HÀNH TRÌNH TÌM VỀ NHỮNG
NẤM MỘ HOANG
LTS: Ngày 9 Tháng Chín, 2006, nhật
báo Người Việt đăng bài viết
"31 Năm Sau, Người Lính Ấy Ðã Về
Với Gia Ðình .." kể lại cuộc
hành trình của một người con gái
tìm lại được xác cha là một cựu
thiếu tá Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa, qua đời trong tù cải tạo thuộc
tỉnh Yên Bái (Hoàng Liên Sơn cũ).
Ngay sau đó, Người Việt đã nhận
được nhiều e-mail, điện thoại chia sẻ
tình cảm. Bên cạnh đó, khá nhiều
độc giả muốn tìm hiểu về việc
đi tìm lại tung tích của
những ngôi mộ của các sĩ quan Việt
Nam Cộng Hòa đã nằm lại Hoàng
Liên Sơn trong thời gian đi tù cải tạo
sau 30 Tháng Tư, 1975. Ðáp lại
tình cảm của độc giả, cộng tác
viên Trần Tiến Dũng của nhật
báo Người Việt đã từ Sài
Gòn lên đường đi Yên Bái.
Sau gần một tuần lưu lại tại đây,
phóng viên Trần Tiến Dũng đã tiếp
xúc nhiều cư dân địa phương, ghi lại
những tâm tình của người địa
phương đối với "sĩ quan Ngụy"
và đối với cuộc đi tìm lại những
ngôi mộ hoang.
Sinh Nam tử Bắc
Lấy vé từ bến xe Mỹ Ðình
đi Yên Bái, ngồi chờ chiếc xe khách
loại xe 24 chỗ ngồi "nghĩa địa Nhật
Bản" rời bến, tâm trạng chúng
tôi lúc đó mất phương hướng.
Với những người từ miền Nam ra,
vùng thượng du Bắc Bộ đúng là
sương giá mù mịt. Nhưng chúng
tôi vẫn may mắn có những người
bán hàng rong và những người nhà
quê chân chất để làm bạn đường
trò chuyện. Chỉ nội chuyện
đó không thôi đã cực kỳ
khác biệt nếu so với những người sĩ
quan quân đội VNCH mà 31 năm trước,
được đưa từ miền xuôi lên mạn
ngược này để học tập cải tạo.
Người ta kể, lúc ấy họ
được đưa đi thẳng vào bóng
đêm hun hút và đầu Xuân năm ấy
tiết trời vẫn rất lạnh.
Cho đến tận hôm nay, một đặc
điểm của các chiếc xe
khách chạy các tuyến đường ở miền
Bắc là không có ảnh thờ Phật hay
Chúa bên cạnh tài xế.
Người phụ nữ ngồi cạnh tôi
nói: "Tôi xuống Ðoan Hùng - Phú Thọ,
đi xe 19 chúng vất giữa đường, xe 21
này mới về đến nơi. Bác có tiền
đi chơi sướng nhỉ !"
Cảnh giác người lạ nên chúng
tôi chỉ cho bà biết một phần của
lý do chúng tôi phải lên ngược.
Bà lại nói: "Bốc mộ là duy
tâm, tốn kém, nhưng không bốc các cụ
về lại không yên tâm. Hồi đầu
chiến tranh anh tôi đi, tôi bảo giấy tờ
nhà ở Hà Nội cho cháu thuê nhờ phải
rõ ràng. Anh không nghe bảo đi
chóng về ấy mà. Ðến
giờ bên họ nhà chồng bảo trả
xác. Nhà không trả cho
tôi, nghìn năm tôi không trả xác
anh. Tôi ở với anh dù anh sống hay chết
có khổ, tang thương mấy chẳng màng
nhưng tôi còn thằng con phải giữ cho
nó để hưởng cái chính
sách".
Chiếc xe khách vẫn cứ
quay đầu vòng vòng để đón
khách trong địa phận Hà Nội. Xe mấy
lượt chạy qua chạy lại cơ quan ban quản
lý dự án PMU 18. Bực
mình bà lại chỉ tay
vào cái tòa nhà to đùng ấy
nói: "Ðấy không khéo chúng ấy
ăn mất cả phần con tôi".
Người cán bộ trẻ vẫn đội
mũ cối, ngồi ở băng ghế trước quay
xuống hỏi: "Thế bác nhà bà hy sinh ở
Ðiện Biên Phủ à ! May
mà còn trông được cái bằng liệt
sĩ, trông gì cái nhà ở Hà Nội
mà bác gay gắt thế !"
