâm,
đã đồng hoá chính quyền của
các ông Ngô Đình Diệm, Nguyễn
Văn Thiệu, Dương Văn Minh với VNCH.
Khác với tình trạng tham nhũng hiện
nay phát xuất từ trong tim trong máu của chế
độ chính trị tập trung quyền lực, bản
chất và giá trị đích thực của
VNCH không nằm trong các hiện tượng tham nhũng
vừa nêu, không nằm trong tay ông Thiệu,
ông Kỳ, mà nằm trong hiến pháp dân
chủ nhất của vùng Đông Nam Á. Lời
mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch
Quốc hội Lập hiến Phan Khắc Sửu ký
ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt
Nam là một chế độ cộng hoà
"Dân chủ độc lập, thống nhất,
lãnh thổ bất khả phân, chủ quyền thuộc
về toàn dân" phát xuất từ
"Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc,
kế đến lãnh thổ qua phân, độc
tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải
lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối
ý chí tự cường, đồng thời
đón nhận những tư tưởng tiến bộ
để thiết lập một chánh thể cộng
hoà của dân, do dân và vì dân, nhằm
mục đích đoàn kết dân tộc, thống
nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập
Tự do Dân chủ trong công bằng, bác
ái cho các thế hệ hiện tại và mai
sau".
Ngoài phần mở đầu hùng hồn
nêu trên, chuyên chở trong suốt 9
chương và 117 điều của Hiến pháp
1967 là nền tảng của chế độ cộng
hoà, qua đó, quyền lãnh đạo đất
nước như chỉ rõ trong điều 3, do
"Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp phải được phân nhiệm
và phân quyền rõ rệt. Sự hoạt
động của ba cơ quan công quyền phải
được phối hợp và điều hoà
để thực hiện trật tự xã hội
và thịnh vượng chung trên căn bản Tự
do, Dân chủ và Công bằng xã hội".
Hiến pháp 1967 tốt đẹp đến nỗi
ông Lý Quý Chung, trong Hồi ký không
tên, xuất bản tại Sài Gòn trước
ngày ông qua đời, dù chê bai các
chính quyền miền Nam tàn tệ, cũng
không thể nói xấu bộ luật tối
thượng của chế độ cộng hoà
như một diễn đàn để ông ta thực
thi dân chủ: "Quốc hội lập hiến
kéo dài một năm đã cung cấp cho
tôi một môi trường học tập đấu
tranh chính trị tại nghị trường và từ
diễn đàn này, tôi cũng có cơ hội
bày tỏ công khai qua mạng lưới báo
chí Sài Gòn các quan điểm của
mình đối với chính quyền, đối với
các vấn đề dân chủ, chiến tranh, hoà
bình v.v .." Trong suốt 30 năm ở lại
Sài Gòn, với tư cách nhà báo,
không biết ông Chung đã có bao nhiêu
cơ hội để "bày tỏ công khai"
"các vấn đề dân chủ, chiến
tranh, hoà bình" như ông đã
làm thời VNCH ?
Về căn bản, không có nhiều
khác biệt giữa Hiến pháp VNCH 1967 và Hiến
pháp Nam Hàn 1948 được tu chỉnh lần
cuối vào năm 1987. Cả hai hiến pháp đều
dựa trên chế độ cộng hoà, phân
quyền rõ rệt, thích hợp với
đà tiến hoá của văn minh nhân loại.
Dân chủ không phải là món quà của
ông thần tài đem đặt ngay trước cửa
nhà mà là chiếc máy lọc từ
nước đục sang nước trong, từ phong kiến
lạc hậu đến văn minh tiên tiến,
và trong quá trình đó hai quốc gia VNCH
và Nam Hàn, đều đã phải trải
qua những kinh nghiệm máu xương trên con
đường dân chủ hoá đất nước.
