THÂN PHẬN
MỘT LOÀI CHÓ
(Đoàn
Văn Khanh)
Cái việc con chó cũng
được các cụ xếnh xáng con trời xưa lôi
cổ vào góp mặt với các con vật biểu
tượng cho mười hai con giáp trong phép tính âm lịch
th́ chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên, v́ trên quả
đất này chả có dân tộc nào xa lạ với con
chó; và mặc dù các cụ đă đặt cho nó cái tên
chữ là Tuất hẳn hoi, nhưng v́ cái tiếng chó nghe
ra vẫn quen thuộc hơn, cho nên năm Tuất cũng
thường được dân ta gọi một cách nôm na
là năm con chó. Có điều, mỗi khi nói về tuổi
tác của những ai sinh vào năm này th́ dân ta lại hay
tránh gọi họ là tuổi chó mà phải nói là tuổi
Tuất, bằng không th́ sẽ xảy ra lắm chuyện
rắc rối ngay.
Không biết giữa loài
người thuộc các chủng tộc khác nhau trên quả
đất này có những nợ nần ân oán riêng
đối với loài chó hay không mà đối với
những dân tộc từng bị các cụ ta xưa coi là
man di bạch quỷ, hoặc lịch sử lập
quốc của các đám dân ấy chỉ mới tính
bằng vài thế kỷ, th́ chó cũng có quyền sinh
tồn như người, cho nên chó không hề bị
kỳ thị trong sự đối xử, mà c̣n
được coi như là bạn thiết của con
người nên được nuôi nấng, chăm lo,
bảo vệ, có khi c̣n hơn cả con người. Trái
lại, ở những xứ mà người dân luôn mang trong
ḿnh cái truyền thống tự hào có một nền văn
hiến lâu đời như ở xứ ta và xứ Tàu th́
chó lại bị miệt thị và được coi là
biểu tượng cho giới thấp hèn tột cùng trong
xă hội, do đó mà thân phận con chó ở xứ ta hay
xứ Tàu quả là bi đát và thê thảm. Câu tục
ngữ: "Lên voi xuống chó" của ta
đủ chứng minh cho điều đó.
Dĩ nhiên loài chó cũng
giống như bao loài gia súc khác, trước khi chịu
ngoan ngoăn sống chung với con người dưới
một mái nhà th́ tổ tiên lâu đời của chúng
cũng đă từng có một thời sống tự do
ngang dọc trong thiên nhiên. Nhưng kể từ khi một
số tổ tiên của chúng bị sa cơ vướng
bẫy của loài người mà bị bắt, rồi
được loài người dùng roi vọt, gậy
gộc giáo dục cải tạo cho đến khi chịu
chấp nhận sống chung ḥa b́nh với loài người
th́ những thế hệ con cháu của chúng trở về
sau được gọi là chó nhà, nhằm phân biệt
với những loài chó vẫn c̣n giữ nguyên bản
chất trời sinh và tiếp tục sống cuộc
đời hoang dă như loài lang, loài sói, được
gọi chung là chó rừng, phải di tản về những
nơi rừng sâu núi thẳm để tránh xa xă hội loài
người.
Mặc dù gọi chung là chó nhà,
nhưng v́ tổ tiên của chúng lại do nhiều cội
nguồn khác nhau và được tổ tiên loài
người ở những vùng địa lư xa cách nhau
dẫn về cưu mang đầu tiên mà chó nhà cũng có
nhiều giống: từ những giống nhỏ bằng
con mèo con, trông có vẻ hiền lành xinh xắn như con búp
bê, cho tới những giống to bằng con cọp và
dữ như sư tử, đều được
người ta nuôi tùy theo sở thích hoặc mục đích
riêng của ḿnh.
Dân ta cũng thích nuôi chó,
nhưng giống chó mà dân ta quen nuôi từ lâu th́ nhỏ thó
và thường được gọi là chó ta, hầu phân
biệt với các giống chó thường được
gọi là chó Tây, chó bẹc-giê .., chỉ mới
được du nhập về sau này và chỉ có một
số người khá giả nào đó có nhu cầu hay
điều kiện mới dám nuôi chứ không phổ
cập trong toàn dân. Ngoài ra, cũng từ khi có thêm mấy
giống chó ngoại lai này th́ dân ta mới có một số
người bắt chước Tây dùng những cái tên
như Tô tô, Ki ki .. để gọi chó cho dễ nghe
hơn, c̣n trước kia hầu như dân ta chỉ
cần nh́n vào sắc lông của chó mà phân biệt như:
vện, vàng, đốm, bông, khoang, mực, vá v.v.. và khi
cần gọi th́ chỉ việc chu mỏ, chậc
lưỡi "ô ô .. xuỵt xuỵt .." là cũng
đủ cho chó hiểu và tuân theo rồi.