Khi biết chúng tôi tìm ra tận
Yên Bái - Hoàng Liên Sơn để
tìm mộ người thân sau 1975 đi tập
trung cải tạo.
Bà Ðức (tên người đàn bà
ngồi cạnh tôi) sửng sốt: "Ối giời ! thế tôi cứ
tưởng chỉ có người vượt
đường vào trong ấy tìm mộ bộ
đội. Sao các bác nhà anh lại không
may thế nhỉ. Chiến tranh kinh thật
!"
Cảnh sống của người dân và bộ
mặt các thị trấn ven quốc lộ 20 với
các bảng hiệu, hàng hóa và các bảng
quảng cáo tiếng Anh đa dạng mà bừa bộn
như hình ảnh các thị trấn miền Nam
vào thời kỳ người Mỹ có mặt ở
thập niên 60. Những bảng hiệu chữ to mời
ăn đặc sản dê núi,
gà đồi là ấn tượng thượng
du Tây Bắc "thời đại" nhất.
Ði qua khu di tích đền Hùng - Phú
Thọ, bà Ðức xuống xe
vì có việc. Người phụ nữ mặc
áo màu hoa cà, ngồi thế vào chỗ
bà Ðức. Một lúc sau, tôi đem chuyện
đi tìm mộ sĩ quan "Ngụy" đi học
tập cải tạo, để hỏi thăm quanh
vùng này chị có nghe có biết về
chuyện ấy không. Chị nói chuyện với
tôi thông qua cái khẩu trang bít kín nửa
gương mặt: "Nếu có nhà nước
phải báo chứ đã đưa người
ta ra tận đây kia mà".
Xe vào vùng núi Phú Hộ. Cô sinh
viên sư phạm đi cùng tuyến với
chúng tôi về huyện Trấn Yên - Yên
Bái, loáng thoáng nghe chuyện, bỗng
nhiên cô hỏi: "Thế người chú
tìm ra ngoài này đi buôn hàng Trung Quốc
hay du lịch ạ ?"
Nhìn vẻ hồn nhiên của cô
gái Bắc thế hệ 8x, trong tình cảnh chuyện
trò để giết thời gian trên xe khách
này; chúng tôi không biết phải giải
thích sao cho đủ nghĩa về lịch sử của
các bên liên quan trong cuộc chiến tranh dai dẳng
và ác liệt nhất của lịch sử
dân tộc và số phận nghiệt ngã của
những người lính miền Nam sau chiến tranh.
Không riêng gì người
trong nước mà cả ở hải ngoại,
có rất nhiều người lúc này cho rằng
cái quí giá nhất mà dân tộc
đã có là hòa bình. Ðã hơn ba
mươi năm rồi không nên tiếp tục mở
miệng vết thương chiến tranh. Nhưng trong trường hợp của chúng
tôi, biết phải trả lời ra sao cho cô sinh
viên này. Chúng tôi không thể
đáp rằng: Không gì hết cháu ạ,
người chú định tìm chỉ từ miền
Nam
ra đây để chịu đói khổ rồi
chết mà thôi.
Mùa Thu Trung Du không phải
là một quan tòa nhưng khí hậu khắc
nghiệt, đồi núi và cây rừng chập
chùng chắn ngang tầm mắt này luôn nhắc
người ta rằng, không hề có một
ý thức hệ, một giá trị tư tưởng
nào biết tổn thương, chỉ sự thật
của số phận con người mới biết
đau đớn. Từng số phận con người mới
chính là lịch sử chân thật nhất, phần
vô giá nhất của lương tri dân tộc.
31 năm trên đồi
sương giá
Lúc tôi xuống thị xã
Yên Bái, mặt trời đã khuất dù
chỉ mới 15 giờ chiều. Và thật sự tôi không
biết phải chọn bến nào để xuống
trong cái thị xã nằm sát cạnh
dòng sông Hồng mùa nước kiệt.
Tôi có mặt ở đây chỉ với một
thôi thúc nôn nao lạ kỳ là muốn
đến ngay cái đồi Cây Khế thuộc
xã Việt Cường. Trong sổ tay của tôi
có cả số điện thoại của người
đàn ông giữ gìn ngôi mộ của
Thiếu Tá Nguyễn Văn Nô suốt 29 năm
và chờ đến khi thân nhân của người
sĩ quan bất hạnh ấy ra tận nơi đưa
phần xương cốt và vài kỷ vật của
một người tù cải tạo về nhà.
