Sổ Tay Thường Dân:
ĐÊM HAVANA và NGÀY HÀ NỘI
(Tưởng Năng Tiến)
Có nơi nào trên trái đất
này
Mật độ đắng cay như ở
đây ?
Chín người - mười
cuộc đời rạn vỡ.
Bị ruồng bỏ và bị
lưu đầy ..
Có nơi nào trên trái đất
này
Mật độ yêu thương như
ở đây ?
Mỗi tấc đất có một
người quì gối
Dâng trái tim
và nước mắt
Cho nỗi đau của cả loài người ..
(Thơ PHÙNG QUÁN)
Tôi chưa bao giờ đến
Hà Nội, và cũng chưa bao giờ cảm thấy
có chút xíu nào hào hứng khi nghĩ
đến thành phố (xa lạ) này. Đường thì xa,
vé tầu thì mắc, thủ tục thì
lôi thôi rườm rà, và lỡ mà kẹt
luôn thì .. chết
mẹ.
Tôi sinh trưởng ở
miền Nam,
nghĩ và nghe sao nói vậy. Và cứ
như vậy mà nói, chắc chắn, sẽ
làm mích lòng cả đống người.
Tôi biết vậy nhưng không thể nào
nói khác hơn, vì những điều
tôi được nghe kể về Hà Nội
(hoàn toàn) không có gì là
đàng hoàng hay tử tế - đại
khái như:
"Lời ăn tiếng nói lễ
độ cũng khó gặp, chứ đừng
nói gì đến văn vẻ ..
Một cô gái có thể nói oang oang giữa
chợ:
- Nó rủ tao đi nhưng tao đ .. đi.
- Sáng nay mẹ mày qua xin lửa bố
tao, bố tao đ .. cho
.."
"Một cái gì đó
đã phá vỡ lòng tin của con người
rằng xã hội luôn luôn cố gắng
đem lại sự tốt đẹp cho mình, và
chính mình phải có bổn phận phải
gìn giữ các công trình xã hội
để mình và mọi người cùng
hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây
điện để bán lấy chút tiền,
có thể đốt hết một kho hàng
hóa để
phi tang cho một vật ăn cắp không
đáng là bao .. con người
đối xử với xã hội thô bạo
như vậy chỉ vì xã hội đã
đối xử với họ tệ quá (Phạm
Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. Thế
Kỷ, Hoa Kỳ 1994, 32-33).
Trời đất, đó
là chuyện từ thế kỷ trước lận -
cha nội. Cũ
rích cũ rơ rồi, bới móc ra làm chi nữa ? Bây giờ là
thế kỷ 21 rồi mà. Và bây giờ,
tôi lại mới vừa nghe, thiên hạ vẫn
than phiền rằng Hà Hội vẫn cứ (mẹ
rượt) y trang như hồi đó - không
khác gì hết trơn hết trọi:
"Những đứa bé trai và
gái bưng thức ăn cho khách vẫn là những
đứa bé đã được mô tả
trong tiểu thuyết Nam Cao hay Trương Tửu
cách đây năm sáu thập niên,
còm cõi, nhọc nhằn, cơ cực, chỉ biết
cúi đầu vâng dạ và sống quen với
lo âu, sợ hãi .."
"Những anh chị phu hồ
vẫn làm việc bằng những cung cách từ
nửa hế kỷ trước. Họ chuyền tay
nhau mọi thứ vật liệu. Cát,
đá và sạn đựng trong những cái
rổ, đà gỗ vác trên vai. Một
ngày dầm mưa hay đổ mồ hôi như thế
của một người phu hồ trị giá một
đô la và một bữa ăn
trưa thanh đạm. Hơn một phần tư thế
kỷ thực hiện "chủ nghĩa xã hội
ưu việt" trong nước, hơn một phần
tư thế kỷ kêu gào tự do và
nhân quyền của khối người việt
lưu vong hải ngoại, chẳng có chút
ánh sáng nào rọi vào những góc
đời phiền muộn tối tăm này"
(Bùi Bích Hà, "Nhìn Lại Quê
Hương", Thế Kỷ 21, Sep. 2003:63-65).
