SU'U TÂ`M 1

Home | VA(N | VA(N [tt] | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | VA(N 16 | VA(N 17 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 2 * | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | VA(N VUI 6 | VA(N VUI 7 | VA(N VUI 8 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BÀI VIÊ'T 12 | BÀI VIÊ'T 13 | BÀI VIÊ'T 14 | BÀI VIÊ'T 15 | BÀI VIÊ'T 16 | BÀI VIÊ'T 17 | BÀI VIÊ'T 18

kiengiang.jpg

RẠCH GIÁ HÀ TIÊN


RẠCH GIÁ - HÀ TIÊN

[trích đoạn]

(GS Nguyễn Thanh Liêm)

 

Tổng Quát:

 

Tỉnh Kiên Giang (Rạch Giá) là tỉnh ở về phía cuối Miền Tây Nam nước Việt, cách Sài G̣n 250 km (156 miles). Về phía Đông và Đông Nam, Kiên Giang giáp với các tỉnh An Giang và Cần Thơ, về phía Nam giáp với Cà Mau, và về phía Bắc giáp với Kampuchia, với đường biên giới chung dài 54 km. Phía Tây của Kiên Giang là Vịnh Thái Lan.

 

Với diện tích 6, 253 km vuông, và với dân số hơn 1 triệu 600 ngàn người (2004), Kiên Giang hiện có 11 huyện là Hà Tiên, Ḥn Đất, Tân Hiệp, Châu Thành, Giồng Riềng, G̣ Quao, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, và hai huyện đảo là Phú Quốc và Kiên Hải. Kiên Giang có hai thị xă là Rạch Giá và Hà Tiên.

 

Ba dân tộc sống ở đây là người Việt (người Kinh), người Miên (Khmer) và người Hoa.

 

Kiên Giang, trong đất liền, có nhiều núi thấp như núi Đại Tô Châu (cao 178 m, hay 234 ft), núi Ḥn Sóc (cao 187 m), núi Ḥn Đất (cao 260 m), núi Vân Sơn, núi Địa Tạng v v .. Trong Vịnh Thái Lan, Kiên Giang có hơn 100 ḥn đảo lớn nhỏ như Ḥn Tre, ḥn Thổ Châu, ḥn Chông, ḥn Rai, ḥn Mấu, ḥn Nam Du .. Đảo Phú Quốc là đảo lớn nhất với 566 km vuông, dài 50 km, ngang rộng nhất 29 km, trên đảo có dăy núi Tà Lơn với những ngọn cao như Hàm Rồng (cao 365 m), núi Chúa (cao 603 m), núi Mắt Quỷ (cao 360 m).

 

Kiên Giang có khu rừng ngập nước ở phía Nam là khu U Minh Thượng, có nhiều sông và kinh rạch chằng chịt như sông Trèm Trẹm, sông Cái Lớn, sông Cái Bé, kinh Hà Tiên, kinh Cái Sắn, kinh Tân Hiệp, kinh Ba Thê, kinh Thốt Nốt, kinh Cán Gáo, rạch Giang Thành, rạch Sỏi, v v ..

 

Những liên tỉnh lộ số 8 và số 12 là những trục giao thông quan trọng nối liền Kiên Giang với các tỉnh khác. Có ba phi trường chính đặt ở Hà Tiên, Rạch Giá, và Dương Đông (Phú Quốc).

 

Rạch Giá - Hà Tiên có nhiều danh lam thắng cảnh, có những di tích lịch sử quan trọng, nhiều đền chùa nói lên sinh hoạt tôn giáo, tín ngưởng đặc biệt của người dân ở đây, và nhất là "Chiêu Anh Các", thường được xem là trung tâm văn học ở Miền cực Nam nước Việt hồi hơn thế kỷ trước.

.. .. ..

Văn Học Hà Tiên

 

Sau khi nhận định về phong cảnh Hà Tiên:

"Muốn đem so sánh với những danh lam thắng tích, muốn đem so sánh với những danh sơn đại xuyên, th́ phong cảnh Hà Tiên thực hăy c̣n thua kém nhiều nơi lắm.

Nhưng mà Hà Tiên dễ yêu, dễ cảm nhiễm người, v́ ở đó núi rừng không cao rậm lắm, đến cho người ngắm hăi hùng, biển hồ không sâu rộng lắm, đến cho người nh́n kinh sợ. Ở đó như một cảnh giả sơn thân mật, trong hoa viên, mỗi cảnh nhỏ nhỏ xinh xinh vừa đủ để cho tầm ngoạn thưởng.

 

Ở đó kỳ thú thay, như hầu đủ hết.

Có một ít hang sâu, động hiểm của Lạng Sơn. Có một ít ngọn đá chơi vơi giữa biển của Hạ Long. Có một ít núi vôi của Ninh B́nh, một ít thạch thất, sơn môn của Hương Tích. Có một ít Tây Hồ, một ít Hương Giang. Có một ít chùa chiền của Bắc Ninh, lăng tẩm của Thuận Hóa. Có một ít Đồ Sơn, Cửa Tùng, có một ít Nha Trang, Long Hải.

