NH̀N LẠI MỘT THỜI
(Doăn Quốc Sỹ)
-LTS. Bài viết sau đây của
nhà văn Doăn Quốc Sỹ ghi lại một thời
của nhóm Sáng Tạo, trong đó có một số kỷ
niệm với nhà thơ THANH
TÂM TUYỀN , người vừa từ trần hôm
Thứ Tư tại Minnesota. Trong những người
đă đặt nền móng cho một nền văn
học tự do, khai phóng mới đó, ai c̣n và ai mất ?
Bài này được viết năm 2005, và được
nhà văn Việt Hải phổ biến lại để tưởng
niệm nhà thơ Thanh Tâm Tuyền. Bài viết như sau:
*
Năm 1954 hai vợ chồng tôi
cùng hai đứa con gái đầu ḷng và cô em gái - năm
người cả thảy - ra phi trường di cư vô
Nam. Danh từ thời thượng mệnh danh là Bắc
Cờ Năm Mươi Tư.
Thuở đó tôi c̣n là sinh viên,
gặp Trần Thanh Hiệp - sinh viên Luật Khoa - chúng tôi
bèn thành lập đoàn thể Đoàn Sinh Viên Hà Nội Di
Cư (ĐSVHNDC), Trần Thanh Hiệp đứng ra làm
chủ tịch.
Để giới thiệu
ĐSVHNDC nhân dịp chào mừng mùa Xuân năm đó, chúng
tôi cho in tập Xuân Chuyển Hướng. Tôi c̣n nhớ
trước 1954 - thuở c̣n ở ngoài Bắc- tôi sớm có
khuynh hướng viết văn, hoàn tất
được một truyện ngắn đầu tay
dưới dạng một truyện cổ tích mang tên là
"Sợ Lửa". Di cư vô Nam năm 1954, may sao tôi có
mang theo bản thảo Sợ Lửa và cho đăng vào
tập Xuân Chuyển Hướng này ! Thế là như
lửa gặp gió, tôi tiếp tục .. tiếp tục sáng
tác để chính thức đi vào nghiệp cầm bút
của nhà văn bên cạnh sự nghiệp cầm
phấn của nhà giáo sau này.
Sau tập Xuân Chuyển
Hướng tôi đứng ra làm chủ nhiệm tờ
tuần báo Người Việt nhưng cũng chỉ
được vài số là đ́nh bản. Sau đó gặp
thêm Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, hai họa sĩ Duy
Thanh và Ngọc Dũng nữa, thế là chúng tôi xúm lại
chủ trương nguyệt san SÁNG TẠO - vào năm 1956
th́ phải, nếu tôi nhớ không lầm ! Toà soạn Sáng
Tạo ở đường Kư Con. Truyện dài đầu
tay Ḍng Sông Định Mệnh của tôi đăng trên Sáng
Tạo trước khi in thành sách. Sáng Tạo ra
được tới số 30 hay 31 th́ đ́nh bản. Các
văn hữu từ đó vẫn gọi nhóm chúng tôi - Mai
Thảo - Nguyễn Sỹ Tế - Ngọc Dũng - Duy Thanh
là nhóm Sáng Tạo - Ṭa soạn ở đường Kư Con!
Thuở đó anh em chúng tôi ai
muốn đem bài đến ṭa soạn, hay đến ṭa
soạn để sửa bài th́ ít nhất cũng phải
đợi đến 9 giờ sáng hăy tới, v́ tới
giờ đó Mai Thảo mới ngủ dậy để ra
ngồi trước bàn làm việc.
Từ tám chín giờ tối
trở đi đó là giờ Mai Thảo có mặt ở
vũ trường để khiêu vũ. Thuở đó
đám sinh viên Hà Nội di cư chúng tôi đă có nơi
cư trú đàng hoàng, đó là khu Đại Học Xá
gần nhà thờ Ngă Sáu Chợ Lớn. Thỉnh thoảng
khoảng 8 giờ tối Mai Thảo lái xe đến
đón tôi cùng đi khiêu vũ, khoảng 12 giờ khuya th́
về, bao giờ cũng rủ theo một em vũ nữ
lên xe để cùng tới một tiệm ăn nào đó,
vừa ăn uống vừa nói chuyện vui, rồi
đưa em vũ nữ về nơi hẻm em ở.
Cùng là nhà giáo kiêm viết văn,
chúng tôi có ba người: tôi, anh Nguyễn Sỹ Tế
(hiệu trưởng trường Trường Sơn) và
anh Nguyên Sa ( hiệu trưởng trường Văn
Học).
Nhắc đến Nguyên Sa th́
hầu hết chúng ta đều biết bài thơ nổi
tiếng của anh "Áo Lụa Hà Đông":
"Nắng Sài G̣n anh
đi mà chợt mát
Bởi v́ em mặc áo
lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo
ấy vô cùng
Anh vẫn yêu màu áo
ấy vô cùng
Anh vẫn nhớ em
ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa Thu dài lắm
ở chung quanh
Linh hồn anh vội
vă vẽ chân dung
Bay vội vă vào trong
hồn mở cửa
Em chợt
đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt
mưa, chợt nắng chẳng ǵ đâu
Nhưng sao đi mà
không bảo ǵ nhau ?