Lúc ấy tôi không rõ lý do vì sao
tôi không nói địa chỉ và nội
dung câu chuyện "31 năm sau .."
với người chạy xe ôm. Tôi chỉ
nói với anh ta rằng tôi ra đây để
tìm bà con họ hàng thất lạc và
đồng ý cái giá một trăm ngàn
để vào xã Việt Cường. Anh H. chạy
xe ôm nói: "Bác yên
tâm. Em là giáo viên tranh thủ vài cuốc
xe. Không phải bọn
láo nhận tiếng bác người trong ấy ra
để chém đâu".
Qua cầu sắt Yên Bái bắc qua sông Hồng
hướng về phía Nghĩa Lộ một đoạn,
anh xe ôm rẽ trái. Với
người gần như đã mất phương
hướng như tôi, đường vào xã
miền núi có lúc theo
các chân các đồi chè mà lên
trời có lúc lại theo các nấc ruộng
bậc thang mà xuống địa ngục. Ðường
cứ dài mãi ra, dân cư thưa dần,
khí lạnh của núi rừng làm tôi ớn
sống lưng; tôi thấy hối hận vì
đã trao sinh mạng cho người chạy xe ôm. Núi-rừng-người
lúc ấy quả là chập chùng ác hiểm.
Có vẻ như con đường này sẽ
không đưa tôi tới nơi muốn tới. Tôi muốn dừng lại để hỏi
thăm đường. Anh xe
ôm lại nói chả cần, tôi biết
nơi phải tới bác cứ yên tâm.
Tôi đập vào lưng anh ta bảo dừng lại
ngay ! Chiếc xe Honda
đang xuôi dốc bổng xoay đầu. Anh xe ôm cười hì hì. Ðấy hỏi thì hỏi cho bác
yên tâm. Trước mặt chúng tôi
có ngôi nhà nhỏ, có bảng hiệu gỗ
viết bằng phấn học sinh: Sửa xe
đạp và xe máy. Nhận mặt người sửa
xe, anh xe ôm reo lên: "Ối giời, bác Hùng ! Ðấy đã
bảo bác yên tâm mà. Xã
này toàn người quen của tôi cả".
Chúng tôi biết anh xe ôm gặp
được người quen cũng chỉ là
ăn may, chứ thật ra anh xe ôm áo trong quần,
giày tây bóng loáng, hoàn toàn
mù tịt đường đi nước bước
cái xã miền núi này. Anh
Hùng mời chúng tôi vào nhà uống
chè. Và quan trọng hơn hết là
điều anh Hùng cho tôi biết địa danh
đồi Cây Khế ở ngay sau lưng nhà anh,
còn ông Ðỗ Công Huyên chính là
hàng xóm của anh. Từ Nam ra với ngần ấy
đường trời nẻo đất, với bao lo
âu nhưng chỉ trong một thoáng, trong ngôi
nhà vách ván đơn sơ mà
tươm tất của anh Hùng, cái cảm
giác bình an tưởng mất
đã trở lại với tôi. Sau
này tôi được biết tất cả những
người thân của các sĩ quan VNCH ra
đây tìm mộ đều được người
dân địa phương đối xử tử tế.
Ai cũng biết dù sao tìm xác lính Mỹ
cũng có lợi, tìm mộ lính
"cách mạng" hưởng danh, còn lo cho
lính "Ngụy" cải tạo chết là trọn
nghĩa tử là nghĩa tận, trọn cái
tánh người và chỉ cầu mỗi cái
may là không bị chụp mũ.
Anh Hùng, tên đầy đủ là
Lê Ðức Hùng, đại úy bộ đội
phục viên. Khác với những người
cùng làng dân kinh tế Nam Ðịnh -
Thái Bình ra lập nghiệp, anh là người
có cội nguồn ở đất Việt Cường.
Biết mục đích ra đây của tôi,
anh nói: "Ngày xưa tôi và các
bác ấy ở hai bên chiến tuyến. Anh nghĩ có thể làm được
gì khác ngoài chuyện bắn nhau nào.
Bây giờ các bác ấy nằm
lại đất này, làm gì được
chúng tôi sẽ làm, thú thật không
ngại gì hết".