Về h́nh dáng, bộ lông và màu
sắc, đầu cổ dài hay ngắn th́ tuy có khác nhau tùy
theo giống chó, c̣n nh́n chung th́ chó ta hay chó Tây, chó bẹc-giê
hay chó ǵ đi nữa th́ cũng đều thuộc loài
động vật đi đứng bằng bốn chân
giống như ḅ, dê, heo,
ngựa v.v.., nhưng loài chó có khác hơn mấy loài vật
kia v́ chó c̣n biết ngồi chứ không phải chỉ
biết đứng và nằm. Có điều chó chỉ có
thể ngồi theo kiểu chồm hổm, hai chân sau
gập lại c̣n hai chân trước chống thẳng
đỡ lấy phần trước của thân thể
để cho đầu và cổ nghển cao lên, khiến
cho chó ngồi lại cao hơn chó đứng. Tuy thế,
cái bộ dạng mấy con chó ta khi ngồi dưới
đất nghển cổ lên nh́n chủ đang ăn trên
mâm th́ trông lại vô cùng thiểu năo, v́ thế mà dân ta
mới hay dùng câu "chó ngồi chực xương"
để xỏ xiên những kẻ hay chầu ŕa mấy
người đang có quyền có thế ḥng xin chút ân
huệ. Ngoài ra, cũng v́ cái kiểu ngồi độc
đáo đó mà khi cơ may đưa đến cho "chó
nhảy lên mâm đồng" hay "chó ngồi bàn
độc" đi nữa, chân tướng chó vẫn
không bao giờ dấu được.
Kể ra mặt chó đâu
đến nỗi xấu xí và nhăn nhó như mặt
khỉ, ngoại trừ cái mơm dù là thuộc giống nào
đi nữa th́ cũng đều có màu thâm đen, khiến
cho dân ta có lẽ thường xuyên bị ám ảnh về
những h́nh ảnh tăm tối của cuộc
đời nên mới đem cái phần u uẩn và sâu kín
nhất nơi con người ra mà so sánh với cái mơm chó
như trong mấy câu ca dao rất gợi h́nh sau đây:
Sáng trăng
suông em ngỡ tối trời
Em ngồi em
để cái sự đời em ra
Sự
đời bằng chiếc lá đa
Đen
như mơm chó, chém cha sự đời.
Mặc dù mơm chó đen,
nhưng bộ vó của chó cũng nhanh và khoẻ không kém ǵ
ngựa, cho nên những dân tộc sống ở các vùng mà
mặt đất quanh năm chỉ có băng giá phủ
đầy, thường dùng chó để kéo xe
trượt băng, một phương tiện di
chuyển ở những nơi không có đường sá.
Những dân tộc vốn quen sống về nghề
chăn nuôi hoặc săn bắn th́ chó được nuôi
và huấn luyện để chăn cừu, hoặc giúp
các tay thợ săn truy lùng các con mồi mang về nộp
cho chủ. Tuy nhiên cũng có một số người không
phân biệt quốc tịch nhưng có chung máu mê cờ
bạc, th́ lại xoay ra khai thác cái khả năng chạy
của chó để biến thành một tṛ chơi cá
độ qua h́nh thức đua chó, một môn đua
cũng giống như đua ngựa nhưng có lẽ v́
không quy mô và hấp dẫn bằng đua ngựa nên không
được thịnh hành lắm.
Chó không thể dùng tứ chi
để leo trèo như mèo, v́ vậy mà khi các cụ ta
chưa biết xài tủ lạnh th́ mỗi khi cần
để dành đồ ăn, chỉ cần áp dụng cái
phương pháp: "chó treo, mèo đậy", có
nghĩa là treo đồ ăn lên cao để chó không
thể nào chồm tới. Ngoài ra chó cũng không thể
xử dụng hai chân trước làm tay để nắm
bắt vật này vật nọ như khỉ, nhưng
nhờ mồm của chó rất dài và rộng với
bộ quai hàm rất khoẻ nên chó cũng có thể
ngoạm bằng mồm rồi tha đi, thay cho bưng bê,
coi như cũng là một cách dùng "mồm miệng
đỡ chân tay" theo kiểu của chó.
