CHUYỆN ĐỜI TÔI !
(Tuệ Chương)
Chuyện đời tôi có ǵ để mà nói !
Nói thế nhưng
nhiều khi, nhiều đêm ôm con nằm suy nghĩ, tôi
lại thấy tại sao tôi không nói chuyện đời tôi ? Sự việc to lớn
nhất trong đời tôi không phải tôi làm ông to bà
lớn, làm vương làm tướng, chỉ là một
chuyện nhỏ nhưng rất quan trọng. Đó là việc tôi đánh mất "bản ngă"
của tôi.
Bản ngă tôi là ǵ ?
Tôi sinh ra và
lớn lên trong một gia đ́nh tiểu tư sản, trung
lưu. Cha tôi là trung tá quân đội biệt phái
cảnh sát. Ba mươi tháng tư, không
kịp chuẩn bị, ông lên tàu ra đi một ḿnh, để
lại toàn bộ gia đ́nh. Lúc đó, tôi
là sinh viên năm thứ ba Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt,
thiên tả, tham gia hoạt động "cách mạng".
Sau ngày "giải phóng", tôi về nhà, "nón
cối dép râu". Thấy tôi, mẹ tôi
thở dài. Mấy ông anh thấy tôi, không
cười, không chào, bỏ đi. Mấy
chị gái, em gái và cả hàng xóm nữa nguưt, háy, coi như
một thứ gai mắt. Tôi không quan tâm.
Tôi có con đường của tôi.
Tại sao tôi theo "cách mạng" ?
Trước hết là tại ba tôi.
Ba tôi quê ở Long Xuyên, học hành đàng hoàng, v́
thời cuộc nên theo ông Năm Lửa,
mang lon đại úy. Năm 1955, quân đội Năm
Lửa sát nhập vào quân đội Quốc Gia, qua một
kỳ sát hạch, ông được đưa đi
học ở trường Vơ Bị Đà Lạt, khóa 10
phụ, ra trường mang lon thiếu úy. Bây
giờ ông là sĩ quan Quân Đội Cộng Ḥa.
Là dân Long Xuyên, ông có máu anh hùng Lương Sơn
Bạc, - như ông thường nói đùa -. Tôi
th́ cho rằng ba tôi có máu Nguyễn Đ́nh Chiểu, "Giữa
đường dẫu thấy bất bằng mà tha".
V́ có máu ấy, không ít khi ông có mâu thuẫn, xung
khắc với cấp chỉ huy.
Kỷ niệm đáng nhớ nhất, ảnh
hưởng tới tâm hồn trẻ thơ của tôi là
khi ông làm trưởng ty cảnh sát Chuơng Thiện. Năm đó tôi mười ba tuổi, đă
biết khôn, nhất là con gái, thường khôn sớm
hơn con trai, hơn mấy ông anh tôi, như ba má tôi
nhận xét. Ba tôi bắt giam gần
mười ông thương gia trong tỉnh. Những ông nầy có giấy tỉnh
trưởng cấp cho chở hàng lên Saigon,
nhưng giấy đó bất hợp lệ. Ba tôi nói
mấy ông quân đội qua làm hành chánh, cờ tới tay th́ phất, chẳng quan tâm tới
luật lệ ǵ cả. Hơn thế nữa,
trong số mấy ông bị ba tôi bắt nầy, c̣n có vài
ông làm "kinh tài cho Việt Cộng" - chữ ba tôi nói.
Ông tỉnh trưởng gọi điện
thoại bảo ba tôi tha. Thay v́ tha, ông
dẫn họ ra ṭa, có ông biện lư cùng phe bảo vệ ông.
Mặt khác, ba tôi biểu mẹ tôi và anh em
chúng tôi gom góp quần áo, giày dép cho vô vali hết, chuẩn
bị đi, chưa biết đi đâu. Thế
rồi ba tôi đấu khẩu kịch liệt với ông
trung tá tỉnh trưởng, hùng hổ, mạnh dạn, không
một chút sợ hăi, mặc dù ba tôi lúc ấy mang lon thua ông
ta hai cấp, đại úy. Câu cuối ba tôi nói với ông
trung tá tỉnh trưởng là: "Tôi không thể thi hành
lệnh trung tá. Tôi sẵn sàng rời bỏ chức vụ.
Vợ con tôi chuẩn bị xong rồi. Tôi
chỉ c̣n chờ điện chấp thuận của
Tổng Nha là tôi đi khỏi đây".