Giống như miền Nam Việt Nam, Nam Hàn cũng
có đảo chính, ám sát, độc
tài, quân phiệt, lệ thuộc vào Mỹ,
nhiều sư đoàn quân Mỹ đóng dọc
biên giới, và giống như người
dân Nam Hàn, người dân miền Nam Việt
Nam cũng vừa học dân chủ và vừa tập
sống dân chủ với tất cả những khó
khăn thử thách. Bao nhiêu điều
đáng tiếc đã xảy ra bắt đầu
từ các chính biến 1960, 1963 cho đến
các cuộc đảo chánh, chỉnh lý nhiều
năm sau đó. Mặc dù trải qua một giai
đoạn đầy biến cố cộng với
các chính sách của Mỹ thay đổi
quá nhanh trong một thời gian ngắn, các
giá trị dân chủ vẫn như ngọn hải
đăng giúp giữ con thuyền chính trị miền
Nam không nghiêng đổ, không lạc hướng
cho đến khi các cuộc tổng tấn công dồn
dập của nhiều chục sư đoàn quân
cộng sản với vũ khí vượt trội do
hai đế quốc cộng sản Liên Xô, Trung Quốc
và các nước cộng sản Đông
Âu cung cấp. Và 12 giờ 10 phút, ngày 30
tháng 4 năm 1975, cây dân chủ vừa mới
đâm chồi trổ lá ở miền Nam
đã bị những chiếc tăng T54 xô
ngã.
Cơ hội là điểm khác nhau
chính giữa Nam Hàn và Nam Việt Nam. Nam
Hàn có cơ hội để biến những
ước mơ của dân tộc Triều Tiên
gói ghém trong hiến pháp của họ để
ngày nay là nước giàu mạnh nhất
nhì châu Á. Miền Nam Việt Nam thì
không. Chế độ cộng hoà tại miền
Nam Việt Nam
ra đời và lớn lên trong một hoàn cảnh
chiến tranh tàn khốc, trong đó các
nguyên tắc dân chủ đã trở
thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ
hai lưỡi đó đã đâm vào
thân thể của chế độ cộng hoà
hàng trăm vết thương đau đớn từ
ngày mới ra đời cho đến gục xuống
trong tức tưởi. Hãy hỏi các ông
các bà dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Kiều
Mộng Thu, Phan Xuân Huy v.v. còn đang sống ở
Việt Nam, ai đã ban cho các ông bà
đó quyền bất khả xâm phạm của
dân biểu để xuống đường, để
gián tiếp hoạt động nội thành cho cộng
sản ? Hãy hỏi các "lãnh tụ sinh
viên", các chuyên viên biểu tình
gây rối trong thành phố, ai đã bảo vệ,
che chở cho các anh, các chị dù biết
các anh chị hoạt động dưới sự chỉ
đạo của Thành ủy Sài Gòn Gia Định
? Câu trả lời mà một người có
hiểu biết chính trị căn bản nào cũng
biết, đó là Hiến pháp VNCH. Các
anh chị còn sống sót đến hôm nay cũng
nhờ hiến pháp đó. Đảng Cộng sản
Việt Nam độc diễn và trấn áp
không phải 4 năm như ông Thiệu mà 31
năm liên tục, các anh chị thử ném một
trái bom xăng vào trụ sở Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản xem sao ?
Các cấp lãnh đạo cộng sản
đã triệt để lợi dụng Hiến
pháp VNCH để cài người vào hoạt
động công khai ngay giữa lòng chế độ.
