Từ "BONJOUR VIETNAM" đến "THẰNG MA CÔ"
(Trần Vĩnh
Tường)
Một ngày đẹp trời
tháng Hai, nhiều người nhận đuợc món quà
nhỏ qua internet. Bài hát ngắn nhưng nối
được giấc mộng dài. "Bonjour Vietnam" như
một cơn sốt. Bản nhạc không có MC hoa ḥe hoa sói,
không ca sĩ quằn quại nức nở. Thính giả
nghiêng người lắng nghe. Thổn thức. Mối
thổn thức dịu dàng, sâu lắng và êm mượt.
Trong một thời gian ngắn,
cả trong lẫn ngoài nước, từ người
biết tiếng Tây đến không biết tiếng Tây,
đều tỏ bầy niềm ngây ngất đầy
ắp tin yêu và hy vọng về Phạm Quỳnh Anh và "Bonjour
Vietnam". Vài bài viết c̣n rất trân trọng gán cho Marc
Lavoine và Phạm Quỳnh Anh toan tính cứu rỗi, mà có
lẽ chính họ cũng không nghĩ đến ngoài
việc sáng tác, tŕnh bày, và .. giữ bản quyền.
Bản nhạc ngay lập tức
được phóng lên xa lộ internet, phút chốc biến
thành một trận mưa rào xóa sạch loại nhạc
nhàn nhạt từa tựa giống nhau nghe măi hóa nhàm. Khóc
chị Hằng tiếc chú Cuội. Tương tư
thất t́nh. Tất cả niềm riêng trong "buồng
tim" chợt biến thành "có những niềm riêng mà
ai .. cũng biết" bày hàng trên dĩa nhạc, sân khấu
thành một trận than khóc tập thể vừa mếu
vừa máo c̣n hơn mất nước.
Phạm Quỳnh Anh và Marc đă
làm hơn công việc của người nghệ sĩ.
Họ viết và hát như những người tự do.
Không hận thù Nam Bắc. Không mặc cảm da vàng
nhược tiểu. Rất hồn nhiên, "Bonjour Vietnam"
lấy cái đẹp của t́nh này gột rửa cái tàn
nhẫn trong tâm khác.
Riêng Marc, tại sao điều anh
thổ lộ trong "Bonjour Vietnam" hệt như
người Việt, là một bí mật có lẽ chỉ
Marc mới trả lời cho ổn. Dù trích dẫn "những
chiếc trực thăng giận dữ" (des helicoptères
en colère) của Francis F. Coppola, ca từ của Marc thật
khác với cuốn phim Apocalypse Now của Coppola, chứa
nhiều cảnh ngớ ngẩn đáng bật cười
và cũng đáng giận về cách nh́n của Coppola về
trận chiến Việt Nam, dù Cappola tuyên bố: "Phim
của tôi không chỉ thuần là điện ảnh. Nó
không nói về Việt Nam. Nó chính là Việt Nam."
Giọng hát Phạm Quỳnh Anh
thiếu sự điêu luyện của một người
thợ hát, hơi vụng dại nữa là khác, nhưng
thank khiết như một ḍng suối. Thính giả ríu rít
soi bóng giọt châu lă chă thấy giấc mơ ḿnh long lanh
đáy nước. "Bonjour Vietnam" bỗng chốc lát
thành một cái biển cho người ta mang cả khối
sầu ly hương trút xuống. Chết thật ! Quê
hương gần quá ! Ngay trước mặt. Những
h́nh ảnh linh động của quê hương qua ống
kính của Andy được Donny Trương ghép làm
nền cho "Bonjour Vietnam" khiến thính giả chói
chang trước hạnh phúc đột ngột đến
bàng hoàng ứa nước mắt. Ḱa, mái rạ, bến
sông xưa, trăng in sóng. Ồ, tà áo nữ sinh, em bé
nhếch nhác, thập tự vươn lên trong màn
sương mờ ảo ..