Phạm Xuân Đài
và Bùi Bích Hà, nói nào ngay,
không phải là người Hà Nội. Họ là dân bá vơ, cù bơ cù bất, ở tận
đâu đâu đó. Cả hai chỉ
tạt ngang, ghé chơi Hà Nội năm ba
ngày hay vài ba tuần lễ gì thôi.
Biết (khỉ mốc) gì đâu mà nói
hành nói tỏi (nghe thấy ghét) dữ vậy
chớ ?
Nguyễn Huy Thiệp thì
khác à nha. Ông ta là niềm hãnh diện của
Hà Nội (nói riêng) và của cả
nước Việt (nói chung). Ổng có dư thẩm quyền và thừa
tư cách để nói về thủ đô
(mến yêu) của mình. Trong tác phẩm
Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu, nhà văn Nguyễn
Huy thiệp đã mượn lời một nhân vật
để tuyên bố như sau: "Thời của
tôi đang sống là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm
là như thế đấy."
Ý, trời đất, quỉ thần,
thiên địa ơi ! Giữa Thời
Đại Hồ Chí Minh (quang vinh), và trong
lòng thủ đô Hà Nội - nơi mà
cách đây chưa lâu người ta vẫn
còn phải nhai rón rén khi ăn - mà thằng
chả nói năng ồn ào, lạng quạng
và bạt mạng (quá cỡ) như vậy
thì kể như là .. hết thuốc !
Và Hà Nội không
phải là nơi duy nhất hết thuốc (chữa)
trên thế giới này. Tôi nghe kể là thủ
đô của Cuba
cũng tồi tệ, và bệ rạc không
kém:
"Ở La Havanne vài ngày dần dần
bạn hiểu cái khang trang, sầm uất ở những
nơi có du khách chỉ là bộ mặt
bên ngoài che không nổi một xã hội
lở lói, mệt mỏi .. Cuba
có hai thế giới, thế giới tưng
bừng náo nhiệt của du khách, của những
người có tiền xanh, bên cạnh thế giới
mệt nhoài của dân địa phương. Sau
50 năm cách mạng, cái mơ của đa số
dân Cuba là vượt biển qua Miami hay có
bà con thỉnh thoảng gởi về một cái
ngân phiếu" (Trần Công Sung,"Cuba Sí,
Cuba No", Thế Kỷ 21, Dec. 2003:78).
Đó cũng là cái ước
mơ thê thảm, vượt quá tầm tay, của rất nhiều người
dân Việt - bây giờ. Trong quá
khứ, Cuba và Việt
Nam
cũng có rất nhiều điểm (bất hạnh)
tương tự như nhau. Hai quốc gia này
đều có thời gian dài là thuộc
địa, và cả hai đều đã tin
tưởng rằng sẽ dành lại được
độc lập và tự do bằng con đường .. cách
mạng ! Chung cuộc, cả hai đều sống
dở và chết dở trong lòng cách mạng.
Ví von mà nói thì Havana và
Hà Nội như hai cô bé lọ lem song sinh,
trong một gia đình khánh tận. Cả hai
cùng có chung ước mơ là lấy
được một tấm chồng đàng
hoàng, lương thiện nhưng (chả may) đều
phải lòng đúng đồ phải gió
và đã trao duyên lầm … tướng cướp !
Havana, tuy thế, vẫn
còn "có phước" hơn Hà Nội. Bi kịch của La Havanne chỉ
xẩy ra vào lúc có mặt trời - theo lời của Trần Công Sung:
"Đêm xuống, dân Cuba
quên cái cực nhọc ban ngày, đổ ra
đường nhộn nhịp ..