Ngày nay, các tài liệu của Đảng
đều xác nhận hoạt động của
các phong trào chống đối chính quyền
VNCH chẳng phải là tự phát chống bất
công, độc tài, độc diễn gì
mà đều được đặt dưới sự
chỉ đạo trực tiếp của Thành ủy
Sài Gòn Gia Định, như báo Phụ Nữ
ngày 21 tháng 8 vừa qua khoác lác về
các hoạt động thuộc phái nữ của
họ: "Được sự chỉ đạo của
Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài
Gòn-Gia Định và Ban phụ vận Thành ủy,
có sự phối hợp nhịp nhàng với
các tổ chức công khai và bán công
khai của thành phố như các nghiệp
đoàn, Đoàn nữ Phật tử, Tổng hội
sinh viên, Tổng đoàn học sinh .. Hội bảo
vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ
phát triển nhanh chóng, tập hợp rộng
rãi, đông đảo nhiều tầng lớp phụ
nữ, từ giới trung lưu, lôi cuốn cả những
chị em là viên chức trung và cao cấp của
chính quyền Sài Gòn, cả vợ các sĩ
quan cao cấp trong chính quyền Mỹ Thiệu, cả
giới nữ công nhân, tiểu thương .."
Trong cương vị điều hành một
thành phố mà buổi tối thì "Đại
bác đêm đêm dội về .." và
ban ngày thì "Dậy mà đi, ai chiến thắng
không hề chiến bại, ai nên khôn không
khốn một lần .." thì chính quyền phải
làm gì ? Phản ứng tự nhiên của bất
cứ một giới chức nào có trách nhiệm
giữ gìn anh ninh trật tự xã hội là
đem xe cây và vòi rồng đến dẹp.
Không chỉ miền Nam trước đây mà
ngay tại những nước dân chủ lâu
năm như Canada, Mỹ, Anh, Pháp, đốt một
chiếc xe cũng có thể làm cho các anh chị
vào tù dù chiếc xe bị đốt là
xe của anh chị, đừng nói chi là xe của
nhà nước hay xe của người khác. Miền
Nam
có tất cả sắc thái của một
xã hội dân chủ đang từng bước
đi lên. Miền Nam có đàn áp
chính trị nhưng cũng có đấu tranh
chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng
có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt
động công khai, có ông tướng lạm
quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch,
có nghị gà nghị gật nhưng cũng
có những chính khách, dân biểu, nghị
sĩ đối lập chân chính. Nếu trước
1975, vì thiếu cái nhìn về cả hai
bên của cuộc chiến và bức xúc
trước xã hội nhiễu nhương, việc kết
án chính quyền là "trấn áp"
có thể còn thông cảm được, thế
nhưng sau 31 năm sống dưới chế độ
độc tài đảng trị tàn bạo gấp
triệu lần hơn vẫn có kẻ biện minh cho
hành động đốt xe, bắt cóc, ném
bom xăng vào thương xá, ném lựu
đạn vào nhà hàng ăn uống thì
quả thật là vô cảm.
Đặc điểm thứ ba Đảng tuyên
truyền là miền Nam chỉ biết
"ôm chân Mỹ". Tôi đã viết về
vấn đề này nhiều lần. Thật mệt
mỏi nếu lại phải lần nữa đem so sự
lệ thuộc vào Mỹ của chính quyền miền
Nam và sự lệ thuộc vào Liên Xô,
Trung Quốc của Đảng Cộng Sản và cũng
chẳng sướng ích gì khi phải đọc
lại bảng kê khai vũ khí, quân trang,
quân dụng mà hai đế quốc cộng sản
đổ xuống Việt Nam. Cho dù sự lệ thuộc
vào cường quốc là điều không
tránh khỏi trong thế giới phân cực của
thời kỳ Chiến tranh Lạnh vừa qua thì chọn
lựa cường quốc nào sẽ mang lại nhiều
lợi ích cho đất nước hơn ? Lịch sử
đã chứng minh một cách hùng hồn, hầu
hết các nước chọn lựa hay do điều
kiện chính trị thế giới đẩy
đưa, đã đứng về phía tự do
dân chủ như Nhật Bản, Tây Đức,
Nam Hàn, Đài Loan, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ
v.v. đều trở nên các quốc gia ổn
định và phát triển nhờ chính