Có phải v́ vậy mà thính giả
yêu "Bonjour Vietnam" nhanh đến thế hay v́ lời
ca của "Bonjour Vietnam" đă khơi đúng vết
thương sâu thẳm trong ḷng người Việt: thân
càng trôi dạt, ḷng càng muốn trở về.
Cho đến bây giờ 90%
người Việt vẫn là nông dân. 10% dù ở thành thị,
ông bà cha mẹ vẫn là nông dân. Hơn một thế
kỷ, bom đạn đẩy dân quê ra khỏi thôn làng.
Xác thôn nữ dưới mương. Thây thanh niên bằm
nát. Trẻ thơ khô héo quăn queo. Ông già bà cả bẻ
làm ba làm bẩy. Rặng tre hàng cau cụt đầu.
Ruộng lúa nương dâu cháy rụi. Dẫu nhạc
sĩ lạc loài ở thành phố vẫn cố tô vẽ
một thôn quê đẹp mờ ảo như Đường
thi, "Người ơi một ngày nắng tơ vàng
hiền ḥa hồn có mưa sa. Người ơi
đường xa lắm con đường về làng
từ mấy thu qua .." [1] , cái quê gọt giũa đó
nghe ra rất lầu son gác tía, hay nhưng không cảm.
Thật ra quê hương và
niềm luyến tiếc bao giờ cũng là mối quan tâm
của nghệ sĩ, "Ta ra đi một chiều
thắm vang lời ca buồn trong khóm lá, nỗi u hoài ngày
tháng khôn nguôi". [2] Những người di cư vào Nam
năm 1954 cứ ngỡ ra đi không mang theo
được chút ǵ ngoài vài cái tay nải may quàng. Có hay
đâu trong ḷng những người ly hương năm
ấy đều ẩn giấu một hành trang bí mật,
đó là ḷng thương nhớ quê hương. Nỗi
thương nhớ oan khiên ấy bốc tận trời,
ông Nguyễn Bính kêu lên "Em ra bến ấy trông về
Bắc. Chỉ thấy mây trôi chẳng thấy làng".
Năm 1975, một lần nữa
sự lựa chọn giữa lưu xứ và quê nhà lại
như một tiếng thét rền vang làm thế giới
dửng dưng phải rùng ḿnh. Không một dân tộc nào
chỉ trong một thế hệ, lặp lại một
lần thứ hai cuộc hành tŕnh sinh tử như thế.
Biết trả lời thế nào
cho bồn chồn của thế hệ Phạm Quỳnh
Anh ? "Raconte moi le vieil empire .. Hăy kể cho em nghe về
vương triều cũ .." Nào có phải lần
đầu dân tộc Viêt Nam phiêu lưu như thế ?
Kể cho em nghe cuộc hành tŕnh gian nan của một
Việt tộc kiêu dũng và cô độc trong cơn
đồng hóa như nước lũ của ḍng Hán.
Kể cho em nghe "một ngàn năm nô lệ giặc
Tầu, tám mươi năm nô lệ giặc Tây".
Thật thà kể hết cho em về triều đại
cuối cùng có 13 ông vua, duy chỉ 6 ông băng hà yên ổn,
lăng miếu rơ ràng. C̣n 7 ông vua khác đều bị
bức tử thảm khốc hay lưu đầy biệt
xứ. [3]
Cũng thành thật kể cho em
nghe vài trăm năm kiêu binh/nội chiến tự tàn phá
lẫn nhau. Từ 1592 đến 1789 có sông Gianh, Đàng
Trong/Đàng Ngoài. Từ 1954 đến 1975 có sông Bến
Hải, quốc gia/cộng sản. Từ 1975 đến
nay là cả một Thái B́nh Dương, Việt
kiều/Việt cộng. Kể hết. Kể hết.