Ba tôi thường chán nản cấp
chỉ huy của ông. Nhiều lần đi làm về, ông nằm dài, bỏ
ăn. Điều tội nghiệp là
chẳng bao giờ v́ công việc ở cơ quan mà ba tôi
cằn nhằn vợ con. Tính t́nh ba tôi
như thế, cuộc sống gia đ́nh gặp khó khăn
là đương nhiên. Lâu lâu, ba tôi có chút
ít tiền đem về cho mẹ tôi. "Tiền
người ta cho, an tâm đi". Ba tôi nói với mẹ tôi vậy. C̣n mẹ
tôi, có ai tới biếu xén ǵ th́ nói: "Ổng biết
chắc ổng rầy chết, xin vui ḷng đem về !" Thường khi
túng thiếu, mẹ tôi về Vĩnh Trinh xin ông ngoại
giúp đỡ. Ông ngoại tôi có gần
ngàn mẫu ruộng ở đó. Ông rất
thương con cháu.
Tôi thấy chỉ có độc nhất
một người, ba tôi khóc khi nghe tin ông ấy qua
đời. Đó
là thiếu tướng Thanh, tư lệnh ở miền
Tây. Ba tôi làm việc với ông nầy
nhiều thời kỳ lâu dài. Ba tôi
rất kính trọng ông.
Với tâm trạng đó, cùng với lập
trường và sự giảng dạy của mấy ông
giáo sư thiên tả, cùng với môi trường sinh
hoạt tự do của sinh viên thời chiến, phản
chiến, tôi di dần vào sinh hoạt của họ và tham
gia công tác nội thành. Tôi đi theo con
đường đó cũng v́ lương tâm của tôi, là
v́ cái bản ngă của tôi. Tôi chống lại
sự bất công xă hội cũ mà ba tôi là nạn nhân.
Tôi muốn tham gia công việc xây dựng
một xă hội công bằng, nhân ái, từ bi. Đó là
những bẩm sinh được cấu tạo trong tâm
hồn tôi khi "Mẹ về với cha", khi tôi c̣n là
bào thai trong bụng mẹ, khi tôi bắt đầu biết
khôn, học được từ cha mẹ, ông bà, bà con, xóm
làng, và trong văn hóa, lịch sử dân tộc .. Bản sắc tôi mang trong ḷng là văn hóa của
người Việt.
Đội nón cối, mang dép râu, tôi đi Thanh Niên Xung
Phong, xây dựng khu Kinh Tế Mới cho đồng bào
đi t́m đất sống, xây dựng cuộc đời
mới xă hội xă hội chủ nghĩa. Tôi
ra đi với nhiệt t́nh tuổi trẻ, hăng hái v́
đất nước bước vào một giai
đoạn mới, thời cơ mới. Chiến
tranh qua rồi, đây là lúc bắt tay xây
dựng nước nhà. Ai cũng phải hăng hái
trước thời cơ mới. Tôi cũng
vậy. Tôi là người trẻ
Việt Nam
đi tiên phong trong công cuộc xây dựng xă hội mới.
Và tôi thất vọng. Đó là thất vọng đầu tiên !
Cái nầy gọi là Kinh Tế Mới xây dựng xă
hội mới đây chăng ? Chúng tôi
đốn cây làm nhà, phát quang cho dân làm rẫy làm ruộng, công
việc hằng ngày hết sức lao khổ, nhưng
ăn uống, -chỉ nói ăn uống thôi, chưa nói
đăi ngộ -, là điều đáng nói, than phiền. Cấp
trên không ngó ngàng tới: Gạo thiếu, tiền thiếu
nên ăn đói và kham khổ. Sáng mỗi người một củ khoai, trưa
hai chén cơm và "canh toàn quốc", chiều tối
cũng vậy. Họp hành, phản
ảnh, than phiền, coi như tiếng nói bay vào cơi hư
vô, chẳng thấy hồi đáp. Lâu lâu, ông lớn, bà
lớn xuống, ban chỉ thị, an
ủi, xức dầu cù là: "Đất nước
đang thời kỳ xây dựng; bây giờ chỉ ăn
no mặc ấm. Mai sau sẽ ăn ngon
mặc đẹp". Thế là có phản
ứng. Hy sinh, đồng ư; chịu gian khổ, cũng
thông qua, nhưng đói th́ lấy sức đâu mà làm, phá
rừng, đốt rẫy, v.v .. Nghe
phản ảnh, cấp trên hứa hẹn, nhưng thay v́
đáp ứng bằng thóc bằng gạo th́ lại
bằng theo dơi, khiển trách, trừng
phạt. Anh nào phản ảnh to mồm
nhứt th́ sẽ bị trù dập nặng nề nhứt.
Lư lịch được lôi ra, bị xem lại, thuyên
chuyển, sa thải, nếu không kịp
bỏ trốn. Thanh niên xung phong c̣n thế
huống ǵ người dân dại dột nghe lời tuyên
truyền bỏ nhà bỏ cửa mà đi kinh tế mới.
