CHUYỆN TRÊN MÁY BAY
(Nguyễn Tường Bách)
Đứng trước bàn hải quan mà
cô ấy khóc mùi mẫn làm tôi
ái ngại. Đi nhiều nơi trên thế giới
tôi chưa thấy nơi nào nhiều nước
mắt như Tân Sơn Nhất. Người đi cũng
như người về, hai trạm đưa
đón, buồn vui cách nhau không đầy
vài chục mét. Đó là số
phận người Việt Nam ở nước
ngoài, tôi tự nhủ. Người
đi thì nghĩ mình vĩnh viễn xa cách,
người về lại không ngờ có ngày
hội ngộ. Có lẽ cô ấy vừa từ
biệt người yêu, hai người ước hẹn
những gì, cô sẽ trở lại hay người
ấy sẽ đi theo, hay sao nữa ?
Cô ấy đi chung với một
nhóm khoảng hai mươi người, mỗi
người mang trên ngực một tấm thẻ
đỏ. Nhìn các khuôn mặt nửa
náo nức nửa băn khoăn, tôi đoán
họ đi theo diện xuất cảnh.
Nhưng xuất cảnh thì thường thường
đi Mỹ, sao họ lại đi Đức một chuyến
với tôi ?
Lên xe bus ra máy bay, tôi
thấy một chị phụ nữ mặc một chiếc
áo kim tuyến lộng lẫy như đi dạ hội.
Ngồi cạnh chị hẳn là anh chồng, mặt
mày đăm chiêu, dắt theo
hai đứa con trai nhỏ. Cả ba người lớn lẫn
trẻ con đều đóng bộ complet cà vạt,
nghiêm chỉnh như sắp đi dự một buổi
đám cưới sang trọng. Tiếc
thay cho những bộ áo quần mới toanh
đó, hẳn người mặc không biết
chúng sẽ nhàu nát sau vài lần nằm
ngồi uể oải trong mười hai tiếng bay.
Đối với nhiều người,
ngày xuất cảnh là ngày trọng đại
nhất, họ phải mặc bộ áo quần đẹp
nhất, tôi tự nhủ. Nhưng
không phải chỉ có thế, họ đã
nghĩ lúc gặp người thân nơi xứ lạ
quê người, lúc đó cũng là
giây phút khó quên, họ phải xuất hiện
cho tầm cỡ chứ.
Trong xe bus, tôi tò mò
ghé mắt nhìn tấm thẻ đỏ. tấm thẻ ghi tên tuổi hành
khách và các chuyến bay, dòng cuối
cùng đề chữ "JFK". Thì ra, họ chỉ
ghé qua Đức, đi đường Đại
Tây Dương để đến sân bay J. F.
Kennedy ở New York.
Họ đi Mỹ thật, đến một
nơi xa quê hương đúng nửa vòng
trái đất. Tôi nhớ New York với vô số những
chiếc taxi màu vàng và những con đường
buổi chiều tôi đi gặp đầy những
rác. Đó là một thành
phố đủ mọi màu da và quốc tịch,
đủ hạng người và mọi thứ nghề
nghiệp. Đó là thiên
đường và cũng là nơi đầy
cà nước mắt. Các đồng
bào của tôi sẽ làm gì ở Mỹ, ở
New York, trong đó có ai sẽ
vào khu Harlem mà ở ?
Tôi phải bay mười hai tiếng để
đến Đức, nhưng chuyến du hành của
họ sẽ dài gần gấp đôi. Đến
Frankfurt, tôi sẽ xuống
máy bay nhưng với họ mới chỉ nửa
đoạn đường. Hơn hai mươi tiếng
nữa họ mới được gặp người
thân, liệu họ còn sức để
tươi cười. Một ông cụ già
không lên nổi cầu thang máy bay, phải
có người đỡ tay.
Ông cụ tìm điều gì ở New York, hay ông
đi thăm con cháu, tại sao những đứa con
xa nhà đó không về thăm để
ông đỡ nhọc nhằn ?