Với nhiệt tình của người
dân miền núi, anh vội vã đưa ngay
chúng tôi đến nhà ông Ðỗ
Công Huyên. Theo
hướng mặt trời lặn, nhà ông
Huyên nằm ở phía phải sát cạnh
chân đồi Cây Khế. Ông Huyên
được người nhà gọi từ
nương chè về, tay còn lấm đất.
Trong bài báo "31 năm sau, người
lính ấy đã về với gia đình
.." kể từ lúc Thiếu Tá Nguyễn
Văn Nô nằm xuống trên đồi Cây Khế,
cho tới khi chỉ tìm thấy một phần
xương cốt và vài món vật dụng
của một kiếp người, suốt chiều
dài thời gian ấy hình ảnh ông Ðỗ
Công Huyên luôn gắn bó thiết thân với
linh hồn của Thiếu Tá Nô. Gắn bó
như một người bạn chân tình
! Thiếu Tá Nô ngộ độc
chết vì uống nước sắn luộc, điều
này nhiều người bạn tù của thiếu
tá biết. Họ cũng biết
và luôn luôn nhớ sâu bền về nhiều
trường hợp chết khác của các bạn
tù. Nhưng từ ngày ấy, người ở
lại kề cận với 51 ngôi mộ hoang, ở lại
bầu bạn với 51 linh hồn trên đồi
Cây Khế quanh năm sương giá này chỉ
mỗi ông Ðỗ Công Huyên.
Ông Huyên có một danh sách người
chết bằng giấy học trò, do tự bàn
tay thô kệch thợ rừng của ông nắn
nót ghi chép tên, tuổi, nguyên quán,
ngày sinh, ngày chết của từng người
sĩ quan VNCH học tập cải tạo đã chết
trong khoảng từ năm 1975 đến 1978 ở trại
cải tạo Việt Cường, tỉnh Hoàng
Liên Sơn cũ.
Ông Huyên đưa chúng tôi lên
đồi Cây Khế. Ông từng đi bộ
đội ở Lào, sau 1975 về đây làm
người giữ rừng và bầu bạn với
các ngôi mộ hoang. Suốt đoạn đường
leo đồi ông Huyên không
nói gì. Trong ánh sáng nhợt nhạt của
chiều lạnh trên đồi, gương mặt
nhân hậu đến mức thâm trầm của
ông Huyên lúc ẩn lúc hiện giữa
cây cỏ và gió rừng. Lúc
đó tôi có cảm giác với riêng
ông, trong không gian và thời gian trên ngọn
ngọn đồi giá lạnh này không tồn
tại biên giới giữa người sống
và người đã khuất. Ông
Huyên cúi thấp người vạch đám cỏ
dại để lộ ra một tấm bia
bằng xi măng đen xỉn, bia chỉ to bằng hai
bàn tay. Ðột nhiên ông nói:
"Ðây là mộ gởi lại. Bác
này là Nguyễn Quang Tôn, sinh năm 1930 ở Hữu
Quang - Sơn Tây, nhà ở phường cư
xá, quận 3 Sài Gòn. Anh trai
bác ấy là sĩ quan bộ đội cấp
tá đấy. Ông ấy có
cùng người nhà ra tận đây, tìm
thấy mộ người em rồi nói. Thôi thì tìm thấy chú rồi,
chú yên tâm mà ở lại đây bao
giờ có điều kiện tôi lại ra
đưa chú về. Thế là
họ về, gởi mộ bác Tôn lại cho
tôi mãi không thấy họ ra".
Trước mắt chúng tôi là cả
đồi Cây Khế, trước đây là
nơi yên nghĩ của hơn 51 sĩ quan cấp
tá và tướng của quân đội VNCH;
đến nay cả ngọn đồi này chỉ
còn lại 12 ngôi mộ còn bia và 5
ngôi mộ mất bia. Và chỉ duy nhất
ngôi mộ Nguyễn Quang Tôn phải ở lại
dù đã gặp thân nhân.
Hơn ba mươi năm hòa
bình, đa phần các người lính chết
mất tích của quân đội cách mạng
và của quân đội đồng minh mà
đứng đầu là Hoa Kỳ đều
đã được trở về nhà. Vì sao cùng một hoàn cảnh mà chỉ
những người lính VNCH trong chiến tranh và
sau chiến tranh là phải gánh chịu hết sự
oan trái nằm lại với bờ bụi vô danh.