sách đối ngoại thân Mỹ một
cách khôn khéo, trong lúc các nước
theo chân Liên Xô, Trung Quốc như Bắc Việt,
Cu Ba, Bắc Hàn thì kết quả ra sao không cần
phải phân tích. Không ai từng chống Mỹ
quyết liệt hơn cố tổng thống Anwar Sadat
nhưng để mưu cầu hạnh phúc cho
nhân dân Ai Cập, năm 1976, ông đã bỏ
đồng minh Liên Xô để bước sang
phía thế giới tự do cho dù ông biết
trước sự chọn lựa đó có thể
trả giá bằng nhiều rủi ro như ông
tiên đoán trong diễn văn đọc trước
Quốc hội Israel ngày 20 tháng 11 năm 1967. Một
số người có thể cho rằng Hiến
pháp VNCH cũng do người Mỹ nhúng tay
vào. Dù điều đó đúng
thì đã sao ? Hiến pháp của quốc gia
Nhật Bản hiện đại cũng do bàn tay của
Mỹ nhưng ngày nay tướng McArthur chẳng những
không bị oán ghét mà còn được
nhân dân Nhật xem như là một trong những
người có công lớn trong việc xây dựng
nước Nhật hiện đại. Dân chủ
là một kỳ quan được nhân loại bồi
đắp qua nhiều thời đại chứ không
phải là tài sản riêng của quốc gia
nào. Học hỏi cái hay cái đẹp của
các nước tiên tiến để áp dụng
vào cuộc cách mạng dân tộc và
phát triển đất nước như cụ Phan
Chu Trinh từng thống thiết kêu gào gần
trăm năm trước, luôn luôn là điều
đáng khuyến khích.
Phân tích để thấy, chế độ
cộng hoà tuy không còn hiện diện tại
miền Nam, nhưng các giá trị dân tộc,
nhân bản và khai phóng thể hiện trong Hiến
pháp VNCH vẫn còn đó. Gia tài quý
giá đó chẳng những không rã mục
theo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu,
Dương Văn Minh mà ngày nay đã vượt
ra khỏi biên giới Bắc Nam để trở
thành ước vọng chung cho cả dân tộc.
Nếu ai cho tôi là cường điệu
hãy tạm gác qua bên các định kiến
Bắc Nam, khuynh hướng chính trị, đảng
phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh,
thù hận riêng tư và thậm chí che
luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hoà trên
trang đầu của Hiến pháp mà chỉ
đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung của
Hiến pháp VNCH 1967 thôi, tôi tin người
đọc sẽ công nhận đó chính
là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần
phải đạt đến. Việc lặp lại những
lời tuyên truyền cũ mèm của Đảng
cho rằng chế độ cộng hoà tại miền
Nam là "sản phẩm do chính quyền Mỹ tạo
ra trong Chiến tranh Lạnh" chẳng khác gì
chê lớp rong rêu ngoài vỏ một con trai.
Có người thích viện dẫn tác phẩm
của các nhà phân tích chính trị,
quân sự thế giới bàn về lý do sự
sụp đổ của chính quyền miền Nam; nếu
thế, trong số hàng trăm tác phẩm
đó có tác phẩm nào kết luận
rằng chính quyền miền Nam sụp đổ
vì đã "trấn áp" nhân dân
hơn nhà cầm quyền cộng sản miền Bắc,
hay cộng sản thắng bởi vì nhân dân
miền Bắc được hưởng nhiều quyền
tự do căn bản hơn nhân dân miền Nam
không ?
Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn
chỉnh nhưng là một văn kiện tham khảo
cần thiết để kiến tạo một Việt
Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống
dân chủ khơi mầm tại miền Nam cũng
không chỉ bắt đầu sau khi đất nước
bị chia đôi mà đã có từ
hàng trăm năm trước. Lợi dụng
chính sách Nam kỳ tự trị của thực
dân, các nhà cách mạng tại miền
Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng
phương pháp đấu tranh nghị trường,
tiếp cận các tư tưởng dân chủ
Tây phương, mở mang dân trí làm nền
tảng cho chế độ cộng hoà sau này.