Có một điều lạ là
chó và mèo đều sống chung với chủ dưới
một mái nhà, tuy vậy, hai con vật này lại tỏ ra
không bao giờ ḥa thuận với nhau, cho nên dân ta mới
bảo "gấu ó như chó với mèo", và khi hai
con vật này có làm ǵ lầm lỗi với người th́
dân ta vẫn thích bênh mèo hơn và lôi chó ra mà trừng
phạt như câu tục ngữ: "mèo già ăn
vụng, chó vá phải đ̣n". Nhưng ngược
lại, không biết có phải v́ các cụ ta luôn luôn bị
cái nghèo truyền kiếp ám ảnh hay không mà khi nghe mèo kêu
"ngoeo ngoeo" th́ các cụ liền liên tưởng
đến cái "nghèo" nên ngao ngán, c̣n chó sủa "gâu
gâu" nghe như
"giàu" làm cho các cụ tưởng chừng
như đời sắp
sửa được lên hương vậy, cho nên các
cụ cũng đâm ra mê tín: "mèo đến nhà th́ khó,
chó đến nhà th́ sang".
Phải nói là chó nổi danh
nhờ cái mồm v́ ngoài cái việc dùng mồm để
ăn uống, chó c̣n biết dùng mồm sủa oang oang
nhằm áp đảo tinh thần đối phương,
và dùng mồm làm phương tiện tấn công hay tự
vệ như câu tục ngữ: "mồm chó vó
ngựa", v́ chó chỉ biết cắn chứ không
biết đấm đá. Với hai hàm răng nhơn
nhởn có bốn cái răng nanh dài và nhọn, chó có thể
cắn xé đối thủ ra thành từng mảnh. Chính v́
thế mà trong những cuộc ẩu đả, nếu có
một kẻ nào đó bất thần xuất độc
chiêu dùng miệng cắn địch thủ như mấy
bà đánh ghen đôi khi vẫn áp dụng th́ người ta
gọi đó là môn vơ chó, hay là ngón cẩu quyền cho ra
vẻ ngôn từ con nhà vơ hơn.
Chó rất hay sủa. Mỗi
khi nghe tiếng động hay thấy có điều ǵ khác
lạ bất thường xảy ra quanh ḿnh là chó cất
tiếng sủa oang oang cho nên ca dao mới có câu:
Chó nào chó
sủa lỗ không
Chẳng
thằng ăn trộm th́ ông ăn mày
Thường th́ "chó
sủa chó không cắn" như câu tục ngữ
đă nói, hoặc ngạn ngữ Tây phương cũng có
câu: "Chó sủa mặc chó, đoàn lữ hành cứ
đi", ngoại trừ có vài con chó thuộc loại
ĺ lợm mới không thèm sủa mà chỉ th́nh ĺnh nhảy
xổ ra táp cho một vố th́ mới thật hết
đường đỡ.
Cái lư do chó hay sủa trước khi nhào vào cắn là
tại v́ chó cũng rất sợ người, cho nên chó
cần phải dựa hơi chủ mới dám thị oai
như câu tục ngữ : "Gà cậy gần
chuồng, chó cậy gần nhà". Chó chỉ hách x́
xằng đối với kẻ yếu bóng vía, c̣n gặp
người sang hay mấy tay sừng sỏ thứ
thiệt th́ chó chỉ biết cụp đuôi chạy. Riêng đối
với chủ th́ chó luôn luôn sợ hăi một phép v́ nếu
không có chủ nuôi th́ chó nhà sẽ trở thành chó hoang ngay,
tối ngày lang thang, lấm la lấm lét, và bị coi là chó
đói, chó ghẻ. C̣n người mà sợ chó chẳng qua
v́ ngán chủ của chó chứ không phải chó, cho nên
tục ngữ cũng có câu "Đánh chó kiêng mặt
chủ nhà".
Khi ra đường chó có thói
quen hay dừng lại chỗ này chỗ nọ hửi hửi,
rồi đái lắt nhắt vào đó vài giọt như
để đánh dấu chỗ cần ghi nhớ. Cái lư do
tại sao chó lại phải ghếch một chân sau lên
mới đái được th́ tôi không rơ, nhưng ở
đời cũng có lắm kẻ h́nh như không bao
giờ nghĩ ra được chuyện ǵ hay hơn
để làm nên chỉ biết xun xoe vào việc của
người khác để làm những chuyện rất
thừa thăi nên người ta mới bảo là người
ấy chỉ "cầm cu cho chó đái".