Ðứng trước ngôi mộ "gởi lại",
chúng tôi định kể cho bác Huyên, anh
xe ôm và ba đứa trẻ chăn trâu nghe
chuyện: Sau cuộc nội chiến Nam-Bắc Mỹ, ngay
giữa nghĩa trang thủ đô Hoa Kỳ của phe
miền Bắc thắng trận vẫn có một khu mộ
và tượng đài tưởng niệm những
người lính miền Nam.
Bác Huyên tiếp tục đưa tôi
đi và tự tay vạch tìm từng
tấm bia mộ nằm khuất trong đám cỏ dại
đẫm sương chiều. Bác hỏi: "Thế
anh ra đây không quen có thấy lạnh không ? Trước
đây rừng còn độc hơn giờ nhiều.
Mà lúc ấy đa số các
ông sĩ quan miền Nam này ra đến
đây đều có tuổi cao cả đấy".
Thời gian bác Huyên bầu bạn
với những linh hồn lính miền Nam
đã dài hơn cả cuộc chiến tranh
mười ngàn ngày trước đây. Chiến tranh tuy
đã kết thúc nhưng sao cuối cùng chỉ
mỗi nắm xương tàn và linh hồn
không tan của những người này phải tiếp
tục trả giá, phải tiếp tục chịu mọi
hậu quả của cuộc chiến tàn khốc
đó.
Gió lại lạnh hơn, nhưng không
gì có thể nghe thấu cái lạnh vùng
thượng du đất Bắc bằng chính những
tấm mộ bia đang nghiêng đổ trên đồi
Cây Khế. Những tấm mộ bia nhỏ bé,
sơ sài mang trên đó là những
cái tên, ngày sinh, ngày chết, mang trên
đó là cả khát khao mong ngóng gặp
người thân đến mức tuyệt vọng. Ðó phải chăng là sự bấu
víu cuối cùng trước khi chết một lần
nữa, trước khi lạc mất vào vô danh.
Suối nước mắt
Nhà ông Ðỗ Công Huyên là một
ngôi nhà xây thô, nằm ngay bên chân
đồi Cây Khế, ngay cạnh dòng suối nhỏ
không có tên, chảy về phía hai mỏm
núi sánh đôi. Nơi ấy, mỗi
ngày mặt trời buổi chiều như được
treo bằng sợi dây và thả rơi chầm chậm.
Từ trên đồi Cây Khế
xuống lại nhà, bác Huyên nói. Anh đi lối chuồng
gà vào cho dễ. Rồi
bác cười. Anh không phải
lo gà bị cúm, gà mò rất khỏe.
Dưới xuôi, gà mò gọi là gì nhỉ ?
Tôi nói, lúc lên thăm mộ
các sĩ quan VNCH, tôi có thấy đàn
gà mò của bác bay đầy trời,
có phải mỗi lần đãi cơm khách
cần giết gà thì phải hẹn với lũ
gà trước một ngày không.
Nằm tựa lưng và hơi chếch về
bên trái đồi Cây Khế xưa kia có một trạm xá của trại
cải tạo. Bác Huyên cho biết: "Khi ấy
chắc là các bệnh nhân ở trạm chết
đều được đưa cả lên đồi
Cây Khế mà chôn. Thế nên
trừ một số mộ lẻ rải rác, hầu
như các ông ấy đều nằm
đây".
Chúng tôi hỏi vì sao ở đây lại
có tên là đồi Cây Khế. Bác
Huyên nói: "Ðúng là có cây khế
thật. Trước đây to lắm kia,
cả vùng núi này có mỗi nó đấy,
mấy năm trước bỗng gãy ngang, chỉ mới
đâm chồi trở lại trong năm".
Trên đường quay trở lại
đồi để chụp ảnh cây khế,
chúng tôi định hỏi bác Huyên
cây khế ấy có trái ngọt hay chua. Nhưng dù sao chúng tôi vẫn
tin rằng vào ngày đầu ra đây "học
tập cải tạo", nhìn thấy cây khế,
một giống cây quen thuộc thường trồng
trước sân nhà ở miền Nam, chắc
các bác ấy cũng thấy an ủi được
phần nào.
Vạch đám cỏ và cúc dại nở
trắng trên bờ suối cho chúng tôi bước
qua, bác Huyên vẫy tôi lại gần và
chỉ vào ngôi mộ hoang không còn bia nằm thoai thoải trên triền
đồi. Bác Huyên nói: "Trước ở
đấy có hai ngôi mộ đều không
còn bia, nằm cạnh nhau như hai
luống rau nhỏ. Bây giờ thì
người nhà ra lấy một cái về rồi,
đấy anh xem cái hố vẫn còn. Cái bác được về với vợ
hẳn là vui rồi cái bác còn nằm lại
tôi nghĩ cũng phấn khởi. Tôi
không là người duy tâm nhưng có chuyện
lạ đến mức không thể tin mà lại
thật anh ạ".