Đó không phải là sản phẩm của
Tây hay Mỹ mà là vốn quý của
dân tộc đã được đổi bằng
mồ hôi nước mắt của nhiều người.
Những ai biết gạt bỏ định kiến Bắc
Nam,
gạt bỏ lòng "căm thù Mỹ Ngụy",
sẽ thấy đó chính là hành trang cần
thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội
công bằng và tốt đẹp hơn cho
các thế hệ mai sau. Tiếc thay, viên ngọc
và viên sỏi khác nhau khi nằm trong tay
người thợ bạc nhưng lại giống nhau khi
nằm trong tay mấy cậu bé bắn chim.
Đó là sự thật không thể chối
cãi. Tôi viết ra không phải để
"chiêu hồi" ai cả. Tôi chỉ là một
người Việt Nam bình thường như nhiều
triệu người Việt khác dù thời gian
tôi sống ở nước ngoài cũng sắp sửa
lâu bằng thời gian ở trong nước.
Đúng ra, "chiêu hồi" là một mặc
cảm không nên có trong những người
soi gương mỗi ngày mà vẫn không thấy
mình lầm lỗi điều gì. Dù sao,
tôi thừa nhận sự tồn tại trong cách
nhìn khác nhau giữa những người tuy
cùng quan tâm đến đất nước, về
một số vấn đề, một số hiện
tượng đang xảy ra tại Việt Nam, và
có thể trong cả những định nghĩa thế
nào là danh dự của một dân tộc
và thế nào là phẩm giá một con
người. Với tôi, giới lãnh đạo
Đảng phải chịu trách nhiệm về sự
sa đoạ đạo đức, lạc hậu
giáo dục, tham nhũng kinh tế, áp bức
chính trị, thế nhưng vẫn có người
cho rằng Đảng sai chỉ vì độc quyền
lãnh đạo nhưng không phải vì thế
mà phải chịu trách nhiệm về các hậu
quả sai lầm do chính sách Đảng đề
ra. Với tôi, câu chuyện vô cùng
thương tâm và hình ảnh của cô
Đoàn Nhật Linh thân thể máu me nằm
loã lồ trên đường phố Đài
Loan là một sỉ nhục dân tộc nhưng
có thể với người khác đó chỉ
là chuyện bình thường như nắng sớm
chiều mưa, chẳng có gì phải ầm ĩ.
Tham nhũng nơi nào cũng có nhưng
khác với các quốc gia dân chủ, tham nhũng
tại Việt Nam có tính đảng và ngày
nào Đảng Cộng sản còn độc quyền
lãnh đạo đất nước thì
ngày đó tham nhũng còn tồn tại.
Câu chuyện Bùi Tiến Dũng là một
trong hàng ngàn biểu hiện của đảng
tính "vừa hồng vừa chuyên" trong tham
nhũng. Bùi Tiến Dũng thuộc tầng lớp
đảng viên trẻ, có bằng cấp đại
học, cựu sĩ quan quân đội nhân
dân, tổng giám đốc một dự án lớn
của nhà nước, nếu không bị xui xẻo
từ chuyện cá độ mà trở thành
"đồng chí bị lộ" thì với
lý lịch đó, con đường vào Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị của anh
ta cũng rộng đâu có thua gì
"đường Bắc Sơn, Đình Cả,
Thái Nguyên" trong thơ Tố Hữu. Từ
trường hợp Bùi Tiến Dũng, chúng ta
có thể suy ra, các lãnh đạo Đảng
đang lớn tiếng hô hào chống tham nhũng
một cách ồn ào hiện nay chẳng qua cũng
chỉ là "các đồng chí chưa bị
lộ" mà thôi.