Nhờ khứu giác của chó
rất nhạy nên chó có thể đánh hơi và phân biệt
mùi một cách rất chính xác cho nên ngành Cảnh sát hay Quân đội,
người ta thường dùng chó để khám phá hàng
quốc cấm, săn đuổi kẻ tội phạm,
truy lùng địch quân, v.v.. Loại chó được
huấn luyện để làm những công tác như
thế này được gọi là cảnh khuyển hay
quân khuyển, được nuôi nấng cẩn thận và
có người hầu hạ chu đáo. Không những
thế, những con chó này c̣n được mang cấp
bậc, hưởng lương theo tiêu chuẩn quân nhân, và
mỗi khi lập được kỳ công th́ cũng được
tưởng thưởng huy chương, đeo tọng teng
nơi cổ cho người biết danh, chỉ khác
người ở chỗ chó không được đóng lên
ḿnh bộ quân phục, ngay cả khi được dẫn
đi trong hàng quân diễn hành trước khán đài vào
những dịp lễ trọng đại.
Ngoài ra, cũng giống như
hầu hết các loài thú khác, chó cũng có đuôi, có
điều cái đuôi chó đóng vai tṛ ǵ trong việc
kiện toàn cấu trúc về mặt cơ thể học
và thẩm mỹ học th́ tôi không rơ, nhưng đứng
trên b́nh diện tâm lư học mà nhận xét th́ cái đuôi chó
có thể coi như một cơ phận bên ngoài để
chó bộc lộ cái nội tâm của ḿnh, cho nên chỉ
cần nh́n cái đuôi của chó là biết ngay nỗi
niềm của chó. Chẳng hạn khi tỏ vẻ vui
mừng hay muốn ve văn ǵ đó th́ cái đuôi vẫy
vẫy, khi sừng sộ ra oai th́ đuôi vểnh lên
trời, c̣n khi cảm thấy lo âu sợ sệt th́ cái
đuôi lại cụp xuống trông thật thảm
hại.
Chó cũng đẻ con
nhưng chó con lúc mới lọt ḷng mẹ hăy c̣n mù v́ hai mi
mắt bị khép chặt vào nhau. Phải ba tuần sau th́
chó con mới bắt đầu có thể mở mi mắt
ra để nh́n thấy thế giới quanh ḿnh và cũng
là để nh́n cái kiếp chó của ḿnh trong cuộc
đời này. Để bảo vệ con ḿnh trong thời
gian c̣n non nớt mù ḷa này, chó mẹ thường tỏ ra
rất dữ mỗi khi có người hay vật lạ
đến gần ổ con ḿnh cho nên thành ngữ mới có
câu: "dữ như chó cái mới đẻ".
Vào mùa nóng bức, chó có thể
bị mắc bệnh dại. Bệnh do một loại
siêu vi khuẩn có khả năng phá hủy hệ thần
kinh của chó gây ra. Khi bệnh đă biểu hiện ra bên
ngoài th́ chó bắt đầu trở thành điên cuồng,
bạ ai cũng cắn, ngay cả chủ của ḿnh, và sau
đó là lăn đùng ra chết. Người bị chó
dại cắn cũng sẽ lây nhiễm loại vi
khuẩn dại này mà trở nên điên cuồng, sùi bọt
mồm bọt mép rồi chết như chó nếu không
được chủng ngừa kịp thời. Ngày xưa
người ta rất sợ chứng bệnh này, nhưng
kể từ khi có ông Tây Bát Tờ (Pasteur) khám phá ra loại
thuốc chủng ngừa để hóa giải sự hoành
hành của loại vi khuẩn này th́ loài người
mới không c̣n sợ hăi như trước.
Vào cái thủa xa xưa
phải vất vả tự mưu sinh trong thiên nhiên th́ có
lẽ chó chỉ biết ăn thịt, cho nên chó rất
thích gặm xương, nhưng từ khi được
loài người nuôi cho ăn th́ chó đành phải chịu
cảnh chủ cho ǵ ăn nấy. Ở các xứ mà dân
chúng đă từ lâu quen thuộc với các loại thực
phẩm đóng hộp th́ để phục vụ cho chó có
miếng ăn ngon, người ta cũng đă phải phát
triển luôn cả ngành chế biến thực phẩm
đóng hộp dành cho chó. C̣n như ở xứ ta hay xứ
Tàu, nơi mà đa số người dân chỉ quen "ăn
bữa nào xào bữa nấy" th́ hầu như chó
chỉ c̣n trông cậy hoàn toàn vào sự độ
lượng của chủ. Gặp chủ khá giả th́ chó
c̣n được hưởng vài mẩu xương thừa
đă bị chủ gặm nhẵn hết thịt. C̣n
như rơi vào tay chủ nhà nghèo hay keo kiệt biết
vắt chày ra nước th́ chó chỉ có nước ăn
cứt, v́ ngoài cái mục đích nuôi chó để giữ
nhà (chứ không phải như nuôi khỉ chỉ tổ ḍm
nhà), dân ta c̣n có tài dạy cho chó kiêm luôn cái việc dọn
vệ sinh cho con nít. Việc này mới đầu có lẽ chỉ dành riêng cho chó,
tuy nhiên nhiều khi không có chó, dân ta bèn ép luôn cả mèo làm
thay như câu tục ngữ: "Không có chó bắt mèo
ăn cứt".