 

Ở đây không có một cảnh nào to lớn đầy đủ; Ở đây chỉ nhỏ nhắn xinh xinh, mà cảnh nào cũng có.

Phân tích được điều đó, rồi mới biết v́ sao, ai đến thăm Hà Tiên, thoạt nh́n, không thấy có cảnh nào đặc sắc, mà sao ḷng cứ như lưu luyến để say ḷng.

 

Chính cũng nhờ những tính cách đặc thù đó của danh thắng, mà Hà Tiên là một miếng đất màu mỡ cho hạt giống văn chương, văn học dễ phát sinh." (Đông Hồ, Văn Học Miền Nam Văn Học Hà Tiên, Qúnh Lâm xuất bản, 1970, tr. 27).

 

Đông Hồ đă đi đến kết luận rằng: "Chính cũng nhờ những tính cách đặc thù đó của danh thắng, mà Hà Tiên là một miếng đất màu mỡ cho hạt giống văn chương, văn học dễ phát sinh."

 

Văn chương phát sinh sớm nhất ở đây là các tác phẩm và tác giả trong tao đàn Chiêu Anh Các do Mạc Thiên Tích sáng lập hồi năm 1736. Văn đàn gồm từ 32 đến 37 người, phần lớn là người Trung Hoa, sống ở Quảng Đông và có thể chưa hề đến Hà Tiên bao giờ. Theo Trịnh Hoài Đức th́ tao đàn đă sản xuất 6 tác phẩm: (1) Hà Tiên Thập Cảnh Toàn Tập, (2) Minh Bột Di Ngư Thi Thảo, (3) Hà Tiên Vịnh Vật Thi Tuyển, (4) Châu Thị Trinh Liệt Tặng Ngôn, (5) Thi Truyện Tặng Lưu Tiết Phụ, và (6) Thi Thảo Cách Ngôn Vịnh Tập. Ngoài 6 tác phẩm trên Lê Quư Đôn c̣n ghi thêm tập Thụ Đức Hiên Tứ Cảnh. Thụ Đức Hiên là thư trai của Mạc Thiên Tích. Cả 7 tác phẩm trên là kết quả xướng họa thi ca của hơn 40 năm hoạt động của tao đàn Chiêu Anh Các. Rất tiếc là thời gian và chiến tranh đă làm thất lạc gần hết, nay chỉ c̣n Hà Tiên Thập Vịnh. Đây là nhan đề 10 bài thơ vịnh 10 cảnh đẹp của Hà Tiên:

 

Kim Dữ lan đào

B́nh San diệp thúy

Tiêu Tự hiểu chung

Giang Thành dạ cổ

Thạch Động thôn vân

Châu Nham lạc lộ

Đông Hồ ấn nguyệt

Nam Phố trừng ba

Lộc Trĩ thôn cư

Lư Khê ngư bạc

 

và một bài "Hà Tiên thập cảnh tổng vịnh" của Mạc Thiên Tích:

 

"Mười cảnh Hà Tiên rất hữu t́nh

Non non nước nước gẫm nên xinh.

Đông Hồ, Lộc Trĩ luôn gịng chảy

Nam Phố, Lư Khê một mạch xanh.

Tiêu Tự, Giang Thành chuông trống ỏi

Châu Nham, Kim Dữ cá chim quanh.

B́nh San, Thạch Động là rường cột

Sừng sững muôn năm cũng để dành."

 

Nói đến Mạc Thiên Tích th́ không thể không nhắc đến câu chuyện t́nh của ông với cô Nguyễn Thị Xuân và am tự Phù Cừ.

Chuyện kể vào đêm Nguyên Tiêu năm Bính Th́n (1736), Mạc Thiên Tích mở dạ tiệc, khai trương Chiêu Anh Các. Giữa dạ tiệc có một chàng trai dáng người nho nhă thanh tú, ngâm lên 8 câu thơ:


"Đêm xuân hội mở tuần trăng mới

Đốt hỏa đèn dưa sánh quả trăng

Áo trắng thanh vân tô điểm tích

Ḷng son đơn quế dải cung Hằng.

Đây Chiêu Anh Các lời châu ngọc

Ḱa Quảng Hằng Cung rạng tuyết băng.

Non nước thần tiên mừng có chủ

Cỏ nhàn mừng tỏ mặt hoa đăng."

