SỐNG CHẾT MẶC BÂY
Nghị quyết 36 năm 2004 của bộ Chính
trị đảng CSVN về người Việt nước
ngoài từng tuyên bố: "Nhà nước
có trách nhiệm thỏa thuận với các
nước hữu quan về khuôn khổ pháp
lý để đồng bào ổn định cuộc
sống và bảo vệ quyền lợi chính
đáng của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài theo luật pháp,
công ước và thông lệ quốc tế"
(chương II.2), "Nhà nước tạo mọi
điều kiện thuận lợi và hỗ trợ
đồng bào ổn định cuộc sống,
yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập
vào đời sống xã hội nước sở
tại .. bảo vệ lợi ích
chính đáng của bà con, chống các
biểu hiện kỳ thị, các hành động
chống lại người Việt Nam ở nước
ngoài" (chương III.1). "Sách trắng về
Nhân quyền tại VN" của bộ Ngoại giao
CSVN năm 2005 cũng có khoe: "Việt Nam đã ký kết
Hiệp định lãnh sự .., Hiệp định
tương trợ tư pháp .., Hiệp định kiều
dân .., qua đó tạo điều kiện thuận
lợi .. tạo
cơ sở pháp lý để thực hiện
công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở
nước ngoài" (chương II.I.7).
Thế nhưng, sự kiện gần 200 người
Việt đi lao động bị mắc kẹt trong
vòng lửa đạn ở Lebanon tháng 7 vừa
qua đã một lần nữa cho thấy lời
nói (văn bản) của Cộng sản VN chỉ
là lường gạt. Ta hãy nghe một người
trong cuộc, ông Hoàng Minh Trung, nói với
đài BBC: "“Tôi phải luôn chủ
động gọi điện cho họ (sứ quán VN
tại Cairo-Ai Cập), họ nói là sẽ giữ
liên lạc nhưng không gọi lại". Sau
đó, "họ bảo tôi rằng hiện chi
phí để đưa người ta khỏi Beirut là
quá đắt và hiện chưa có một
đơn vị hay tổ chức nào đứng ra chịu
trách nhiệm về việc sơ tán
này". (nguồn:
www.bbc.co.uk/vietnamese). Thật ra cước phí di tản
dành cho bà con không nhiều hơn 16 triệu
đôla quỹ đen tại bộ ngoại giao (mới
bị phanh phui), không nhiều hơn hàng chục
triệu đôla viện trợ bị bộ giao
thông vận tải lấy cắp để ăn
chơi và bỏ túi, càng không nhiều
hơn số tiền 4 tỷ đôla mà người
Việt sống ở nước ngoài hàng năm
gửi về quê hương. Ngoài ra, chẳng lẽ
di tản đồng bào ra khỏi "chỗ chết"
cũng cần và đợi "tài trợ" ? May mà cho tới hôm nay, nhờ
sự trợ giúp toàn bộ chi phí của Tổ
chức Di dân Quốc tế (IOM), đã có
hơn 60 người Việt trở về được
quê nhà (nguồn: RFA 06-08-2006). Đây không
phải là lần đầu tiên người Việt
lao động tại vùng Trung
Đông bị kẹt do xung đột. Cuộc chiến
Vùng Vịnh hồi đầu thập niên 1990
đã khiến ít nhất 50 ngàn lao động VN phải rời Iraq bằng
nhiều phương tiện tự túc khác nhau, kể
cả xe buýt và đi bộ. Họ băng qua nhiều
nước và cuối cùng cũng đã về
tới VN bằng máy bay do Liên Hiệp Quốc bảo
trợ với một chặng đường kéo
dài mấy tháng. Đang khi đó, một số
nước có người lao động tại Iraq,
thậm chí là nước đang phát triển,
hồi đó đã dùng máy bay chở
công dân của họ hồi hương trước
khi xung đột xảy ra.