Tôi tin chắc rằng bẩm
sinh chó ta cũng không hề biết ăn cái món bă từ
bộ máy tiêu hóa của con người thải ra này,
nhưng qua sự giáo dục cải tạo của con
người, chó đành phải chấp nhận để
sống. C̣n dân ta th́ có lẽ v́ biết áp dụng cái
định luật phản xạ có điều kiện
này từ hàng ngàn năm xưa, trước khi nhà tâm lư
học Bá Lốp (Pavlov) người Nga khám phá ra, nên cứ
tưởng chừng như đó là bản chất của
loài chó, để rồi tin rằng chó th́ không bao giờ
chê cứt cũng như mèo th́ khoái mỡ. Chẳng thế
mà trong ca dao trữ t́nh
cũng có những câu ví von rất hiện thực:
Em như
cục cứt trôi sông
Anh như con
chó ngồi trông trên bờ.
Cái lư do khiến cho chó bị
buộc phải ăn cứt nghe ra cũng rất ngộ
nghĩnh. Số là các cụ xưa đă dựa vào nền
luân lư của thánh hiền đặt ra cho con người
để phê phán loài chó, cho nên khi nh́n thấy loài chó cứ
nhởn nhơ làm t́nh bừa băi ngoài đường ngoài sá
rất mất thuần phong mỹ tục, lại c̣n không
biết phân biệt liên hệ huyết thống, rất
trái với luân thường đạo lư, cho nên các cụ
mới kết tội chó là loài vô đạo
đức. Từ cái bản
án bất thành văn nhưng lại vô cùng hiệu lực
ấy khiến cho chó không những bị khinh bỉ mà c̣n
bị trừng phạt cho xứng tội.
Ngày xưa ở bên Tàu
người ta không cho phép chó ra vào bằng cổng thành chung
với người mà bắt chó phải chui qua cái lỗ
nhỏ khoét ở chân tường. Từ đó mà có thành
ngữ "chui lỗ chó" để tỏ ư khinh
bỉ những kẻ phải luồn lọt mới
được ra vào một nơi nào đó, hoặc
để chỉ mấy tay chuyên làm nghề đào
tường khoét vách để ăn trộm. Cũng v́ chó
bị liêt vào hàng đê tiện mà các cụ bảo "chơi
với chó, chó liếm mặt" th́ c̣n ǵ là sĩ
diện con người. Các cụ
c̣n dùng những cụm từ như: đồ chó má,
cái quân chó đẻ v.v .. để mắng chửi kẻ
khác khi coi kẻ đó không c̣n là đồng đẳng
với ḿnh nữa. Trường hợp bị người
khác coi ḿnh như chó mà không làm sao trả miếng lại
ngay trong cuộc đời này th́ xoay ra nguyền rủa cho
kẻ đó kiếp sau phải đầu thai làm con chó
để cho ḿnh có cơ hội đày đọa lại.
Không những thế, ngay cả ma quỷ cũng
được các cụ gán cho cái tính chê chó, cho nên
người hiếm muộn hay sinh con mà khó nuôi,
thường kiêng gọi con ḿnh bằng cái tên đẹp
đẽ mà chỉ gọi bằng cái từ xấu xí
như "thằng chó con" để cho ma quỷ
không thèm để ư ŕnh bắt.
Chính v́ chó là con vật bị
bạc đăi như thế đó mà thời các bậc ông
cha ta mới bị nhà nước bảo hộ Phú lăng sa
bắt phải "vứt bút lông đi, giắt bút
ch́" làm nảy sinh một lớp người bắt
đầu học theo cách kiếm sống bằng nghề
viết văn, làm báo bằng chữ quốc ngữ,
nhưng khổ nỗi cái món văn chương chữ
nghĩa ở nước ta theo lời cụ Tản Đà
th́ lúc nào cũng rẻ như bèo cho nên đa số nhà
văn nhà báo đều đói rách khiến cho Nguyễn
Vỹ, một nhà văn kiêm nhà báo thời tiền
chiến, một hôm nhân lúc rượu đă ngà ngà, bèn phán
cho cụ Tản Đà nghe một câu thật bất hủ
đến nỗi được ghi ngay vào văn học
sử nước ta: "Nhà văn An nam khổ hơn
chó".