Bác Huyên kể, chỉ còn nhớ
tên người dưới mộ không bia mới được bốc về
nhà là ông Thạnh, người vợ ra
đưa chồng về có tên là bà
Lanh. Những năm tháng vừa kết
thúc chiến tranh với Trung Quốc đường
đất nơi đây còn khó khăn vô
cùng. Lần đầu khi tìm
được nhà Bác Huyên người vợ
sĩ quan học tập cải tạo ấy đã
khóc nức nở. Bà Lanh kể
với bác Huyên rằng chồng bà về
báo mộng chỉ rõ địa danh này để
bà tìm. Và trong mộng người chồng
luôn lập đi lập lại với vợ mình
rằng: "Anh nằm cạnh con suối, lạnh lắm !" Bác Huyên hiểu chuyện,
tận tâm đưa người vợ đi xem từng
tấm mộ bia nhưng không
tìm được mộ. Chắc
là thời gian và trâu bò làm mất dấu
vết cả rồi. Chỉ tay
vào hai ngôi mộ hoang nằm cạnh dòng suối,
bác Huyên nói. Tôi nghi một
trong hai cái mộ này là chồng bà.
Bà Lanh hoang mang. Lỡ không
đúng là chồng tôi thì tội lắm
bác ơi !
Bà ở lại nhà Bác
Huyên đôi ngày rồi quay về Nam. Năm sau trở ra, lại
vừa nói vừa khóc. Anh ấy lại về
báo mộng là nằm cạnh con suối, lạnh
lắm ! Nhưng rồi
bà vẫn không quyết định được
chuyện phải bốc ngôi mộ nào. Trong suốt những năm dài đằng
đẳng ấy người chồng vẫn cứ
tìm vào giấc mơ người vợ chỉ
để nói mỗi một câu. Anh nằm cạnh
con suối, lạnh lắm ! Bác Huyên nhớ là người
đàn bà ấy phải dành dụm từng
đồng tiền, một thân một mình đi
ra đi vào bốn lượt. Lần
cuối cùng bà Lanh chỉ vào ngôi mộ
đất thấp, nằm gần kề con suối nhất.
Rồi bà quỳ xuống cầu nguyện
trong nước mắt. Ngôi mộ không bia đó được bốc lên.
Mấy mươi năm rồi đất mềm
như đất mới cày, xương cốt chẳng
còn được là mấy. Duy chỉ
còn một cái lọ sành nhỏ mà
các bạn tù ngày ấy chôn theo xác là lành lặn. Ðập
vỡ ra, trong đó có cái thẻ căn
cước vẫn còn rõ tên người chồng.
Cầu nguyện giữa
núi lạnh
Chúng tôi từ Việt Cường đi
Vân Hội, con đường độc đạo quấn
quít ôm chân các đồi chè, đồi
cọ, đồi bạch đàn. Cả con đường
hàng chục cây số không hàng quán,
không trạm điện thoại; chỉ xa xa một
căn nhà xây thô, nếu có gọi chủ
nhà hỏi thăm cũng không ai trả lời,
đến cả mấy chú chó cũng theo người
đi nương hết ấy mà.
Anh Lê Ðức Hùng bỏ việc
nương rẫy để hướng dẫn tôi
đi tìm mộ. Anh bảo
tôi qua cho anh chở, anh cho rằng đi trên đoạn
đường núi tôi sẽ không an toàn
nếu tiếp tục ngồi sau tay
lái của người chạy xe ôm không quen
đường.
Ở vùng này chỉ có
vài ngọn đồi được người
dân đặt tên riêng. Theo thông tin của anh Hùng
thì ở đồi Con Trăn có ba ngôi mộ
sĩ quan VNCH không biết còn hay đã mất
dấu. Tôi hỏi vì sao họ lại
chôn ở đây. Anh cho biết.
Trại cải tạo Việt Cường ngày xưa
bao trùm hết vùng núi này và chia ra
nhiều phân trại, chắc chết ở đâu
chôn tại đó chứ làm gì có
nghĩa trang chung.