Tiếp đến là chuyện công nhân
Việt tại Đài Loan mà nổi cộm
gần đây (5-2005) là vụ hai cha con chủ một
công ty môi giới người Đài thay
phiên nhau cưỡng hiếp hàng trăm nữ
công nhân Việt. Chị em thoạt đầu
đã kêu cứu với ông Trần
Đông Huy, trưởng ban quản lý lao động
VN tại Đài Loan, song ông này lại
có hành động tiếp tay với phía chủ
nhân tội phạm. Thế là họ liền cầu
cứu các tổ chức thiện nguyện địa
phương như tổ chức của linh mục Nguyễn
Văn Hùng, người từng giúp đỡ lao động ngọai quốc và kiều
bào tại đây từ năm 1999. Trần
Đông Huy liền kết án
linh mục Hùng là "phản động, chống
đối nhà nước Việt Nam". Cha Hùng cho biết:
"mỗi khi có tranh chấp giữa chủ
Đài và công nhân Việt, ông Trần
Đông Huy cũng như đại diện Văn
hóa Kinh tế VN tại Đài Loan (một
hình thức sứ quán) đều không bao giờ
lên tiếng bảo vệ quyền lợi chính
đáng của đồng bào mình" (nguồn:
Veritas Asia).
Lùi xa hơn một tí là câu chuyện
năm 2000 về 250 nữ công nhân Việt nam lao
động xuất khẩu sang làm việc tại công
ty Daewoosa (Đại Hàn) ở đảo
Samoa, thuộc địa của Hoa Kỳ. Chỉ sau một
thời gian ngắn, chị em đã bị đối
xử rất tệ bạc : không
được trả lương nhiều tháng,
đòi hỏi công bằng thì bị
đánh đập, bỏ đói trong nhiều
ngày. Thậm chí có cô
còn bị hãm hiếp. Trong thư
cầu cứu ngày 28-11-2000 gửi tới cộng
đồng VN hải ngoại, họ đã kêu thống
thiết: "Từ khi bước chân sang đây
làm việc, chúng tôi đã bị
công ty Daewoosa vi phạm hợp đồng và
chà đạp quá nhiều. Uất ức và
phẫn nộ, chúng tôi đã gửi nhiều
đơn thư kêu cứu về Công ty Du lịch
12 và bộ Lao Ðộng, báo Phụ Nữ ở
trong nước nhưng đều không nhận
được sự giúp đỡ khả quan
nào, mà tình trạng càng ngày
càng dẫn đến tồi tệ .." Giải
thích vấn đề, trên tờ Lao Động
ra ngày 5-01-2001, Giám đốc Công ty Du lịch
12 đã ngang nhiên bênh vực phía chủ
nhân Đại Hàn, còn trách móc đổ
lỗi cho công nhân. Đang khi để được
chấp nhận đi làm việc nước
ngoài, mỗi công nhân đã phải
đóng cho Công ty này (công ty nhà nước
chuyên trách xuất khẩu công nhân) từ
3.000 đến 5.000 mỹ kim ! May thay, các tổ chức thiện nguyện của
cộng đồng người Việt hải ngoại tại
Hoa Kỳ đã mau chóng lên tiếng bênh vực
chị em và kêu gọi chính quyền Mỹ
can thiệp. Kết quả là ngày 28-11-2001, bộ
Lao động HK đã khởi tố ông Kil Soo
Lee, chủ nhân công ty Daewoosa về tội buôn
người. Gần 250 nạn nhân
được đưa đến Hoa Kỳ để
làm nhân chứng cho vụ kiện. Sau
đó, gần như tất cả họ được
cho định cư tại Mỹ (nguồn :
RFA).
Trên đây là vài sự kiện
điển hình (trong vô vàn sự kiện) cho
thấy thái độ "đem con bỏ chợ",
"sống chết mặc bây" của nhà cầm
quyền Cộng sản VN đối với kiều
bào. Nếu kể thêm thái độ đối
với đồng bào trong Nước đã
và đang kêu thấu tới trời vì bị
đảng viên, cán bộ, cơ quan nhà
nước hà hiếp bóc lột từ hơn 60
năm nay thì phải lên đến hàng tỷ
trường hợp. Thái độ này, theo thiển ý chúng tôi, xuất
phát từ hai nguyên nhân sau:
1- Những người Cộng sản đều bị
chủ nghĩa Mác-xít duy vật vô thần
đầu độc. Chủ nghĩa này định
nghĩa "con người là vốn quý", nghĩa
là nhìn con người duy dưới khía cạnh
kinh tế, coi giá trị con người là ở
"năng lực sản xuất" (Đảng ta
và Nhà nước ta yêu quý Việt kiều
chỉ vì xem họ là "đàn bò sữa",
thế thôi !). Lương tâm, nhân phẩm, danh
dự, tình máu mủ, nghĩa đồng bào .. trong thực tế
chỉ là những điều vô nghĩa đối
với CS. CS chỉ quý chuộng tôn thờ hai
giá trị tối thượng là quyền lực
và quyền lợi ! Còn có lợi
cho đảng, cho chế độ thì còn
được sống, còn được dùng,
còn được ban "ân huệ".