Phải nói là con chó ở
xứ ta không những bị đày đọa khi c̣n
sống mà ngay cả khi chết cũng rắc rối.
Số là dân ta có thói quen thấy con ǵ nhúc nhích đều cho
là hẩu xực được cả, cho nên những con
vật trót được ưu ái liệt vào hàng gia súc cung
cấp thịt cho người như trâu, ḅ, dê, lợn,gà
.. th́ cứ thản nhiên mà hưởng ánh mặt trời
chờ ngày được chủ đem ra thọc
huyết:
Con gà cục
tác lá chanh
Con lợn
ủn ỉn mua hành cho tôi ..
Trái lại, con chó từ khi
được loài người đem về nuôi và
được cải tạo để trở thành chó nhà
th́ lại trót tỏ ra rất được việc và có
nghĩa với chủ nên được chủ khoan
hồng không kê tên vào bản án những con vật bị
xẻ thịt. Chính v́ thế mà chó mới phải có màn khóc
lóc năn nỉ:
Con chó khóc
đứng khóc ngồi,
Mẹ ơi
đi chợ mua tôi đồng riềng.
Dĩ
nhiên không phải là con chó khóc lóc năn nỉ xin
người mua cho đồng riềng để nó
ngậm cho đỡ thúi mồm khi phải ăn cứt,
mà là để cho người gia vị vào thịt của nó
cho át đi cái mùi chó khi biến chế thành món ăn, v́
thịt chó chỉ được một số đại
ca thuộc các dân tộc có chung một nền văn
hiến lâu đời vốn không bao giờ dám phí của
trời mới biết dùng đến thôi. Có điều v́
trót bắt chó phải ăn cứt cho nên khi làm thịt chó,
người ta thường gọi trại ra là thịt
"cầy" hay c̣n gọi là "nai đồng quê"
để nghe cho có vẻ thơm ra. Một vài đại
ca có gốc "Háng rộng" c̣n dùng hai chữ
"mộc tồn" để gọi, cho nên khi muốn
cho người "chậm tiêu" cũng hiểu cần
phải diễn nôm dài gịng ra là "mộc tồn"
tức là "cây c̣n", nói lái lại là thành ra "con
cầy" vậy.
Kể ra th́ có nhiều
người nghe nói đến thịt chó là tự nhiên
muốn ói, nhưng quư vị nào đă từng nếm qua mà
không bị cơn dị ứng của bao tử hành hạ
th́ đều quay ra ca tụng thịt chó vừa thơm vừa
lành, v́ các vị ấy bảo khi nhai nuốt xong miếng
thịt chó mà lỡ c̣n chút sớ nào dính sót lại trong
kẹt răng, ba ngày sau xỉa ra vẫn không nghe mùi thúi
như các loại thịt khác. Riêng mấy tay hảo hán bên
Tàu th́ c̣n siêu đến độ gọi hẳn món
thịt chó là "hương nhục", có nghĩa là
thịt thơm. C̣n ở xứ ta th́ những món như
tiết canh chó, dồi chó, rựa mận v.v .. xưa nay
vẫn được dân ái mộ sắp vào hàng quốc
túy, và có kẻ c̣n oang oang tuyên bố: "sống ở
dương gian ăn miếng dồi chó" như là
cứu cánh của cuộc đời. Có một
điều là h́nh như xưa nay vẫn chưa có ai dám
dùng thịt chó để cúng kiếng cả.
Thịt chó ngon phải là chó
c̣n trong trắng chưa nếm mùi đời, cho nên dân
mộ điệu mới đặt cho cái tên là cầy
tơ. Từ đó đẻ thêm ra cái tiếng lóng
"cờ tây" và câu chuyện vui thời Việt Minh
kháng chiến. Nhằm bảo vệ bí mật cho mấy
ngài cán bộ, mấy ông du kích ban đêm đi ŕnh ṃ mà không
bị nhân dân phát giác v́ tiếng chó sủa nên nhà
nước ta bèn cho mở ra chiến dịch giết chó,
thế là các ông du kích có thêm công tác và tha hồ rủ nhau
lập thành tích "hạ cờ tây", tức là đi
lùng bắt mấy con cầy tơ về làm thịt,
vừa no nê ấm bụng vừa khoẻ tấm thân,
chứ không phải phơi xương đổ máu như
những anh chàng bộ đội xung phong đánh
đồn.