  Mến tài người trai trẻ, Mạc Thiên Tứ kết làm bạn văn chương. Nhưng người đó không phải là nam giới mà là một người đẹp giả trai. Cô tên Nguyễn Thị Xuân, người Quảng Ngăi, theo cha vào Hà Tiên buôn bán. Sợ bị cướp hại đời cô nên cô phải giả trai. Mạc Thiên Tích đem cô về làm vợ lẽ. Vợ lớn ghen, nhân khi Mạc Thiên Tích bận việc quan, bà đem cô vợ nhỏ bỏ vào trong một cái lu đậy kín lại. Cô Xuân ngộp thở, suưt chết, th́  Mạc Thiên Tích vừa về tới. Trời sắp mưa to, Mạc Thiên Tích cho mở hết mấy nắp lu ra để hứng nước. Nhờ đó cứu được cô Xuân. Buồn t́nh cô Xuân xin được đi tu. Mạc Thiên Tích cho cất cái am ở Phù Cù cho cô tu hành. Sau này khi cô mất rồi th́ có một thi sĩ (không biết tên) đă viết bài thơ:

 

"Ngó lên am tự Phù Cừ

Thương cho người ngọc giă từ lầu son.

Về đây nương chốn thiền môn

Tay lần chuỗi hạt cho ṃn ngày xanh.

Duyên xưa chẳng bận chi t́nh

Bụi kia chi để vương cành hoa sen.

Nước trong không rửa đánh phèn

Cửa thiền thanh tịnh năo phiền sạch không"

 

Văn chương Chiêu Anh Các là văn chương chữ Hán và chữ Nôm. Sau Chiêu Anh Các t́nh h́nh bất ổn đă không cho phép có những áng văn chương tiếp nối. Măi đến đầu thế kỷ XX, sau khi Nam Kỳ Lục Tỉnh đă trở thành thuộc địa của Pháp, nền tân học với văn chương, báo chí chữ Quốc Ngữ thành h́nh và có cơ sở vững vàng, Đông Hồ Lâm Tấn Phác mới mở đầu cho văn mới ở Hà Tiên. Tác phẩm "Linh Phượng Lệ Kư" của ông đă một thời làm say mê người đọc. Ông có lập Trí Đức Học Xá. Năm 1964 ông được mời làm giảng sư trường Đại Học Văn Khoa Sài G̣n, phụ trách chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm, chuyên về  văn học Miền Nam, đặc biệt là văn học Hà Tiên.

 

Một trong những người do Trí Đức học xá đào luyện, và trở thành vợ và bạn thơ của Đông Hồ là Mộng Tuyết Thất tiểu muội Thái Lâm Úc. Bà có tập thơ "Phấn Hương Rừng" được giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn. Những truyện ngắn của bà, cùng với những tuyển tập "Dưới Mái Trăng Non", "Nàng Ái Cơ trong chậu úp" cũng rất được người đọc tán thưởng.

 

Đông Hồ và Mộng Tuyết là hai nhà thơ Miền Nam có mặt trong quyển Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân.

 

Một nữ sĩ có tiếng khác là cô Nguyễn Thị Kiêm, bút hiệu Nguyễn Thị Manh Manh. Cô từng là Tổng Thơ Kư của hội Ái Hữu Nữ Sinh Gia Long thời xưa, từng đi diễn thuyết ở nhiều nơi về quyền của người phụ nữ, từng vẽ ra cuộc đời lư tưởng của phụ nữ Việt Nam vào giữa thế kỷ XX. Có lần cô diễn thuyết ở nhà hát lớn Hà Nội với mấy ngàn người tham dự.

 

Những áng văn chương, những công tŕnh biên soạn ghi dấu sinh hoạt trí thức của người Hà Tiên không làm mất đi những bài thơ b́nh dân, mộc mạc của người dân Rạch Giá:

 

"Ở Hà Tiên mần ăn không khá

Anh về Rạch Giá anh bán cá ṃi

Thương nhau không được ngỏ lời

Nước trôi thăm thẳm biết đời nào nên.

 

"Chiều trông về núi Tô Châu

Thấy em gánh nước trên đầu giắt trâm.

Trâm đồi mồi tóc em em giắt

Mắt anh nh́n thương thiệt là thương.

Dăi dầu một nắng hai sương

Tóc em vẫn mượt mùi hương vẫn c̣n."

 

"Tóc quăn chải lược đồi mồi

Chải đứng chải ngồi quăn vẫn c̣n quăn."

 

"Gió đẩy gió đưa cho vừa ḷng bạn

Con sông Giang Thành chỗ cạn chỗ sâu.

Thăm em anh phải bắc cầu

Lội sông sợ ướt cái đầu hết duyên."

 

"Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên

Giặc Hà Tiên người ta c̣n đánh

Bậu lỡ thời như cánh chim bay

Cánh chim bay người ta c̣n chuộng

Bậu lỡ thời như ruộng bỏ hoang

Ruộng bỏ hoang người ta c̣n cấy

Bậu lỡ thời như giấy trôi sông

.. .. ..

Bậu lỡ thời như lưới giăng ngang

Lưới giăng ngang người ta c̣n cuốn

Bậu lỡ thời ai muốn bạn đâu."

 

 

GS NGUYỄN THANH LIÊM

(Vơ Văn Hạnh chuyển)

website counter