Tôi viết không phải để
"tuyên truyền" hay trả thù vì
tôi không có kẻ thù, dù thù
cá nhân hay thù tập thể. Tôi viết
không phải với tư cách một người
lính miền Nam vì tôi chưa bao giờ cầm
súng, chưa hề bắn giết ai và chưa sống
một ngày ở Vĩnh Phú, Hàm Tân, An
Điềm, Suối Máu. Tôi viết không phải
để trả nợ vì tôi không nợ ai
ơn nghĩa và cũng không ai thiếu tôi
hình phạt. Tôi viết cũng không phải
để rồi mong trở lại với việc
phân chia Nam Bắc như xưa, không, với
tôi, dân tộc Việt Nam là một thực thể
thống nhất và tất cả các hiệp
định Patrenote, Geneva hay Paris đều là những
chiếc còng của thực dân và đế
quốc áp đặt trên đầu trên cổ
nhân dân Việt Nam.
Tôi tự gán cho mình cái trách
nhiệm phải nói ra những điều mình
nghĩ để may ra các em nhỏ miền Nam sinh ra
sau cuộc chiến, nếu đọc được sẽ
vơi bớt nỗi tủi hổ vì Đảng
đã dạy các em rằng ông nội em,
ông ngoại em, cha em, chú em đã từng
là kẻ giết người cướp của, từng
đi đánh thuê cho đế quốc, từng
làm tay sai cho ngoại bang. Tôi hy vọng sáng
mai đây khi bước ra đường các em sẽ
nhìn người thương phế binh miền Nam đang
lê lết chuỗi ngày tàn trên quê
hương ruồng bỏ bằng cặp mắt khác
hơn. Các em, thay vì bước nhanh như
hôm qua, sẽ ngồi xuống bên cạnh người
lính già miền Nam tàn phế kia và nghe
ông kể lại những chặng đường bi
tráng mà ông và đồng đội
đã trải qua, từ đó các em sẽ
hiểu ra rằng cha chú các em đã sống
và chiến đấu trong cuộc chiến tự vệ
đầy chính nghĩa mà họ không có
chọn lựa nào khác. Các em sẽ lớn
lên trong tự tin và hy vọng thay vì mặc cảm
tội ác ba đời mỗi khi đọc lại lý
lịch mình.
Tôi viết để mong các em nhỏ miền
Bắc sinh ra sau cuộc chiến nếu đọc
được hy vọng các em sẽ biết sự
thật và chân lý không phải chỉ
là những lời Đảng dạy. Đảng
không giúp các em "sáng mắt sáng
lòng" mà làm các em thành những kẻ
mù loà đi lùi giữa nền văn minh
nhân loại mỗi ngày mỗi mới. Trong nền
giáo dục, nói như nhà thơ Lý Đợi,
làm cho các em "biết chữ mà không
biết nghĩa", có thể các em không dễ
dàng tin những điều tôi viết, nhưng
ít ra cho các em thấy một phía khác của
vấn đề để tìm tòi, học hỏi,
so sánh và qua đó các em sẽ thấy mục
tiêu đích thực mà đất nước
Việt Nam cần phải đến là gì. Tuổi
trẻ Việt Nam phải có cơ hội đọc
và hiểu một cách khách quan từ nhiều
phía về bản chất, nguyên nhân của cuộc
chiến Việt Nam. Tôi sẵn sàng lắng nghe
các em phê bình, mắng mỏ, miễn là
những điều em nói phát xuất từ suy
nghĩ của các em chứ không phải sao
chép từ tài liệu học tập của
Đoàn, của Đảng như nhiều người
khác.
Lịch sử để lại cho thế hệ trẻ
Việt Nam một chiếc áo rách và một
cuộn tơ rối để may chiếc áo mới,
nhưng từ cuộn tơ rối vò kia cho đến
khi thành chiếc áo là một quá
trình dài, đòi hỏi ở các em
không chỉ lòng yêu nước, sự
kiên nhẫn mà còn phải có một
tư duy độc lập, khách quan khi đánh
giá những vấn đề thuộc về quá
khứ trên con đường đi đến
tương lai.
TRẦN TRUNG ĐẠO
(Bai Chuyen)