Ngoài cái chuyện bị khinh
bỉ v́ thiếu đạo đức, chó c̣n bị dân ta
sắp hạng chung với ḅ, heo về cái mặt ngu cho nên
kho thành ngữ mới có thêm mấy cụm từ: ngu
như ḅ, ngu như heo, ngu như chó .. Kể ra hệ
số thông minh của loài chó đâu đến nỗi kém so
với các loài vật khác, bằng cớ là người ta
đă dạy cho chó làm được rất nhiều
việc: từ tay sai vặt, giữ nhà, cho tới làm tài
tử đóng phim, nhưng dân ta th́ nhất định cho
chó là ngu. Điều này có lẽ v́ chỉ dân ta mới nh́n
ra cái ngu của chó. Đó là một khi trở thành chó nhà
rồi th́ chó không c̣n biết sống tự lực nữa
mà chỉ biết cúi đầu tuân lệnh chủ
để trông chờ ân huệ chủ ban cho, và lỡ
như gặp nhằm tay chủ cà chớn chỉ thích
đày đọa hay hất hủi th́ cũng chỉ
biết cúi đầu nhẫn nhục để mà
sống.
Giai thoại danh nhân có kể
câu chuyện Ông Ích Khiêm, một vị đại thần
khẳng khái dưới triều vua Tự Đức,
đă dùng chó để chửi xỏ đám quan lại
hũ nát. Trong khi bên ngoài th́ đám Tây mũi lơ đem súng
thần công sang uy hiếp bờ cơi, bên trong th́ giặc giă
nổi lên khắp nơi, nhưng triều đ́nh ta th́ toàn
là một đám hủ nho chỉ biết bấu vào mớ
kinh điển của Thánh hiền đời xưa
để bàn về chuyện kinh bang tế thế thời
Nghiêu Thuấn ở bên Tàu, hoặc cam ḷng nhịn nhục
để giữ cái mâm đồng cho ḿnh ngồi dai ăn
hại, chứ chẳng ai biết lo toan giúp vua canh tân
đất nước. Quá ấm ức mà không biết làm
sao giải tỏa, cụ bèn sai gia nhân làm một bữa
thịt chó rồi mời tất cả các quan trong
triều đến dự tiệc. Sau khi các quan đă
ngồi vào mâm khề khà ăn uống thấy ngon
miệng, mới hỏi cụ là các món này nấu bằng
thịt ǵ mà ngon thế th́ cụ nhanh nhẩu đáp ngay: "Bẩm
mâm trên mâm dưới ǵ cũng đều là chó cả"
Kể ra những câu chuyện
về chó như loại này th́ có kể măi vẫn không
hết, nên tôi cũng không muốn lải nhải kiểu "chó
nhai giẻ rách" chỉ thêm mỏi miệng. Tuy nhiên
có một chuyện tôi không thể nào không nhắc
đến là ngày c̣n nhỏ, có một lần tôi nghe lóm các
bậc trưởng thượng mạn đàm với
nhau, có một vị đă buột miệng than: vị trí địa lư của
nước ta nằm vào cung Tuất, tức là con chó, có
nghĩa là phải thần phục một nước
lớn nào đó th́ mới yên ổn, bằng không th́
chỉ có tranh giành và loạn lạc thôi. Thật
t́nh mà nói, lúc bấy giờ tôi chẳng hiểu tí ǵ về
những vấn đề cao siêu thuộc về chính
trị và Triết lư Dịch, nhưng câu nói ấy bắt
đầu từ đó luôn ám ảnh sự suy nghĩ
của tôi mỗi khi đọc lịch sử nước nhà.
Bỏ qua mấy ngàn năm
xưa cũ nếu không bị Tàu trực tiếp cai
trị th́ cũng nằm trong cái ṿng kiềm tỏa của
các cụ con trời, cho đến khi các cụ con trời
v́ cứ đắm ch́m trong cái vũng vàng son quá khứ mà
không bắt kịp với thời đại để cho
đám Bạch quỷ Tây phương có nhiều phù phép
mới lạ hơn xử ép đành phải buông cái xứ
ta ra cho đám Bạch quỷ thao túng. Chính v́ thế mà
dưới thời vua Tự Đức, triều đ́nh
ta đă phải kư mấy cái Ḥa ước với Tây, và oái
oăm thay, cái nào cũng nhằm vào năm con chó:
đầu tiên là Hiệp ước năm Nhâm Tuất
(1862), mở đường cho Tây được
đặt chân vào đất này để làm mưa làm gió,
và sau đó là Hoà ước năm Giáp Tuất (1886),
th́ Tây nghiễm nhiên làm chủ đất nước
ta.