Đói quá, người dân phải bỏ
đi. Ngày xưa nơi nầy là
rừng xanh đẹp đẽ, được khai phá
để xây dựng khu kinh tế mới. Ngày nay, khu kinh tế mới tiêu điều, xơ
xác. Một trăm nhà, bỏ đi hết 99 nhà, c̣n
lại một nhà nào đó, của ai đó không c̣n
đủ sức để mà bỏ đi.
Ở đời có những cái ngu
đáng nguyền rủa. Vậy mà ngu
nhiều lần, không có cái ngu nào giống cái ngu nào. Ấy
là con người tôi. Vậy mà tôi không
chịu bỏ đi, lại mừng khi được
điều về nông trường PVC, coi như
được khen thưởng, khuyến khích.
Nông trường hay công trường cũng vậy
thôi. Ngày ngày, đi qua nhà dân, cảnh
tượng thật thê thảm. Những đứa
bé ốm nhom, bụng ỏng, đít teo, đen thui, mắt
toét, ruồi nhặng bu quanh. Ăn c̣n
chưa có, nói ǵ tới chuyện học.
Sau một thời gian, tôi
được giao nhiệm vụ cửa hàng trưởng
của nông trường, dĩ nhiên có tư lợi, được
chia chác, không đáng là bao.
Điều quan trọng là tôi lấy chồng,
một ông trung úy bộ đội chuyển ngành, rồi có
con. Mỗi khi tôi được chia chác
một cái ǵ đó, anh ấy mừng ra mặt. "Ối ! cái nầy
đẹp quá". "Ồ ! Cái nầy ngon quá". Không có cái
ǵ là anh không khen. Anh ấy lớn lên ở miền
đồng trũng Bắc bộ, chưa kịp thấy
bóng đèn điện, chưa từng leo
lên ngồi trên chiếc xe đạp th́ nghe tuyên truyền "Xẻ
dọc Trường Sơn đi cứu nước". Thành ra, miền Nam đối với anh
cái ǵ cũng lạ lẫm, hấp dẫn, đẹp
đẽ. Anh từng thèm ăn, thèm
mặc khi c̣n ở trong rừng. "Giải
phóng" xong rồi, tiếp xúc với xă hội miền Nam, anh
bỗng thấy choáng ngợp. Đă thèm khát, anh
lại càng thèm khát hơn, từ cục đường, miếng
thịt heo tới tô hủ tiếu, từ cái áo "may-ô"
cho tới cái quần tergal; từ chiếc xe
đạp cho tới chiếc xe Honda. Chiếc xe Honda được coi như là mục
đích cuối cùng của đời anh. Tôi thấy
thương hại chồng tôi lắm !
Ở đời sao có người gian khổ đến vậy !
Nói ra th́ buồn cười. Nghĩ lại thấy
tội nghiệp cho một người chồng một
đời gian khổ, khổ từ khi lọt ḷng mẹ
như thế. Khi có con, tôi thấy ràng buộc
chồng tôi nhiều hơn. Từ chỗ thương
chồng thương con, là khởi điểm để
tôi lún sâu vào xă hội mới, chế độ mới.
Ngày trước, khi c̣n đi học, con
đường tôi theo "cách mạng"
khá dễ dàng. Hàng tháng, mẹ tôi gởi
tiền cho tôi, tôi không phải lo lắng ǵ về cuộc
sống cả. Tôi chỉ lo học và lo
công tác. Khi vào thanh niên xung phong, cái mặc khỏi lo, cái
ăn có thiếu thốn nhưng vài
tuần tôi về phép thăm mẹ, có mẹ bồi
dưỡng. Khi về nông trường, mẹ tôi cũng
như các anh chị em đi Mỹ sum họp với ba tôi. Chỉ c̣n ḿnh tôi ở lại. Có nhiều lư
do khiến tôi không đi Mỹ nhưng lư do quan trọng
nhứt là tự ái, mắc cở, không cần với ai xa
lạ mà ngay cả với anh chị em trong nhà. Mẹ tôi đi rồi, tôi bị hụt hẫng, không
những tôi mất chỗ dựa vật chất mà c̣n là
chỗ dựa tinh thần. Bên Mỹ, không ai gởi
tiền "viện trợ" cho tôi hết. Mẹ tôi đă lớn tuổi, qua đó có lẽ
không c̣n đi làm được. Ba tôi
cũng không hơn ǵ. Các anh chị em, nhận tiền
họ cũng thấy mắc cở, nói chi tới việc
mở miệng hay viết thư xin
tiền. Vả lại, qua tới bên đó, lần
lượt họ có vợ có chồng, có gia đ́nh riêng, không
c̣n lo ǵ cho tôi được nữa.