Trong máy bay, ngồi bên cạnh
tôi là một người Ý. Hỏi ra mới
hay ông về Việt Nam còn nhiều hơn
tôi, biết ngõ ngách Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh hơn tôi xa lắc. Nghe chuyện, tôi biết
ông nói thật. Đã gần
chục năm nay, ông chuyên cung ứng thiết bị
và dịch vụ cho ngành khai thác dầu
khí, cho các dàn khoan ngoài khơi. Đó là những công ty chuyên
môn, cung cấp toàn hàng đặc chủng,
không mấy ai biết đến. Trên thế
giới họ thuộc về một nhóm nhỏ của
những người chuyên khai thác dầu mỏ,
kiếm tiền dễ hơn trở bàn tay.
Đó là những mạng lưới
kinh doanh mà đứng đầu là các
ngài công hầu trong các vương quốc
Trung Đông, dầu mỏ đối với họ
là cơm gạo hàng ngày như của
chúng ta. Họ đến Việt Nam từ
ngày ta khai thác những tấn dầu đầu
tiên, nghiệp vụ của họ đã
được chuyên môn hóa, không ai thay thế
nổi từ những ngày xa xưa, lúc ta
còn chiến tranh. Việt Nam đã trở
thành nước sản xuất dầu khí, may cho
ta và cũng cho họ. Tôi hỏi
thêm về vấn đề bảo vệ sinh thái
ngoài khơi Việt Nam, ông mỉm cười
không nói gì cả.
"What is your business ?", người
bạn Ý hỏi người bên cạnh.
"Whisky", câu trả lời cụt ngủn
làm chúng tôi chưng hửng.
Thì ra rượu mạnh Whisky
đã trở thành một mối kinh doanh hẳn
hoi tại Việt Nam,
không phải chỉ vài ba chai lậu thuế
bán lẻ tẻ ngoài đường. "Họ
uống nhiều lắm", người kia
trả lời câu hỏi và cười bí mật.
Tôi chỉ có thể công nhận
ông nói đúng. Tôi nhớ
trong một tiệm chả cá ở Hà Nội,
có một bàn vài người ngồi mà
uống hết hai chai cognac. Người
ngoại quốc ngồi xung quanh nhìn nhau ngạc
nhiên trước sức uống và cách uống
của người mình.
Tôi hỏi thăm một người
Việt trẻ tuổi về thăm nhà. Hôm nay anh ra đi, mặt
mày còn mang niềm quyến luyến. "Cháu ở Strassburg từ sáu năm
nay". "Ở Strassburg sao không đi máy
bay Air France
mà qua Đức làm chi cho phiền ?",
"Dạ, phải đi cho thế cho Tây khỏi biết".
Đúng rồi, đó là lý do tại sao
bà con "tị nạn" ở Đức thì
qua Hà Lan hay Thụy Sĩ mà
đi, ở Pháp thì chạy qua Đức mà
lên máy bay mà về Việt Nam. Đối với
chính quyền sở tại thì bà con tị nạn
đó, những người bị Việt Nam
"ngược đãi" đó, chỉ
lên máy bay đi du lịch các nước xung
quanh. Đến các nước trung gian, bà con mới
rút trong túi bên kia giấy
máy bay bửu bối nhắm hướng Thành phố
Hồ Chí Minh. "Đi bằng hai vé máy bay
rời mà bố cháu cũng không dám
đi, ông đợi vô quốc tịch đã
mới dám về". Tôi hỏi số
tuổi ông bố, hỏi đợi bao lâu nữa
mới vào quốc tịch và thầm mong thời
gian sẽ đợi lại ông.
Mới đi hơn một tiếng
đồng hồ mà chị phụ nữ nọ xem ra
vừa lạnh vừa mệt. Chiếc áo kim tuyến hở
tay hở ngực không giúp được bao
nhiêu trong bầu không khí máy bay khá lạnh.