Nhưng chịu thua, không thể giải thích nổi cho em
nghe tại sao 30 năm rồi, từ 1975 đến nay,
súng đạn Nga/Tầu/Tiệp/Mỹ trải trên
đất nước Việt Nam đă ngừng, nhưng
giữa người Việt, lời lẽ ném vào nhau c̣n tàn
phá hơn bom đạn ?
Làm sao có thể hân hoan nói với
em rằng trang sử đẫm máu của dân tộc đă
khép lại, rằng đây là dịp may ngàn năm một
thuở dân tộc Việt thống nhất từ Bắc
đến Nam. Làm sao trả lời em người Việt
c̣n chờ ǵ ? Hay phải chờ .. một ông Tây chỉ
đường chỉ nẻo theo như thói quen khốn
khổ khốn nạn lúc nào cũng chỉ cúi đầu
sát đất cam tâm làm nô lệ "vun xới giấc
mơ của người khác, hoặc để
người khác vun xới giấc mơ hộ ḿnh".
Khúm núm xem ông Tây đ̣i cái này, qú lết đợi ông
Nhật cho phép cái nọ. Cả hai miền Nam Bắc
lạy van rước ông Mao ông Mỹ ông Nga trút mớ bom
đạn phế thải lên đầu dân Việt. Sung
sướng thấy số bom này nhiều hơn cả bom
dùng trong Đệ nhị Thế chiến.
Bây giờ tượng quí ông
Staline đă bị hạ bệ. Nhưng cả nước
Việt, học tṛ vẫn phải học "chủ
nghĩa Mác nói thế này thế nọ", mà không hề
đuợc quyền thắc mắc ông Karl Marx nếu
sống lại sẽ nói ǵ khi thấy các ông Mao, ông Lenin, ông
Staline khai triển ư tưởng của ông thành một
chủ nghĩa và áp dụng nó theo con đường riêng
của họ, một con đường khiến họ
trở thành bất tử bằng máu của người khác.
Phạm Quỳnh Anh hát rồi, ông
Tây Marc Lavoine viết hộ rồi. Người cầm bút
lên tiếng rồi. Dân lành vô tội cũng góp ư kiến rồi.
Chỉ c̣n thiếu quí ông "thằng ma cô" [4] nữa
là dân tộc Việt Nam có thể gặp nhau cuối con
đường cay đắng, dù trễ tràng đến 30
năm. Nhưng nếu ồn ào thổn thức xong, "Bonjour
Vietnam" lại ch́m xuống đáy hồ, như
tiếng sáo ai oán của ông Vơ Thành Minh năm ấy [5] th́
liệu thế hệ sau Phạm Quỳnh Anh có c̣n
đủ tâm tư, đủ niềm hoài vọng,
đủ thanh khiết hát một bài như thế ?
Chẳng lẽ lịch sử nghiệt ngă với dân
Việt đến thế ? Biết lùng kiếm đâu ra
một ông Tây tử tế. Lại thắp nến ê a
cầu nguyện cho có một ông Tây ? Chỉ tốn
tiền mua nến.
Tháng Ba, 2006
TRẦN VĨNH TƯỜNG
(BAI CHUYEN chuyển)
--------------------------------------------------------------------------------
[1] "Hương xưa",
Cung Tiến
[2] "T́nh quê hương",
Việt Lang, Hưng Yên 1946
[3] Sáu v́ vua có lăng mộ: Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng
Khánh, Khải Định. Bẩy vua kia là Dục Đức,
Hiệp Ḥa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Bảo
Đại
[4] Phan Văn Hưng, Australia 2002: "Bạn
bè của tôi, tựa chiếc lá trong trận băo dân tộc
/Thằng thật tài ba, th́ đạp xích lô / C̣n thằng
giàu cha, là thằng ma cô / C̣n thằng đảng viên,
sống trong ân hận .."
[5] Năm 1954, bên bờ hồ
Leman, Thụy Sĩ, ông Vơ Thành Minh cắm lều thổi sáo
phản đối Hiệp định Genève chia cắt
Việt Nam làm hai mảnh.