Sau gần một thế
kỷ bị Tây cho ăn ba-toong, đá đít, kịp
đến năm con gà Ất Dậu dân ta theo trào lưu
giải phóng các dân tộc bị trị trên thế giới
cũng vùng lên làm cách mạng, những tưởng phen này
Tây về nước hẳn và ta sẽ làm chủ ta, không
ngờ lại bị bác Cáo già nhảy ra tự xưng là
cứu tinh của dân tộc lừa cho một vố.
Một số người trong dân ta sớm nhận ra cái
cổ của bác Cáo già có đeo cái tṛng nối vào sợi
dây xích đỏ cột vào cái Cán Mác nên không chịu đi
theo và t́m cách chống lại làm cho bác Cáo già hoảng lên, bèn
lập mưu kư với Tây hai cái Hiệp định
lập lờ vào năm con chó Bính Tuất, để
cho bác Cáo già đánh lận con đen, cơng đám rắn Tây
trở lại cắn mấy con gà quốc giùm bác, và
tạo ra cái cảnh Tây Tàu bát nháo khiến cho từ đó
dân ta bị lâm vào mê hồn trận, tha hồ chia phe mà choảng
nhau chí chóe.
Suốt ba mươi năm do
sự giật dây sau lưng của các đồng chí vĩ
đại hay hỗ trợ ra mặt của các
đồng minh siêu cường, dân ta đă vô t́nh bị
mấy lănh tụ cà chớn của ta lùa vào cái tṛ chơi "gà
nhà bôi mặt đá nhau", máu chảy thành sông,
xương chất thành núi. Rồi một hôm, lại do
sự thỏa hiệp giữa các đồng chí vĩ
đại lẫn đồng minh siêu cường với
nhau, cả trường gà bỗng nhiên ngừng hẳn tṛ
đấu đá để cho dân ta ngơ ngác nh́n nhau
kể từ đây mang chung một cái tṛng. Nhờ được
làm chủ theo kiểu "ở đời muôn sự
của chung" nhưng thụ hưởng th́ lại
dành riêng theo tiêu chuẩn mà các đồng chí vĩ
đại bên Nga bên Tàu vạch ra khiến cho kiếp
sống của dân ta hóa ra c̣n đen hơn cả cái mơm
chó.
Ba mươi năm tiếp
theo, cái đất nước mà dân ta làm chủ nhưng
dưới sự lănh đạo của mấy cái bàn
tọa xúm quanh cái mâm đồng, cổ đeo sợi dây
xích đỏ nối liền với mấy cái lưỡi
liềm lưỡi búa lủng lẳng ở trên
đầu, khiến cho dân ta muốn sống th́ chỉ có
một cách là phải biết "chui": từ
ăn chui, ở chui, làm chui, chửi chui .. cho tới cả
khi không thể nào sống nổi với những cái chui
như thế nữa đến nỗi phải bỏ
xứ mà đi t́m đất khác để sống th́
cũng phải đi chui nốt.
Tục ngữ có câu: "Chó
chết hết chuyện", nhưng trên đời này
loài chó có bao giờ chịu tuyệt chủng đâu, cho nên
chuyện chó vẫn cứ tiếp diễn hết thời
này tới thời khác. Năm nay cái ṿng luẩn quẩn
của mấy con giáp lại quay trở về với con
chó và cũng trùng tên với con chó Bính Tuất cách đây 60
năm. Tại cái đất nước có bốn ngàn
năm tự hào nhưng vẫn cứ măi là cái quê nghèo này
cũng đang diễn ra nhiều màn nhốn nháo v́ các
đồng chí vĩ đại lẫn đồng minh siêu
cường bỗng nhiên cùng chú mục vào cái mảnh
đất trót nằm ở vị trí cung Tuất này.
Nếu dân ta vẫn chưa chịu thức tỉnh và không
dám dứt bỏ cái thói quen sợ hăi và âm thầm nhịn
nhục để tạo ra một cơ hội
đổi mới thực sự cho đất nước
th́ dân ta vẫn cứ măi măi nằm trong mấy bàn tay thao
túng của các ông chủ không phải là dân ta.
ĐOÀN VĂN
KHANH
(Bai Chuyen)