Tất cả dân cư quanh đồi Con Trăn
từ người già cho đến trẻ chăn
trâu khi được hỏi về vị trí của
ba ngôi mộ "mấy ông Ngụy" đều
có vẻ rất rành. Lần đầu
tiên trong suốt mấy ngày đi tìm mộ
tôi được nghe người dân địa
phương nói rõ cấp bậc trong quân
đội VNCH của một người đã chết,
Ðại Tá Phạm Hổ.
Mộ của Ðại Tá Phạm Hổ nằm trên lưng chừng đồi
con Trăn. Bây giờ thì tôi hiểu vì
sao vị đại tá tù cải tạo này
"nổi tiếng", ngày ấy dân địa
phương cho rằng ông bị bệnh hủi,
càng xa lánh ông họ lại càng đồn
đại về ông. Với dân miền núi bệnh
hủi là một thứ nan y,
là nỗi ám ảnh tai họa. Ðến
lúc chết ông cũng được chôn
riêng. Ðại Tá Phạm Hổ
nằm một mình một vạt đồi hướng
mặt về phía Ðông. Dân
sống quanh đồi nói với tôi rằng,
lúc mới có mồ ông, ngọn đồi
đó đến trẻ chăn trâu còn không
dám héo lánh tới. Nhưng ngày nay
thì những người có tuổi biết chuyện
và cả anh Hùng lại nói khác. Nào có phải hủi gì đâu.
Ông bị bệnh nước ăn, lở
loét không trị được.
Cách đó chừng nửa cây số
đường đèo cũng dưới chân
đồi Con Trăn có một ngôi mộ
không còn bia. Mộ của Thiếu
Tướng Hoàng Công (văn) Dực. Lúc
băng qua con suối lên tìm mộ ông thiếu
tướng, anh Lê Ðức Hùng có ghé
vào nhà bà Tuyên hỏi thăm. Bà
Tuyên nói: "Ðấy nằm trên cái miếng
đất bằng của tôi, nhưng người
nhà ra lấy về năm nào rồi". Một
anh nông dân đi theo chúng
tôi lại nói: "Còn trên đấy,
lúc bé chăn trâu ngày nào tôi cũng
qua đấy. Ông ta cùng họ
Hoàng với tôi, sao tôi nhầm được".
Anh nông dân cùng với anh Hùng sục
sạo tìm cả một góc đồi Con
Trăn. Cuối cùng họ xác định một
khoảng mô đất nhỏ chính là mộ
của Thiếu Tướng Hoàng Công Dực. Anh
Hùng nói:"Thế mộ nằm trên dốc
đồi này thì không lẫn vào
đâu được".
Anh nông dân thì chỉ vào một gốc
cây cằn cỗi lẫn trong cỏ dại cao lút
đầu người khẳng định:
"Ðúng là tại gốc cây Mỡ
này đây". Chúng tôi hỏi
vì sao các bác không nhớ vị trí
và tên của người nằm trong ngôi mộ
thứ ba. Anh Hùng nói, cần
có thời gian để hỏi các cụ
già.
Theo thông tin truyền miệng của dân
địa phương cho biết: "Trên đường
vào Vân Hội có bốn ngôi mộ. Rời khỏi đồi Con Trăn chúng
tôi đi thêm gần chục cây số nữa
thì đến xã Vân Hội. Trên suốt
đoạn đường đi gặp ai anh Hùng cũng
hỏi: "Có biết mộ của mấy
"ông Ngụy" không".
Bốn ngôi mộ ven đường
mà chúng tôi tìm thấy thật ra chỉ
còn lại ba. Một anh nông dân đang gặt lúa
cho biết. Bị nước lũ
năm rồi cuốn đi một ngôi, ngôi mộ
ấy có bia nhưng cũng trôi mất, hai
ngôi còn lại phía kia.
Vạch đám cỏ sát chân miếng
ruộng tôi và anh Hùng chỉ tìm thấy
một ngôi mộ còn bia, Tấm
bia bị đất lấp hơn một nửa,
chúng tôi cố đọc dù chữ rất mờ:
Ðặng Văn Thương, sinh ngày 19-8-1928, Quận
4. Riêng ngôi mộ còn lại chúng tôi
cố hết sức để tìm tấm bia nhưng không thể. Tôi hỏi:
"Các bác có ai biết ngôi mộ
còn lại tên gì không ?"
Một người phụ nữ đang gặt
lúa nói. Tìm bà Hải, phía
quán kia mà hỏi.