Hoàn cảnh đó đẩy tôi vào
thế liên kết, hợp tác với chồng để
kiếm sống. Chồng
tôi, một đời nghèo khổ, gian lao,
nguy hiểm, nay phải thực dụng để mà
sống. Tôi, v́ thương chồng, thương
con, không c̣n con đường nào khác ngoài việc hợp
tác với chồng. Tôi có tư lợi
từ công việc của tôi, chồng tôi có tư lợi
từ công việc phó giám đốc nông trường
của anh ấy. Có tiền đem về, họp chung
lại, vui mừng, sung sướng ! Anh của chị dâu tôi đi Mỹ, bán lại cho
tôi hăng nhôm nhỏ của anh ấy. Tôi
đặt cọc, làm giấy tờ đâu đó xong xuôi, chồng
tôi ngày ngày bỏ một ít giờ tới "học
việc" tại hăng. Đến ngày
anh của chị dâu tôi lên máy bay, chồng tôi biểu tôi
lánh mặt để khỏi chồng nốt số
tiền c̣n lại. Ông ấy không chờ
được, đành bỏ của mà đi. Đó
là nhát dao chặt đứt hẳn mối ràng buộc
của tôi với gia đ́nh. Có hăng nhôm, vợ
chồng tôi hợp tác với sở công nghiệp thành
phố, bán hàng tốt giá cao, giao hàng "dỗm", lời
vô số. Có ăn chia, hợp đồng càng ngày càng
lớn, lợi nhuận thu vào càng
nhiều, niềm vui tiền bạc vào cũng lớn theo, càng
"vĩ đại". Con đường xuống
dốc bao giờ cũng trơn tru, nhẹ nhàng.
Tay đă nhúng chàm càng dễ
lấm cả người ḿnh, cả tâm hồn ḿnh.
Những ǵ tôi từng ấp ủ khi c̣n
tuổi thanh xuân, ngày nay dần dần mờ nhạt. Những lời giáo
huấn về ḷng thương người, về bác ái, về
từ bi, về tu hiền như ông ngoại tôi trở nên
vắng bóng, ít khi hiện về trong trí tôi. Những
mối xúc cảm, xót xa, thương xót ngày xưa khi
thấy một người ăn mày đói khổ, rách
rưới, những đứa trẻ đít teo bụng
ỏng từng thấy khi tôi mới về nông
trường nầy dần dần trở thành chai cứng,
ĺ lợm, ngủ say trong ḷng tôi. Đôi khi tôi
c̣n sực tỉnh nhưng chồng tôi th́ không. Người
Bắc vào Nam
sau 1975, mang một tâm lư khá phức tạp: thực dụng,
công thần, tham lam, người chiến thắng, quân
viễn chinh, v.v .. th́
làm sao họ c̣n lương tâm. Từ chỗ
thương chồng, thương con, tôi đi với
họ, trên con đường tham lam, ích kỷ ấy, dần
dần thấy ḿnh tán tận lương tâm.
Đôi khi tôi nghĩ đến ba tôi, tôi thương
ba, và .. trách ba. "Ba
kính yêu ! Phải chi ba gần gũi con hơn khi con mới lớn, để
con thấy xa hơn những ǵ các ông giáo sư thiên tả
giảng dạy và thấy rơ bạn bè hơn. Phải chi không có ngày ba mươi tháng tư
để con được gần ba, để ba chỉ
cho con thấy trước con đường xấu xa con
đang lún sâu vào. Bây giờ th́ quá trễ rồi ba ! Ba đi theo con
đường của ba. Con đi theo
con đường của con. Con đường thuở
ban đầu con tưởng là hay lắm nhưng
đến ngày hôm nay, đêm đêm nằm ôm con, con sực
tỉnh, thấy đớn đau, thấy xót xa, thấy
uổng cơm áo cha mẹ. Thế hệ ba không
thoát ra khỏi súng đạn, chém giết rồi ba
phải dấn thân vào con đường ấy. Con
đường con đi là con đường sau chiến
tranh. Súng đạn không c̣n, chém giết không c̣n, nhưng
vết chém trong tâm hồn những người như chúng
con, sâu đậm và đau xót không thua ǵ vết
thương trên thân thể những người thuộc
thế hệ của ba ! Do hoàn cảnh
đó, con đă đánh mất bản ngă. Đó là
điều khủng khiếp cho con người. Ba
đồng ư như vậy chứ ba !?"
Viết sau khi nhận thư cháu Thúy
TUỆ CHƯƠNG - HOÀNG LONG HẢI
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)