Quên dollars, quên cách mạng, quên những
bài diễn văn dài tám giờ, quên
embargo, người ta đàn hát nhẩy múa
náo nhiệt. Không phải chỉ ở những
khu du khách, ngay cả ở những khu bình
dân, đen tối, trong những tiệm cà phê
rẻ tiền .., đâu đâu cũng có tiếng
nhạc, giọng hát .."
Và vẫn theo như
nhận xét của Trần Công Sung thì ở Havana "có một
cái gọi là cái hồn" (une âme). Cái hồn này đang nâng đỡ
cho mọi người sống qua những ngày
tháng cơ cực, đắng cay của thời mạt
kiếp. Tôi còn tin rằng
nó cũng sẽ giúp cho dân tộc Cuba hồi
sinh chóng vánh, sau khi họ chôn xong cái Chủ
Nghĩa Xã Hội (đang sắp sửa "chuyển
qua từ trần") ở đất nước
này.
Hà Nội (dường
như) không có một cái hồn như thế
để chuẩn bị hồi sinh, dù CNXH cũng
đang thở hắt ra ở Việt Nam.
Tôi chưa bao giờ nghe ai nói đến
có một đêm nào đó (dù chỉ
một đêm thôi) người dân Hà Nội
đã đổ ra đường, đàn
hát, nhẩy múa nhộn nhịp, một cách
hồn nhiên và vô tư như vậy cả.
Tình trạng của Hà Nội có vẻ tuyệt
vọng hơn nhiều, theo như nhận xét của
nhà văn Bùi Bích Hà - qua bài
báo thượng dẫn: "Người ta chỉ cần
một hai thập niên để vực dậy một
nền kinh tế sa sút nhưng để xây dựng
lại niềm tin cho cả dân tộc, cụ thể
như dân tộc tôi, nay chỉ còn cầu
phép lạ gieo xuống thửa đất hoang
hoá này những hạt giống mới để
bắt đầu lại."
Cách đây không lâu, khi
được hỏi "phải hình dung thế
nào về văn hiến Thăng Long", giáo
sư Nguyễn Huệ Chi đã (rơm rớm nước
mắt, tôi đoán thế) kể lại rằng:"Gần
đây có một vị viện sĩ định
nghĩa văn hiến là văn học để hiến
dâng cho Đảng" (http://www.talawas.org/hanoi/hanoi01.html).
Nghe mà .. hết hồn ! Havana
là một thành phố non trẻ, mới có mặt
từ đầu thế kỷ thứ XVI mà khí
phách và hồn phách vẫn còn lai
láng qua từng bước chân nhún nhẩy của
người dân - dù nơi đây công an nhiều không kém quân Nguyên.
Không lẽ mảnh đất ngàn năm văn vật,
lẫy lừng cỡ như Thăng Long, mới đụng
chuyện với cường quyền và bạo lực
(có vài chục năm) mà đã "mất
hồn mất vía" và "chết tiệt"
hết thế sao ?
Tôi không tin như vậy
đâu. Và tôi cũng không chịu như vậy
nữa. Đảng CSVN quả thực đã hớp
được hồn của một mớ "viện sĩ"
ở Bắc Hà nhưng họ chưa bao giờ thực
sự nhìn ra được cái hồn của
đất Thăng Long, đừng nói chi đến
chuyện "đụng" được tới
nó.
Mới đây, do tình cờ may mắn,
tôi đã thấy được cái hồn của
Hà Nội trong một căn nhà nhỏ - ở
ngõ Ánh Hồng, cạnh một nhà xí
công cộng, luôn luôn ngập ngụa cứt
đái - của một người đàn
bà tên Sợi. Chị Sợi có một mẹt
hàng ở đầu ngõ, bầy bán các
thứ linh tinh: ấm nước chè, gói thuốc
lào, bao thuốc lá, lọ ô mai, gói
bánh bích qui. Chị không có
vốn nên hàng hoá lèo tèo, thảm hại.