Bà Hải, chủ một tiệm tạp
hóa nhỏ, lúc được bà mời
vào nhà, chúng tôi có chào cô
con gái của bà, lúc ấy cô đang ru con mọn, đứa bé ngủ trong một
cái nôi kiểu thành thị. Chính
người mẹ trẻ này là đầu
câu chuyện tìm mộ mang nhiều màu sắc
huyễn hoặc của một sĩ quan VNCH.
Bà Hải kể, ngoài đấy
có tổng cộng bốn ngôi mộ. Cái ngôi mộ mất bia ngoài đấy mà các anh
tìm là: Phạm Văn Thành ở tận
Phnom-Penh. Ngôi còn bia tên
là Ðặng Văn Thương, ở Quận
4. Ông bị suối cuốn mộ mất bia tôi không biết tên. Một ông thì người nhà bốc
về rồi. Ông ấy tên
là Phan Văn Ở, tôi còn nhớ
là nhà ở số 57, đường Nguyễn
Khoái trong Sài Gòn. Tôi là dân
kinh tế lên, từ lúc lên đây trước
nhà tôi đã có bốn ông ấy
nhưng con gái tôi nó không biết anh ạ.
Năm trước nó về xuôi ở Quỳnh Phụ
- Thái Bình học nghề may. Nó đi coi thầy
ở Quỳnh Hương vì việc cưới xin,
thầy nhìn nó rồi bảo: "Ngoài
nhà mẹ cô có bốn ngôi mộ, họ
tù đày ở đấy, quê người ta
ở xa lắm. Về bảo mẹ cô nhớ
hương khói, người ta phù hộ cho".
Con gái tôi điện về hỏi mẹ. "Anh
xem có linh không ? Tôi
mua cả bảy thước vải hàng mã về
đốt, ngày nào cũng thắp hương.
Ít hôm cô con lại điện về
bảo. Mẹ ơi thầy nói
vài hôm nữa có người nhà của
người ta ra bốc mộ. Thế mà anh con
ông Ở ra thật đấy, đi một mình,
tìm đúng nhà tôi, tôi đưa anh
ra nhận mộ bố, anh khóc kể như giời
mưa: Mười bảy năm con không một lần
nằm mơ thấy bố, mấy tháng nay
đêm nào con cũng mơ thấy bố. Bố
linh thiêng phù hộ ngày mai con đưa bố
về nhà ! Anh con ở nhà
tôi một đêm. Năm sau có bao xe đưa cả mẹ và họ
hàng ra đây cảm ơn tôi. Bà
mẹ tên là Lở, trước khi về có
đặt lên bàn một triệu đồng.
Tôi nhất định chỉ lấy một trăm
nghìn bạc. Chuyện là thế anh ạ. Năm
sau nữa bà Lở có mời mẹ con tôi
vào Sài Gòn ở chơi nhà bà. Trước khi chết vì bệnh ưng
thư ở nước Mỹ bà Lở còn để
quà, bảo với anh con trai là nhất định
phải gởi ra".
Trong ánh sáng bình minh trong suốt của
vùng Thượng Du đất Bắc, chúng
tôi chỉ có mỗi hối tiếc là
không ra được nơi này sớm hơn, nếu
sớm hơn ít năm chắc còn kịp
níu giữ danh tính của những mộ
đã bị quên lãng suốt 31 năm.
Trở lại đồi Cây Khế, tôi nhờ
anh xe ôm mua ít lễ vật,
hương nến. Giữa trưa, tôi, vợ chồng
bác Huyên, anh xe ôm và những
đứa trẻ chăn trâu cùng thắp nén
hương dâng lên những linh hồn người
lính năm ấy dù nay có còn tên hay
đã mất tên. Những đốm lửa rất
nhỏ không đủ ấm đồi Cây Khế !
Cầu nguyện cho các vong linh
còn ẩn khuất được sớm trở về
nhà. Chúng tôi
tin, chỉ khi nào những linh hồn của các
bên liên quan trong cuộc chiến tranh cũ thất
lạc về được trong vòng tay
hương khói của gia đình, chừng ấy
bao nỗi oan khiên sẽ tan. Sẽ không bao giờ có sự bình an
đúng nghĩa cho một cá nhân, một
dân tộc nếu cho đến tận hôm nay
đêm đêm vẫn còn những linh hồn
khóc giữa núi lạnh. Người lính VNCH cũng ra
đi vì lý tưởng yêu nước
chân thành. Một dân tộc
cao thượng không có núi lạnh.
TRẦN TIẾN DŨNG
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)