Nhược bằng ngáng trở con đường của
đảng thì phải bị gạt ra bên lề
(bị giết chết ngay hay để cho chết dần),
dẫu đó là ân nhân, thân thuộc,
bằng hữu .. Cuộc tổng
tàn sát cả trăm triệu đồng bào
do các chế độ và lãnh tụ CS
khét tiếng thực hiện trên khắp thế
giới gần 90 năm qua là những bằng chứng
mang tầm mức hoàn vũ. Riêng mảnh đất
VN cũng đã thắm máu nửa triệu
người trong cuộc Cải cách ruộng đất
(biến cố làm Hồ Chí Minh lưu danh, đặc
biệt nhờ việc giết bà Nguyễn Thị
Năm, một ân nhân của đảng; còn
Trường Chinh Đặng Xuân Khu thì nhờ
đã đấu tố cả cha mẹ mình,
và thành tích này được ngàn
đời ghi trên bia miệng qua câu đối bất
hủ: "Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ
Mác-Lê, nhục ấy đời chê thằng họ
Đặng - Hãm hại sĩ nông, đảo
điên văn hóa, tội kia sách chép
đứa tên Khu"), đât Việt cũng thắm
máu của gần 5000 nạn nhân vô tội bị
chôn sống ở Huế tết Mậu Thân, của
4-5 triệu thanh niên hai miền Nam Bắc trong cuộc
chiến tranh xâm lăng bạo tàn ngu xuẩn, của
gần trăm ngàn quân cán chính VNCH bị
đày đoạ trong các "trại cải tạo",
và của cả triệu Đồng bào phải
bỏ xác trên rừng dưới biển trong cuộc
vượt biên sau 1975 .
2- Những người CS nắm được quyền
trên Đất nước không phải do toàn
Dân trao cho qua những cuộc bầu cử quang minh
chính đại mà là do họ "cướp"
lấy (từ chính CS dùng). Những chức vụ
quan trọng trong guồng máy quốc gia mà người
CS nắm không do tranh giành bằng tài năng
và đức hạnh mà bằng thần thế
và mua bán. Lại nữa, chế
độ CS là chế độ độc đảng
độc tài, triệt tiêu mọi đảng
phái đối lập và mọi tiếng nói
đối kháng để muôn năm trường
trị. Thành ra người CS không bao giờ
thấy mình có trách nhiệm thật sự với
Nhân dân, phải trả lẽ trước Nhân
dân, phải cố gắng để xứng với
lòng tin yêu trông cậy của Nhân dân
hầu được nhân dân tiếp tục trao
quyền lực. Thành thử khi bị toàn
dân hay quốc tế phê phán là có lối
hành xử vô nhân "đem con bỏ chợ",
"sống chết mặc bây", Cộng sản liền
chống chế bằng những lời lẽ ngụy biện
đãi bôi hay bằng những hành vi khỏa
lấp giả bộ, tuy thế chẳng lừa gạt
được ai. Nhân dân ta thật chí
lý khi cải biến một câu ca dao thời danh
thành: "Mấy đời bánh đúc
có xương ? Mấy đời
CS nó thương dân mình ?"
Để Đất nước VN thực sự
có một chính quyền biết nghe tiếng
Dân, biết lo cho Dân, biết sợ phản ứng
của Dân và biết lãnh trách nhiệm
trước Dân, thì cần có hai điều
kiện cơ bản:
(1) học thuyết phi nhân bản
phản dân tộc, độc hại dối trá
là chủ nghĩa Mác-Lê duy vật, vô thần
phải biến sạch khỏi tâm trí
người Việt và môi trường Nước
Việt;
(2) cái chế độ tiếm
quyền tiếm danh, độc tài độc đảng
phải bị chôn táng vĩnh viễn vào
quá khứ, nhường chỗ cho một chế
độ dân chủ đa nguyên, một Nhà
nước do Dân chọn ra qua những cuộc bầu
cử đích thực.
BAN BIÊN TẬP báo TỰ DO NGÔN LUẬN số 9
(TRẦN VIỆT YÊN & CHINH
NGUYÊN chuyển)