Chi Sợi bán hàng không đủ
thu nhập để nuôi mình,
và nuôi người mẹ bệnh đang nằm
chờ chết nên - đôi lúc- buộc phải
bán cả thân. Mẹt hàng, cũng như
thân xác "xuống cấp" của người
đàn bà đã quá thời xuân sắc
này, chỉ hấp dẫn được một loại
khách hàng duy nhất: đám ăn
mày. Và mảnh đời bầm dập, te tua, tàn tạ của chị Sợi
đã được kể lại như sau:
"Trong số những người chồng
hờ ấy, chị đặc biệt yêu quý một
anh ăn mày trẻ, còn ít
tuổi hơn chị. Anh ta đến với chị
không như người đến với gái
làng chơi ..
"Sau khi yêu nhau bên những tấm
ván quan tài còn để mộc và
chưa ghép mộng, bao giờ anh cũng nán lại
trò chuyện, hỏi chị về diễn biến bệnh
tật của bà cụ, công việc của chị,
còn chị thì ngắm nghía cái chân
khoèo của anh, cái chân mà chị biết
rằng trước đây nó cũng lành lặn,
bình thường như cái chân bên kia, chỉ
vì giả què lâu quá, nên đã
thành què thật.
"Anh đã kể cho chị
nghe chuyện chân anh. Còn chị kể cho anh chuyện
mẹ chị. Khi bị ngã gẫy
xương hông, nằm liệt, ba năm đầu cụ
hát. Ba năm sau cụ chửi.
Và một năm nay cụ yên lặng.
Mỗi khi có khách lên gác lửng
cùng chị, cụ nhắm mắt giả cách ngủ.
"Anh thương chị. Chị
thương anh. Chính anh đã mượn
cưa, bào ở đâu về cưa, bào,
đo, cắt mộng mấy tấm gỗ cốp pha, ráp thành cái áo quan cho cụ.
Và cũng chính anh, dù què một
chân cũng đã bắc ghế trèo lên,
xây thêm hai hàng gạch quanh tường bao cho
nó cao thêm, chắn bớt cái hơi nhà
xí tạt vào.
"Người thứ hai chị
Sợi yêu quý là một phụ nữ. Một bà
già. Bà cụ Mít.
Đó là một bà già thấp bé, lại còng, mặt chằng chịt
vết nhăn, chẳng biết bao nhiêu tuổi nữa.
Chính bà Mít cũng không biết mình
bao nhiêu tuổi ..
"Bà ở vùng Hà Nam,
Phong Cốc. Anh con trai duy nhất của bà a dua với
bọn xấu trong làng đi ăn
trộm lợn. Án xử hai năm.
Trong tù bị bọn đầu gấu
đánh chết. Người con dâu bỏ
đi lấy chồng, để lại cho bà hai đứa
cháu gái, đứa chín tuổi, đứa bảy
tuổi.
- Bây giờ một đứa lên
tám, một đứa lên mười rồi
cô ạ. Vài năm nữa, chúng nó lớn
khôn là tôi không lo gì nữa. Tôi
có chết cũng không ân hận.
"Một lần bà Mít đến,
nắm lấy bàn tay chị:
- Em ơi. Chị nhờ em một
cái này được không.
"Bà ngập ngừng. Chị Sợi
không hiểu chuyện gì. Nhưng rõ
ràng là một việc hệ trọng, rất hệ
trọng đối với bà.
- Giúp chị với em nhé. Chị tin ở em.
"Thì ra bà muốn gửi
chị tiền. Tiền là vàng, là cuộc sống của
hai đứa cháu côi cút của bà ở
quê. Chúng còn bé lắm. Chúng mồ côi, chúng mong bà.
Chúng cần tiền của bà.
Bà phải nuôi chúng. Chúng chưa thể tự kiếm sống
được, chưa thể tự lo liệu được.
Để nhiều tiền trong người,
bà sợ. Suốt ngày đi bộ
rạc cẳng mà đêm cứ ngủ chập chờn.
Nên nghe chừng thấy nằng nặng hầu
bao, bà phải mang tiền về quê."
.. .. ..