Chị không biết đến tấm
chăn để bên cạnh dành cho hành
khách. Tôi đưa cho chị tấm
chăn. Ông chồng thấy vậy bắt chuyện
ân cần. Nghe tôi ở Đức,
anh hỏi Mỹ hay Đức nơi nào àm ăn dễ hơn. Ở Mỹ
dễ hơn nhiều, tôi nói. "Hễ
có sức và chịu làm việc, thế
nào cũng có việc làm". Nghe xong anh tin tưởng ra mặt. Chị vợ
ngồi nghe chăm chú: "Dạ, em qua bên
đó tính làm neo, anh thấy sao
?". "Được đó,
nghề làm móng tay, điểm lông mày
bên Mỹ bây giờ sống lắm". Khuôn mặt mệt mỏi của chị
tươi lên. Tôi nói bừa
thế thôi, như tôi làm sao mà biết
bên Mỹ nghề nào sống chết.
Nhưng làm sao tôi có thể làm ai thất
vọng được trên bước đường
này của họ ? Nhất
định tôi sẽ không nói bên Mỹ
chuyện thất nghiệp xảy ra như cơm bữa
và tôi cũng không vội nói chị phải
học nghề này hai năm mới được
làm việc.
Tôi hỏi tại sao cả gia
đình ra đi. "Dạ, đời sống khó khăn
quá, kiếm không ra đồng tiền".
Tôi đưa mắt nhìn hai người bạn
ngoại quốc đang ngồi ở khoang máy bay
phía trước. Hai người đó, kẻ
bán rượu, người khoan dầu đã trờ
thành tâm đắc từ hồi nào, họ
đang nói gì về chúng tôi
?
Cô gái khóc vùi hồi
chiều đang tìm cách tập trung đọc một
cuốn sách nhưng hình như không đọc
được. Người yêu cô đã xa cả
ngàn cây số và không biết bao giờ gặp
lại. Bên cạnh cô, một ông đứng
tuổi đang lôi từng chồng sách ra,
toàn là sách triết lý đạo Phật.
Có lẽ ông đem tặng bà con mộ đạo
bên Mỹ vì mỗi thứ hai ba quyển giống
nhau. "Vạn pháp vô thường",
tôi thoáng thấy một câu. Nếu cô gái hiểu được
câu đó, có lẽ sẽ đỡ khổ
cho cô.
Tiếp viên dọn thức ăn
ra. Tôi đã quá ngán thứ thức ăn trên máy bay, thứ đã
hâm đi hâm lại nhiều lần. Tôi
bỗng thèm một tô mì hoành thánh.
Giờ này, Thành phố của
tôi đã đi vào giấc ngủ, các chị
quét đường đã bắt đầu
quét sàn sạt. Có ai trong số
những người này sẽ bị số phận
đẩy đi quét đường tại New York, tôi tự
hỏi với lòng nhói đau. Giờ
này, trên các đường thân thiết
của tôi, chắc các em bán xe
mì vẫn còn gõ mõ lóc cóc trong
đêm tối và các bác xích-lô vẫn
lặng lẽ đạp xe kiếm khách. Thành phố đi ngủ nhưng vẫn sống
thiết tha. Tôi sẽ cố ngủ vài tiếng
trên máy bay, khi tôi thức dậy thì
bên mình hẳn đã ăn sáng xong
và đang uống cà-phê đá.
Các xa lộ vùng Frankfurt
đã hiện ra dưới cánh máy bay, trong
ánh sáng xám đục của một
ngày mùa đông. Nếu ở phố cổ
Hà Nội tôi sẽ gọi thứ ánh
sáng này là "trữ tình" nhưng
bây giờ chút lòng nghệ sĩ của
tôi đã biến mất vì nhọc mệt. Cụ
già kia mới đi nửa
đường mà trông đã yếu hẳn
rồi. Chị phụ nữ cuộn tròn người
mà ngủ, chị đang mơ làm neo tại Mỹ
hay thấy mình còn ở Việt Nam ? Ôi, còn nửa
đường nữa, bao giờ mới đến.
Đến rồi thì "làm gì cho hết nửa
đời sau ?" .
12.1995
NGUYỄN TƯỜNG BÁCH
(Bai Chuyen)