Để anh gọi
tiếng thở buồn vọng lại .."
"Em ở đâu,
hỡi mùa Thu tóc ngắn ?
Giữ hộ anh màu
áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo
ấy vô cùng
Anh vẫn yêu màu áo
ấy vô cùng
... Anh vẫn yêu màu áo
ấy em ơi"
Sau này khi sang tới xứ Cờ
Hoa này chúng tôi ở cách mấy tiểu bang - tôi ở Houston,
Texas, anh ở Quận Cam Cali - mỗi khi có dịp gặp
nhau, tôi vẫn hỏi đùa anh:
- Chị vẫn mặc áo lụa
Hà Đông, phải không anh ?
Nhớ lại kỷ niệm
với anh Nguyễn Sỹ Tế, khi Cộng Sản
chiếm nốt miền Nam, chúng tôi cùng bị đi tù chung
và cùng bị đày lên tận miền Gia Trung thuộc núi rừng
cao nguyên Pleiku, Kontum. Vùng này sở dĩ mang tên Gia Trung v́ có
ḍng suối YA YUNG chảy qua. Tiếng địa
phương là Ya Yung được chuyển sang tiếng
Việt là Gia Trung !
Anh Nguyễn Sỹ Tế có 4 câu
thơ bằng tiếng Pháp trong tập thơ Chant d'Ya
(Tiếng Hát Gia Trung) của anh như sau:
Sur un fond de ciel balayé
Un engourdi crossant de lune
Parait las et comme épuisé
De sa lumineuse fortune ..
Và tôi dịch thoát nghĩa thành 4
câu thơ Việt như sau:
Đỉnh trời
gió quét mây tan tác
Trăng lưỡi
liềm ngơ ngác lạnh căm
Trăng sao
đượm vẻ u trầm
Trăng sao quá
đỗi âm thầm hỡi trăng
Vào năm 1956 - cách đây đúng
nửa thế kỷ - khi tập truyện cổ tích
Sợ Lửa của tôi ấn hành lần đầu, ông
bạn Nguyễn Sỹ Tế của tôi viết TỰA và
Thanh Tâm Tuyền viết BẠT. Với tinh thần tri âm
tri kỷ, ông bạn Thanh Tâm Tuyền qua bài thơ mang tên
"NHỊP BA" đă nêu lên ḷng ước muốn
thường xuyên nóng bỏng trong tâm tư thầm kín
của tôi: đó là ước muốn sao cho đất
nước sớm được thống nhất tự
do !
Xin quư vị hăy cùng tôi
thưởng thức bài thơ "NHỊP BA" của Thanh
Tâm Tuyền viết thay lời Bạt cho "Sợ
Lửa"
NHỊP BA
(Tặng
Doăn Quốc Sỹ)
Ngực anh thủng
lỗ đạn tṛn
Lưỡi lê
thấu phổi
Tim c̣n nhảy
đập
Nhịp ba nhịp ba
nhịp ba
T́nh yêu, tự do măi
măi
Anh về ngồi
dưới vườn nhà
Cây liền kết
trái
Hoa rụng tơi
tơi ủ xác
Anh chạy nhịp
hai qua cách trở
Mắt bừng
Thống nhất,
tự do
Ngoài xa thành phố
Bánh xe lăn nhịp
ba
Áo màu xanh hớn
hở
Nhát búa gơ
Long máy quay
Cửa nhà thi nhau
lớn
Nhịp ba, nhịp
ba, nhịp ba
T́nh yêu, tự do, măi
măi
Sóng bồi phù sa
Ruộng lúa trổ
hoa
Núi cao uốn cây
rừng
Nhịp ba, nhịp
ba, nhịp ba
T́nh yêu tự do măi măi
Đất
nước ào vỗ nhịp
Triều biển
chập chùng
Hà Nội, Huế,
Sàig̣n
Ôm nhau nức nở
Có người
cầm súng bắn vào đầu
Đạn nổ
nhịp ba
Không chết
Anh ngồi nhỏm
dậy
khoẻ mạnh
lạ thường
Bước ai thánh thót
Nhịp ba
T́nh yêu
Tự do
măi măi
T́nh yêu tự do măi măi
T́nh yêu tự do
măi măi anh ơi
THANH TÂM TUYỀN
*
Thấm thoát tính tới nay -
Năm 2005 đă vừa một nửa thế kỷ qua
rồi. Anh em Sáng Tạo chúng tôi nay chỉ c̣n:
Doăn Quốc Sỹ, Trần Thanh
Hiệp, Thanh Tâm Tuyền và họa sĩ Duy Thanh.
Nguyễn Sỹ Tế, Mai
Thảo và họa sĩ Ngọc Dũng đă ra
người thiên cổ !
DOĂN QUỐC SỸ
Houston ngày 12 tháng 5,
2005
(MỸ LOAN sưu
tầm, VIỆT HẢI chuyển)