"Mùa rét bao giờ
cũng là thời gian gay go của chị. Hàng họ ế
ẩm. Khách đến nhà cũng
ít. Bù lại với đám ăn mày, mùa rét là
mùa cưới xin, mùa bốc mả. Trong khi hiếu,
hỷ, người ta rộng rãi với ăn mày. Bà cụ
Mít vẫn thỉnh thoảng tới chỗ chị
để cho chị hòn xôi, miếng thịt.
Bà kêu rét và gửi chị
thêm một ít tiền. Chị bảo bà
đã gửi bốn lần tiền rồi sao
không mang về cho các cháu kẻo chúng
nó mong, đã lâu rồi bà chưa về
nhưng bà Mít nói:
- Tôi cố thêm ít ngày nữa.
Rồi về ở với chúng nó một
thời gian. Ngoài giêng tôi mới
ra. Bà cháu xa nhau lâu quá
rồi. Lại còn phải cố
mua cho mỗi đứa một bộ quần áo mới
mặc Tết".
"Nhưng cả tháng sau
bà Mít vẫn không quay lại. Chị Sợi biết
rằng có chuyện chẳng lành nhưng vẫn
hy vọng được thấy dáng người nhỏ
còng còng của bà trong tấm ni-lông
vá víu chống gậy, khoác bị bước
tới. Chị chưa chờ ai đến
như vậy. Lo lắng. Hy vọng.
Tuyệt vọng. Chắc chắn
bà Mít đã chết ở đâu rồi!
"Chị Sợi kiểm lại
số tiền bà Mít gửi một lần nữa. Rồi gấp những
tờ giấy xi-măng, những túi ni-lông. Cho tất cả vào một cái túi
xách. Bây giờ chị không
chờ bà Mít nữa. Chị chờ
anh què đến. Chị bảo anh:
- Bà Mít chết thật
rồi. Anh phải giúp em. Ở
đây trông nom, cơm nước, rửa ráy
cho mẹ em vài ngày. Em phải
đi đây.
- Em biết quê bà ở đâu
mà tìm ?
- Cứ về Hà Nam, Phong Cốc hỏi. Thế nào cũng ra. Hỏi
dân. Hỏi tòa án.
"Phải đem chỗ tiền
này về cho hai đứa trẻ mồ côi. Phải thực hiện nguyện
ước của bà cụ, kể cả việc mua
hai bộ quần áo mới cho chúng nó
.."
Chị Sợi, anh què - cũng như
bà Mít - cho đến lúc chết vẫn
chưa có đêm nào ôm đàn ngồi
hát hay đổ ra đường nhẩy nhót nhộn
nhịp như những người dân ở Havana. Ngày cũng như đêm họ sống ẩn
nhẫn, thầm lặng trong những con hẻm hôi thối
luôn ngập ngụa phân người giữa
lòng Hà Nội. Chính ở những
nơi tăm tối này, họ đã dấu
kín được nguyên vẹn cái hồn của
cả một dân tộc qua từng nhịp đập
của tim. Và tôi cũng
cảm được cái hồn như thế, khi viết
những dòng chữ này, dù nơi tôi
đang sống cách xa Việt Nam đến nửa
vòng quả đất.
Sau khi đọc xong "Truyện
Không Tên", tôi hỏi tìm số điện
thoại của tác giả và gọi cảm
ơn ông đã mở cho tôi thấy cái hồn
của dân tộc Việt. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn
nói rằng ông không viết truyện mà
chỉ kể lại chuyện đời của chị Sợi,
theo như lời chính chị
tâm sự - thế thôi.
Chị Sợi, anh què vẫn còn
đang sống ở Hà Nội. Qúi vị có
thể đọc nguyên văn câu
chuyện về cuộc đời của họ, trong tuyển
tập Truyện Ngắn Bùi Ngọc Tấn do nhà
Hải Phòng xuất bản năm 2003, hay ở http://danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=411
TƯỞNG NĂNG TIẾN
(Bai Chuyen)